Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nhân vật chinh phụ và cung nữ trong văn học trung đại việt nam qua chin...

Tài liệu Luận văn nhân vật chinh phụ và cung nữ trong văn học trung đại việt nam qua chinh phụ ngâm

.PDF
128
149
142

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ----------  ---------- VŨ THỊ HOÀI NHÂN VẬT CHINH PHỤ VÀ CUNG NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM QUA CHINH PHỤ NGÂM VÀ CUNG OÁN NGÂM KHÚC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ----------  ---------- VŨ THỊ HOÀI NHÂN VẬT CHINH PHỤ VÀ CUNG NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM QUA CHINH PHỤ NGÂM VÀ CUNG OÁN NGÂM KHÚC Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN NHO THÌN HÀ NỘI - 2010 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 MỤC LỤC Phần mở đầu 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Lịch sử vấn đề 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 13 4. Phương pháp nghiên cứu 13 5. Cấu trúc luận văn 14 Chương 1: Người chinh phụ, cung nữ và số phận 15 của họ trong lịch sử và văn học 1.1. Người chinh phụ trong lịch sử và văn học 15 1.1.1. Khái niệm 15 1.1.2. Một số gương chinh phụ được nhắc đến trong lịch sử 16 trung đại Việt Nam 1.1.3. Người chinh phụ trong văn học 1.2. Người cung nữ trong lịch sử và văn học 18 25 1.2.1. Khái niệm 25 1.2.2. Chế độ cung nữ và số phận của họ trong lịch sử 26 1.2.2.1. Trong lịch sử Trung Quốc 26 1.2.2.2. Trong lịch sử Việt Nam 30 1.2.3. Người cung nữ trong văn học 36 Chương 2: Chinh phụ và cung nữ trong Chinh phụ ngâm 42 và Cung oán ngâm khúc nhìn từ góc độ tính nữ 2.1. Phụ nữ trong quan niệm của Nho giáo và trong văn học của các nhà 42 nho trước thế kỷ XVIII 2.1.1. Quan niệm của Nho giáo về phụ nữ 42 2.1.2. Văn chương viết về người phụ nữ trước thế kỷ XVIII 51 1 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 2.1.2.1. Sự khinh miệt sắc đẹp của phụ nữ trong văn chương 52 2.1.2.2. Cái nhìn bất bình thường về tình yêu, tình dục trong 53 văn chương 2.1.2.3. Ca ngợi sự chung thủy hay tấm gương các liệt nữ, 56 thà chết để giữ gìn tiết hạnh 2.2. Bối cảnh văn hóa - lịch sử thế kỷ XVIII và sự nở rộ của văn học viết 57 về người phụ nữ 2.3. Ba kiểu nhân vật nữ chính giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII – 61 đầu XIX 2.4. Nhân vật chinh phụ và cung nữ trong Chinh phụ ngâm và Cung oán 68 ngâm khúc 2.4.1. Nhân vật chinh phụ trong Chinh phụ ngâm 68 2.4.2. Nhân vật cung nữ trong Cung oán ngâm khúc 76 Chương 3: Kỹ thuật miêu tả tâm lý và tính nữ 3.1. Những công thức miêu tả tính nữ 87 89 3.1.1. Mô típ nỗi cô đơn trên chiếc giường trống vắng 89 3.1.2. Mô típ giấc mơ gặp chồng 91 3.1.3. Mô típ nỗi lo già 93 3.1.4. Sự tích tình ái 95 3.1.5. Mô típ vật dụng phòng the 96 3.1.6. Mô típ ẩn dụ qua hình ảnh thiên nhiên 99 3.2. Những công thức miêu tả tâm lý 102 3.2.1. Mô típ đăng cao, trông ngóng 102 3.2.2. Mô típ con người cô độc trong đêm 106 3.2.3. Mô típ đếm thời gian 109 3.2.4. Định vị thế giới bằng thân xác 111 Kết luận 2 116 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Truyền thống văn học Trung Quốc và Việt Nam trung đại đều viết về nỗi niềm kiểu nhân vật phụ nữ mà người xưa gọi chung là Khuê oán. Nhưng dòng chảy văn học không đứng im mà vận động, phát triển. Tìm hiểu sự phát triển của hai kiểu nhân vật phụ nữ chinh phụ và cung nữ trong văn học trung đại Việt Nam cho đến Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc có thể giúp xác định bức tranh văn học sử trung đại Việt Nam. Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam trước thế kỷ XVIII, các tác phẩm viết về người phụ nữ rất thưa thớt. Đến đầu thế kỷ XVIII, kiểu nhân vật này bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, trở thành nguồn cảm hứng lớn cho các tác giả nhà nho. Hai trong số những tác phẩm nổi bật xuất hiện đầu tiên chính là Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Hai khúc ngâm này đã khơi mào dòng văn học của các nhà nho viết về phụ nữ, dẫn đến sự ra đời của tác phẩm đỉnh cao văn học cổ điển – Truyện Kiều (Nguyễn Du). Cả hai được các học giả đương thời đánh giá cao, lưu truyền rộng rãi và có ảnh hưởng lớn tới các sáng tác sau này. Cho tới nay, hai tác phẩm đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu kỹ ở những góc độ như vấn đề văn bản, tiếng nói phê phán chiến tranh, chế độ cung nữ, nghệ thuật miêu tả tâm lý, thể thơ song thất lục bát… Tuy nhiên, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu riêng về hai tác phẩm đặt trong hệ thống nhân vật nữ của văn học trung đại, trong sự vận động của thể loại, hình thức diễn ngôn và đặc biệt là sự thay đổi quan niệm của tác giả nhà nho về người phụ nữ. Giới phê bình thời sau thường có đánh giá chung về các nhà nho là những người mang tư tưởng nam quyền, gia trưởng và khắt khe với phụ nữ, chịu ảnh hưởng học thuyết nam quyền của Nho giáo. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận lại, ta có thể thấy sự phân hóa trong tầng lớp nho gia về thái độ đối với người phụ nữ. Một số tác giả nhà nho những thế kỷ cuối thời kỳ trung đại (XVIII – XIX), có cái nhìn rất mới 3 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 mẻ, tiến bộ về giới nữ. Trong sáng tác văn học giai đoạn này, nhiều tác giả dành những trang tuyệt bút để viết về người phụ nữ, cảm thông với số phận bất hạnh, trân trọng tài sắc và nói lên quyền sống của nữ giới. Các nhà nho có chung nguồn cảm hứng sáng tác nên những kiểu nhân vật phụ nữ hồng nhan bạc mệnh, trong đó nổi bật lên ba kiểu nhân vật chinh phụ, cung nữ và kỹ nữ. Tiêu biểu cho ba loại nhân vật này là ba tác phẩm Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều. Những kiểu nhân vật này dần đi lệch chuẩn mực Nho giáo và văn chương nhà nho về khát vọng tình yêu mạnh mẽ, tình yêu gắn với tình dục, về thứ ngôn ngữ táo bạo, đầy nhục cảm. Nếu như nhân vật ả đào kỹ nữ là bước đột phá cao nhất của văn học nữ quyền giai đoạn này, thì chinh phụ và cung nữ là những bước chuyển biến, vừa dựa trên truyền thống vừa có nhiều yếu tố đột phá. Hai loại nhân vật này không mới vì đã xuất hiện nhiều trong văn học Trung Quốc và xuất hiện lẻ tẻ trong văn học trung đại Việt Nam. Nhưng đến thế kỷ XVIII, sáng tác về chinh phụ và cung nữ ở nước ta mới nở rộ, trở thành đề tài lớn (chinh phụ và cung oán), đưa văn học thế kỷ XVIII thoát ra khỏi mô hình nhân vật chính tồn tại hàng thế kỷ (thánh nhân, quân tử). Đặc biệt, nếu như ở Trung Quốc, chỉ mới xuất hiện các tác phẩm nhỏ lẻ, thể hiện những khoảnh khắc nỗi niềm của người vợ lính có chồng đi chinh chiến, về người cung nữ bị bỏ quên trong cung cấm, thì ở Việt Nam, xuất hiện những tác phẩm thơ dài hàng trăm câu, khắc họa cụ thể các cung bậc cảm xúc, những tâm sự triền miên và những khao khát trần thế mang tính bản năng của hai kiểu phụ nữ chịu nhiều bất hạnh này. Sự xuất hiện của người phụ nữ mang đầy yếu tố nữ tính như khao khát hạnh phúc, tình yêu riêng tư, khao khát đời sống thân xác trọn vẹn trong các tác phẩm này gây nhiều tranh cãi không chỉ với các tác giả nhà nho mà với cả những nhà nghiên cứu hiện đại. Không ai phủ nhận sức hấp dẫn của Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc và các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao tác phẩm ở nhiều mặt khác nhau; tuy nhiên hầu hết các nhà phê bình từ giữa thế kỷ XX tới những thập kỷ 80 vẫn cho rằng hạn chế của hai tác phẩm này, đặc biệt Cung oán ngâm khúc, là nhiều yếu tố nhục dục, đậm không khí nhục cảm, nhân vật chỉ biết đến tình yêu riêng tư, 4 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 nỗi đau thiếu thốn đời sống thân xác. Bản thân các nhà phê bình cũng đứng trên quan điểm nam quyền để định giá, hoặc quá nhấn mạnh vào quan điểm giai cấp nên gạt đi, hạ thấp yếu tố nữ tính. Khoảng hai thập kỷ gần đây, khi phê bình nữ quyền xuất hiện và ảnh hưởng tới Việt Nam, cùng với việc nở rộ các tác phẩm sáng tác mang đậm yếu tố nữ và tình dục, giới nghiên cứu bắt đầu nhìn nhận lại tính nữ trong các sáng tác văn học. Phương pháp phê bình này gợi mở ra những lớp nghĩa thú vị, xét lại nhiều giá trị của một số tác phẩm trung đại và hiện đại. Cũng từ phương pháp phê bình nữ quyền gợi cho chúng tôi tìm hiểu lại giá trị nhân bản của Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc, thái độ tiến bộ của hai tác giả nhà nho này với người phụ nữ xét trong hệ thống sáng tác về đề tài nữ giới thời kỳ văn học trung đại. Với hứng thú tìm hiểu về kiểu nhân vật nữ trong thời kỳ văn học trung đại, luận văn của chúng tôi mong muốn nghiên cứu kiểu nhân vật chinh phụ và cung nữ từ phương diện nữ quyền. Từ đó, chúng tôi muốn nhìn nhận lại sự phân hóa của các nhà nho trên phương diện chịu ảnh hưởng như thế nào với tư tưởng nam quyền của Nho giáo, qua thái độ của họ với người phụ nữ. Sự phân hóa này cho thấy sự phức tạp trong tư tưởng nho gia và sự đa dạng trong sáng tác. Nhà nho sáng tác không chỉ đứng trên quan điểm đạo đức phong kiến mà còn đứng trên lập trường nhân sinh, tố cáo những gì phản nhân sinh, bênh vực quyền sống của con người, đặc biệt là phụ nữ. Thêm vào đó, người viết cũng muốn tìm hiểu thêm về kỹ thuật miêu tả tính nữ trong hai tác phẩm này, sự đột phá cũng như các công thức miêu tả. 2. Lịch sử vấn đề Là hai tác phẩm có nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật cao nên Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc đã được các nhà nghiên cứu xưa nay dành nhiều bút mực để tìm hiểu, đánh giá, ca tụng. Những công trình lớn về hai khúc ngâm này thường là tìm hiểu về văn bản, những bản dịch và chú giải khác nhau, thân thế, sự nghiệp của hai tác giả, bởi đây là những tác phẩm thời trung đại, tài liệu ghi chép lưu truyền bị thất lạc. Công tác nghiên cứu này diễn ra xuyên suốt các thế kỷ qua. Trong khi đó, những bài phê bình về giá trị nội dung và nghệ thuật mới bắt đầu nở 5 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 nộ từ giữa thế kỷ XX tới nay. Thời kỳ đầu (1945 – 1975), đa số các bài phