Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ luận văn: “Phi tội phạm hóa trong bộ luật Hình sự 2015...

Tài liệu luận văn: “Phi tội phạm hóa trong bộ luật Hình sự 2015

.PDF
86
285
55

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO PHI TỘI PHẠM HÓA TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017 HÀ NỘI - năm VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO PHI TỘI PHẠM HÓA TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 62 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ HÀ NỘI, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Phi tội phạm hóa trong bộ luật Hình sự 2015” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình Tác giả luận văn Nguyễn Thị Phương Thảo MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHI TỘI PHẠM HÓA TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 .........................................................................11 1.1. Chính sách hình sự Việt Nam về tội phạm và phi tội phạm hóa ........................11 1.2. Lý luận về tội phạm và phi tội phạm hóa ...........................................................28 CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH PHI TỘI PHẠM HÓA TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 ....................................................................................48 2.1. Sự thể hiện nội dung phi tội phạm hóa tại Phần những quy định chung trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015. ....................................................................................48 2.2. Sự thể hiện nội dung Phi tội phạm hóa tại phần tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 ....................................................................................64 CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ PHI TỘI PHẠM HÓA TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHI TỘI PHẠM HÓA TRONG THÒI GIAN TỚI ..................................69 3.1. Quan điểm tác giả về quá trình phi tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự năm 2015 .........................................................................................................................69 3.2. Đánh giá việc phi tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự năm 2015.....................71 3.3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện ..............................................................77 KẾT LUẬN ..............................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự CSPL : Chính sách pháp luật CSHS : Chính sách hình sự PTPH : Phi tội phạm hóa TNHS : Trách nhiệm hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ VI thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2000 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, BLHS đã góp phần rất quan trọng trong việc quản lý xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân. Tuy nhiên, sau gần 14 năm thi hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt. Đặc biệt, việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế, xã hội và đối ngoại. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Một trong những nguyên nhân là do BLHS điều chỉnh tất cả các tội phạm thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, có lĩnh vực tương đối ổn định nhưng có lĩnh vực lại có tính biến động cao như lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ. Khi một lĩnh vực nào đó có sự thay đổi thì đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung BLHS, nếu không sẽ nảy sinh bất cập, còn nếu sửa đổi, bổ sung liên tục thì không bảo đảm được tính ổn định của BLHS với tính chất là một văn bản pháp luật mang tính pháp điển hóa cao. Đây là những vấn đề thực tiễn đặt ra đòi hỏi BLHS hiện hành phải được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm Bên cạnh đó, xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức 1 khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng, chống tội phạm như: các Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống ma tuý; Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ bổ sung cho Công ước; Công ước chống tham nhũng; các điều ước quốc tế liên quan đến chống khủng bố, tài trợ khủng bố,... Bên cạnh đó, trong quan hệ hợp tác song phương với các quốc gia, Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và hiệp định dẫn độ với nhiều nước trên thế giới. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó có vấn đề tội phạm có tính chất quốc tế. Sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm do người nước ngoài thực hiện trong những năm qua đã và đang đặt ra những thách thức rất lớn cho các cơ quan chức năng của Việt Nam. BLHS hiện hành chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm nói chung và thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự giữa nước ta với các nước nói riêng. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên liên quan đến lĩnh vực hình sự nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Bên cạnh việc xã hội đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, vẫn còn đó nhiều vẫn đề bất cập trong việc áp dụng, thi thành các chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng. Do vậy, việc cải cách tư pháp, hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt là chính sách hình sự đã và đang là việc làm cần thiết, cấp bách để chuẩn bị cho 1 hành lang pháp lý bền ổn, tạo điều kiện phát triển mọi mặt của đất nước, ngăn ngừa và phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả và phù hợp với Luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và làm thành viên. 2 Nhận biết được tầm quan trọng của vấn đề nên từ sau năm 2000, Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và các Nghị quyết của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 48/NQTW ngày 24/5/2005của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW) và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW). Trong các nghị quyết nàyĐảng ta chỉ rõ cần phải “coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đây là những định hướng quan trọng cho việc nghiên cứu, hoàn thiện quy định của BLHS nhằm thể chế hóa quan điểm mới về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình hiện nay. Sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân thể hiện sự đổi mới nhận thức trong việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền này của người dân trên thực tế. Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng". Sự phát triển, bổ sung 3 và đề cao quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành để làm cho các quyền này của người dân được thực hiện trên thực tế. Theo đó, một mặt, BLHS phải xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân nêu trên; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi hệ thống hình phạt theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nhiệm vụ của pháp luật hình sự là nhằm bảo vệ các lợi ích của con người, của xã hội và của nhà nước, đồng thời góp phần bảo vệ hoà bình và an ninh của nhân loại khỏi sự xâm hại của tội phạm cũng như ngăn ngừa riêng (ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm mới của những người đã thực hiện tội phạm nào đó) và ngăn ngừa chung (ngăn ngừa các thành viên khác trong xã hội thực hiện tội phạm đồng thời giáo dục các công dân có ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm). Để thực hiện được nhiệm vụ này trong điều kiện nền kinh tế xã hội luôn có những biến động, thay đổi thì việc xác định loại hành vi như thế nào sẽ bị ghi nhận trong pháp luật hình sự là tội phạm (gọi là tội phạm hóa) và ngược lại, loại trừ khỏi pháp luật hình sự hiện hành loại hành vi nào đó (phi tội phạm hóa) luôn là một đòi hỏi lớn đối với nhà làm luật. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, tội phạm hóa và phi tội phạm hóa ( PTPH) là hai quá trình trái ngược nhau nhưng rất cần thiết trong chính sách về pháp luật hình sự. Đánh giá đúng tính chất nguy hiểm hoặc không còn nguy hiểm cho xã hội của từng loại hành vi vi phạm pháp luật để từ đó xác định có cần thiết sử dụng chế tài hình sự - loại chế tài mạnh nhất, nghiêm khắc nhất để áp dụng với chủ thể của hành vi là việc làm hết sức cần thiết. Nhận thức không đúng chính sách về tội phạm và hình phạt có thể dẫn đến sai lầm trong công tác lập pháp, trong thực tiễn thi hành pháp luật kéo theo hệ lụy làm giảm đi hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Không hiểu đúng chính sách về tội phạm hóa và PTPH sẽ làm cho việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng trở nên gò bó, cứng nhắc và dẫn đến tùy tiện, không đạt được mục đích răn đe, ngăn ngừa tội phạm. 4 Xuất phát từ thực tế đã nêu, và nhận thấy quá trình thực hiện tội phạm hóa, PTPH vẫn đang không ngừng diễn ra trong các lần pháp điển hóa BLHS để dần hoàn thiện pháp luật, giữ vững niềm tin của nhân dân vào các chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đấu tranh, phòng, chống và trấn áp tội phạm và nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề tội phạm hóa và PTPH trong công cuộc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm nên tôi đã chọn đề tài: “Phi tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015” làm Luận văn Thạc sĩ nhằm làm sáng tỏ thêm nội dung, vai trò và ý nghĩa của CSHS về PTPH được thể hiện trong BLHS 2015. 2. Tình hình nghiên cứu CSHS nói chung và trong đó có PTPH nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Tuy nhiên, thời gian qua trong khoa học pháp lý chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về chính sách này. Thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu chung và đề cập tới vấn đề tội phạm hóa và PTPH với tính chất là một tổng thể như: Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay của GS – TSKH Đào Trí Úc và tập thể tác giả (1994), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), PGS – TSKH Lê Cảm (2005), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội; Một số vấn đề cơ bản về chính sách hình sự dưới ánh sáng. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2002) của PGS, TS. Hồ Trọng Ngũ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tội phạm hoá và phi tội phạm hoá trong luật hình sự Việt Nam, Lô Văn Lý, Luận văn thạc sỹ Luật, Trường ĐH Luật TP HCM năm 2000, Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự 1999 và ý nghĩa, GS – TSKH Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8 năm 200, số 106 năm 2003... Các công trình nghiên cứu của các tác giả chủ yếu dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành hoặc một phần trong các các giáo trình giảng dạy, hoặc một phần trong sách chuyên khảo...Luận văn của Lò Văn Lý về chính sách này cũng đã nghiên cứu quá trình tội phạm hóa và phi tội phạm hóa trong Luật hình sự Việt Nam từ trước lần pháp điển hóa BLHS năm 2009. 5 Các công trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Khoa học Pháp lý, Tạp chí Kiểm sát… các tham luận tại Hội nghị, Hội thảo, các bài viết chuyên đề. Tác giả cho rằng đây là nguồn tài liệu phong phú bởi nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về CSHS, góp phần làm rõ theo từng góc độ, nội dung về CSHS hiện nay. Tuy nhiên, điểm yếu được bộc lộ ở đây là quá trình nghiên cứu rơi vào hướng tản mản, chưa tổng kết hay đánh giá được toàn diện khiến cho người đọc, người nghiên cứu khi tìm hiểu còn khá băn khoăn vì tiếp xúc dưới góc độ nội dung nhỏ. Chính vì vậy việc nghiên cứu chính sách hình sự trong lĩnh vực “ Phi tội phạm hóa trong Bộ luật Hình sự 2015” là thực sự cần thiết có nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong điều kiện đổi mới chính sách và pháp luật ở nước ta. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình PTPH trong BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 ngày 19-6-2009. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ cố gắng cụ thể hóa các trường hợp được PTPH, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá xu hướng của quá trình PTPH trong BLHS Việt Nam 2015 và những đề xuất đối với xu hướng này trong tương lai. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để phục vụ mục đích nghiên cứu nêu trên, những nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn sẽ là: Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu chính sách về PTPH trong BLHS 2015 mà đưa ra môt số ý kiến về lý luận đối với việc PTPH một số hành vi, góp phần tiếp tục hoàn thiện chính sách về tội phạm và hình phạt hiện nay,bảo đảm CSHS ngày càng phù hợp nguyện vọng của nhân dân và có những tác động tích cực đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, tthực hiện chính sách nhân đạo về quyền con người tại Việt Nam. Cũng từ nghiên cứu này mà xác định vị trí, vai trò của 6 chính sách tội phạm và hình phạt trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, phân tích làm rõ các khái niệm và nội dung cơ bản của chính sách tội phạm về PTPH. Từ đó tiếp tục, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách về tội phạm và hình phạt đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Về mặt thực tiễn: Từ việc đề tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người - mục tiêu quan trọng nhất của các nhà lập pháp Việt Nam trong quá trình thực hiện PTPH đối với một số hành vi, luận văn sẽ phân tích, bình luận từng tội danh được PTPH trong BLHS năm 2015,đưa ra các kiến nghị, đề xuất về PTPH trong thời gian tới. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những hành vi được các nhà làm luật PTPH trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự, các số liệu, các quan điểm của các nhà nghiên cứu pháp luật và một số đề xuất về PTPH đối với các tội phạm cụ thể với mục đích để chính sách pháp luật đi vào cuộc sống và trở thành một bộ phận không thể tách rời trong cuộc sống, đáp ứng yêu cầu của người dân để đảm bảo mỗi người dân Việt Nam luôn “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” 3.4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những chính sách hình sự liên quan đến phi tội phạm hóa trong Bộ luật Hình sự 2015, cụ thế là khái niệm, sự cần thiết, vai trò, mục tiêu, ý nghĩa của phi tội phạm hóa trong chính sách hình sự của nước ta. Luận văn còn kết hợp với việc thống kê quá trình phi tội phạm hóa đối với các tội phạm cụ thể qua hai lần pháp điển hóa Bộ luật Hình sư 2015 từ đó nêu ra một số cơ sở lý luận, đề xuất hoàn thiện chính sách hình sự trong thời gian tới. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về Nhà nước, pháp luật, về quyền công dân, quyền con người cũng như đảm bảo pháp luận phải phù hợp với cuộc sống, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Ngoài ra, 7 luận văn còn sử dụng, tiếp thu, kế thừa các thành tựu khoa học của các chuyên ngành khoa học xã hội, các luận điểm nghiên cứu của các nhà khoa học, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý được đăng trên các tạp chí. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng trong luận văn là: - Phương pháp phân tích: Phương pháp được sử dụng trong luận văn khi lý giải, phân tích những điều luật được các nhà làm luật Phi tội phạm hóa một phần hay toàn bộ trong BLHS 2015; các nhận xét, đánh giá, đề xuất đối với việc thực hiện PTPHcũng như phân tích tình hình tội phạm hiện nay - Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh diễn biến về tình hình tội phạm, so sánh đối chiếu các quan điểm, lý luận cũng như các quy định trong BLHS qua các thời kỳ.. - Phương pháp thống kê xã hội học: Phương pháp này được thể hiện thông qua những tài liệu, số liệu cũng như các báo cáo của các cơ quan điều tra về tình hình tội phạm của nước ta trong thời gian vừa qua để làm sơ sở phân tích, nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân, giải pháp. Bên cạnh đó, phương pháp này còn được thể hiện ở việc sưu tầm các số liệu trên mạng Internet cũng như các thống kê liên quan của các cơ quan hữu quan như Viện kiểm sát nhân dân, các báo cáo trước Quốc hội, các báo cáo trong các hội thảo khoa học về chính sách pháp luật, các báo cáo của các học giả… Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp tiếp cận khác như: Lịch sử, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch... đồng thời sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước như: Bộ luật Hình sự các năm 1985, 1999, 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 ngày 19-6-2009, các Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định, Chương trình hành động... làm tài liệu nghiên cứu. 5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Đề tài nghiên cứu về “Phi tội phạm hóa trong Bộ Luật Hình sự 2015” đã cố gắng tập trung giải quyết các nội dung mang tính khoa học sau: 8 - Phân tích và tổng hợp một các cụ thể và chi tiết nhất các hành vi được các nhà làm luật Phi tội phạm hóa qua những lần pháp điển hóa và sửa đổi bổ sung Bộ Luật Hình sự, đặc biệt là Bộ luật Hình sự năm 2015. - Làm rõ được sự cần thiết, vai trò, mục tiêu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách hình sự liên quan đến việc PTPH một số hành vi trong giai đoạn phát triểm mới của nhà nước pháp quyền; đưa pháp luật vào đời sống nhằm giáo dục người dân ý thức pháp luật, hướng người dân thực hiện “Sống, là việc theo Hiến pháp và pháp luật”. - Đề xuất phi tội phạm hóa đối với một số hành vi nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng nhân đạo hóa và nêu lên các nhận định về diễn biến tội phạm trong giai đoạn tới nhằm cảnh báo các nhà làm luật có những điều chỉnh chính sách hình sự phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Là công cụ hữu hiệu Nhà nước ta sử dụng để đấu tranh với tội phạm chính là pháp luật hình sự. Khả năng tác động đến hiệu quả của cuộc đấu tranh với tội phạm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó phải tính đến việc đánh giá đúng đắn và xác định chính xácnhững hành vi nguy hiểm cho xã hội tương ứng với các quy định về tội phạm. Vì thế, đòi hỏi phải phân hóa cao độ các loại hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các đạo luật hình sự và đồng thời phải bảo đảm thường xuyên theo dõi, bổ sung, sửa đổi kịp thời những quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Quá trình sửa đổi, bổ sung để từng bước hoàn thiện Bộ luật hình sự thường được thực hiện theo hai xu hướng: 1. Quy định bổ sung những hành vi mới được coi là tội phạm hoặc gia tăng mức độ hình phạt cho một số hành vi được coi là nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. 2. Loại bỏ một số hành vi được coi là tội phạm hoặc giảm thiểu các biện pháp và mức độ nghiêm khắc của hình phạt đối với một số hành vi tội phạm khác. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bất cứ lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội nào cũng xuất hiện những 9 biến đổi xã hội làm giảm, làm mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi nào đó.Chính vì lẽ đó cần rà soát tất cả mọi lĩnh vực để xác định những hành vi cần phi tội phạm hóa và rõ ràng, đây không chỉ là trách nhiệm riêng của cơ quan lập pháp mà trước hết là các nhà lý luận. 6.2. Về mặt thực tiễn Ý nghĩa thực tiễn của luận văn, ngoài việc đưa ra những đóng góp về việc đổi mới chính sách hình sự phục vụ cuộc đấu tranh với tội phạm là những kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn thi hành Bộ Luật hình sự và cả những đạo luật hình sự trước đây. Đồng thời luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng, cho các nhà hoạt động thực tiễn và cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành: Chương 1: Lý luận chung về phi tội phạm hóa trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 Chương 2: Quá trình phi tội phạm hóa trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 Chương 3. Đánh giá phi tội phạm hóa trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 và phương hướng, giải pháp thực hiện phi tội phạm hóa trong thời gian tới. 10 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHI TỘI PHẠM HÓA TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 1.1. Chính sách hình sự Việt Nam về tội phạm và phi tội phạm hóa 1.1.1. Chính sách Hình sự Việt Nam qua các thời kỳ Theo dõi việc sự phát triển của lập pháp hình sự Việt Nam từ khi có bộ luật hình sự đầu tiên cho đến nay thấy rằng, chúng ta đã ban hành 2 BLHS và trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung ( 5 lần). Mỗi lần ban hành hay sửa đổi, bổ sung BLHS là một bước tiến quan trọng về tư duy cũng như kỹ năng lập pháp hình sự, là một bước phát triển cao trong việc xây dựng chính sách hình sự. Quá trình hình thành chính sách hình sự của nước ta có thể phân làm các giai đoạn sau: - Giai đoạn 1945 – 1954; - Giai đoạn 1954 – 1975; - Giai đoạn 1975 – 1999; - Giai đoạn 1999 đến nay. Trong giai đoạn 1945 – 1954, phục vụ mục đích của Cách mạng Việt Nam là tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, giành độc lập, thống nhất dân tộc một cách trọn vẹn ,chính sáchh hình sự của nhà nước ta lúc bấy giờ là:  Chống sự chia rẽ gây thù hằn dân tộc;  Đấu tranh chống bọn địa chủ, cường hào, bọn phản động làm tay sai cho giặc, ngoan cố chống lại Cách mạng Việt Nam;  Đấu tranh chống bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai;  Kiên quyết và nghiêm khắc đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng;  Khoan hông với người nhất thời phạm tội;  Coi cuộc đấu tranh chống tội phạm là bộ phận của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; Như vậy, trước yêu cầu của thời cuộc và tình hình chính trị xã hội lúc bấy giờ, 11 chính sách hình sự cơ bản đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn và được thể hiện trong các văn bản pháp luật hình sự. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành 3 Sắc lệnh quan trọng liên quan tới việc củng cố chính quyền nhân dân trong hoàn cảnh đất nước trong cảnh thù trong, giặc ngoài: đó là Sắc lệnh số 33a cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người nguy hiểm cho nền Dân chủ cộng hoà Việt Nam, để đưa đi an trí; Sắc lệnh số 33b định thể lệ cho Ty Liêm phóng và Sở Cảnh sát theo mỗi khi bắt người; Sắc lệnh số 33c về việc thiết lập các Tòa án quân sự tại Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ với chức năng xét xử người có hành vi phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.Theo Sắc lệnh số 33c, những quyết nghị của Toà quân sự sẽ đem thi hành ngay, không có quyền chống án, trừ một số trường hợp đặc biệt.Những văn bản này thực sự mang lại hiệu quả cao, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống Pháp thành công. Giai đoạn 1954 – 1975 là giai đoạn có những đặc thù: Nhà nước ta cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng này đã định hướng cho sự hình thành chính sách hình sự trong giai đoạn này với các nội dung chính sau:  Bảo vệ sự nhiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;  Ưu tiên bảo vệ và phát triển hình thức sở hữu CNXH;  Bảo vệ vững chắc nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa;  Đấu tranh chống phản cách mạng ở miền Bắc, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, trật tự và trị an xã hội;  Đấu tranh chống các loại tội phạm khác trong xã hội, giảm mức tối thiểu loại tội phạm này; Trong giai đoạn này đối với chính sách hình sự về việc nghiêm trị bọn phản cách mạng cố ý chống lại tổ quốc và sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc được thực hiện trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, theo đó đối với tội phản cách mạng đã quy định mức hình phạt thấp nhất cho các tội cụ thể là 2 năm tù còn mức hình phạt cao nhất là tử hình. Đối với những tội phạm xâm phạm tài sản 12 XHCN, hình phạt cụ thể được đặt ra cho các tội phạm tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN cũng hết sức nghiêm khắc. Một bước tiến bộ vược bậc trong chính sách hình sự giai đoạn này là việc thừa nhận chính sách khoan hồng trong việc xử lý tội phạm. Tuy nhiên, một số tội phạm cụ thể còn khá nghiêm khắc như các tội xâm phạm đến tài sản XHCN và các tội về phản cách mạng, chống phá nhà nước XHCN. Từ năm 1975 đến nay tình hình thế giới và trong nước diễn ra hết sức phức tạp, nhà nước ta bên cạnh việc nỗ lực để ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong nước, mặt khác còn phải đối phó với thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá sự ổn định chính trị của đất nước. Thêm vào đó nhà nước ta cũng cần có chính sách phù hợp để vừa đấu tranh, vừa thu hút đầu tư nước ngoài và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Do đó, chính sách hình sự của nhà nước ta đã từng bước thể hiện rõ nét tính thời đại,gắn chính sách hình sự với tiến bộ khoa học, công nghệ, kỹ thuật; tiến bộ xã hội và sự đa dạng của các mối quan hệ quốc tế đặc biệt chính sách hình sự thể hiện tính hài hòa giữa chiến thuật và chiến lược trong thời kỳ đổi mới. Cụ thể:  Đấu tranh phòng chống cũng như nghiêm khắc trừng trị bọn buôn lậu, buôn bán ma túy và các tội phạm kinh tế, tham những;  Bảo vệ chặc chẽ nền an ninh quốc gia, đặc biệt là chống các hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hoạt động lật đổ, âm mưu diễn biến hòa bình;  Đấu tranh phòng chống sự hình thành tội phạm có tổ chức;  Mở rộng quan hệ hợp tác trong đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, đặc biệt là các loại tội phạm quốc tế như buôn bán ma túy, làm và buôn bán hàng giả, mua bán phụ nữ, trẻ em, tội phạm khủng bố. Ở nước ta, LHS hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.Trong mỗi giai đoạn, việc Nhà nước sử dụng PLHS để đấu tranh chống các hành vi nguy hại cho xã hội đều xuất phát từ nhu cầu bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi này hay hành vi khác đều luôn được 13 xác định và đánh giá từ góc độ lợi ích của Nhà nước. Trước thời điểm ban hành BLHS 1985, việc qui định tội phạm và hình phạt do nhiều cơ quan Nhà nước thực hiện và được thể hiện trong các Sắc luật, Sắc lệnh của Chủ tịch nước, các Luật của Quốc hội, các Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội hay Hội đồng Nhà nước. Cũng trước thời điểm này, nguyên tắc tương tự trong LHS được áp dụng để đáp ứng những yêu cầu cấp bách của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mà hoạt động lập pháp hình sự chưa thể khắc phục được. Vì vậy, trong thời kỳ đó, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự như Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có quyền coi một hành vi chưa được quy định trong LHS là tội phạm. Thực tế ấy rõ ràng đã thể hiện sự bất cập của hoạt động lập pháp, dễ dẫn đến sự tùy tiện trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về hình sự, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua BLHS 1985 - BLHS đầu tiên đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta. Từ đó đến nay, cơ quan duy nhất có thẩm quyền thông qua, ban hành đạo luật hình sự là Quốc hội - Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Như vậy, Quốc hội là cơ quan lập pháp có thẩm quyền quy định trong BLHS hành vi nào đó là tội phạm, xác định hình phạt tương ứng với tội phạm , hay loại bỏ một tội phạm ra khỏi BLHS và loại bỏ hình phạt đã được qui định với tội phạm ấy. Trong khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Qua bốn lần sửa đổi, bổ sung có trên 100 lượt điều luật được sửa đổi hoặc bổ sung. Với những sửa đổi, bổ sung này luật hình sự đã có sự phát triển đáp ứng được phần nào đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện đổi mới. Chúng ta có thể phân nhóm những sự thay đổi phát triển của luật hình sự trong giai đoạn này như sau: - Hoàn thiện một số quy định của phần chung về hình phạt để các quy định này phù hợp hơn với tình hình tội phạm cũng như tình hình áp dụng luật hình sự. Trong đó, có các quy định chung về hình phạt tiền, về nguyên tắc tổng hợp hình phạt, về điều kiện cho hưởng án treo v.v.. 14 - Hoàn thiện quy định về tội phạm và hình phạt ở một số tội danh theo hướng định lượng hoá dấu hiệu định tội, phân hoá trách nhiệm hình sự qua việc tách tội danh hoặc cụ thể hoá hơn các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng… Những thay đổi này tập trung chủ yếu ở các chương Các tội xâm phạm sở hữu, Các tội phạm về kinh tế và Các tội phạm về chức vụ là các chương tội phạm chịu ảnh hưởng nhiều bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường. - Bổ sung chương các tội phạm về ma tuý vào BLHS để đáp ứng đòi hỏi của tình hình tội phạm diễn ra trong thực tế. Khi BLHS năm 1985 được ban hành, chỉ có điều luật duy nhất quy định trực tiếp về ma tuý. Đó là Điều 203 quy định tội tổ chức sử dụng chất ma tuý. Ngoài ra, BLHS cũng chỉ có một điều luật khác quy định chung về hàng cấm và trong đó ma tuý được coi là một loại hàng cấm. Đó là Điều 166 quy định tội buôn bán hàng cấm thuộc chương Các tội phạm về kinh tế. Trong lần sửa đổi, bổ sung năm 1998, Điều 96A quy định tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma tuý đã được bổ sung vào Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Tiếp đó, trong lần sửa đổi, bổ sung năm 1997, BLHS có thêm một chương mới – Chương Các tội phạm về ma tuý với 14 điều luật, quy định 13 tội danh khác nhau liên quan đến ma tuý, thay thế cho hai điều luật hiện có – Điều 96A và Điều 203. Ba sự thay đổi có tính phát triển trên đây của luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 1999, một mặt thể sự hoàn thiện pháp luật hiện hành theo các chuẩn mực của khoa học luật hình sự, mặt khác cũng thể hiện sự vận động phù hợp với tình hình phát triển của xã hội cũng như diễn biến thực tế của tình hình tội phạm. Sự thay đổi có tính phát triển này tuy chưa có tính đồng bộ nhưng là hướng phát triển đúng và tiếp tục được duy trì trong giai đoạn tiếp theo. - Giai đoạn 1999 đến nay. Sự ra đời của Bộ luật hình sự 1985 là một bước tiến vược bậc trong lịch sử lập pháp và đặc biệt là trong ngành luật hình sự ở nước ta. Tuy nhiên ngay khi ra đời BLHS đã ở trong tình trạng không phù hợp với chủ trương đổi mới cũng như những đòi hỏi của đổi mới. Để đáp ứng và phục vụ công cuộc đổi mới, luật hình sự buộc 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan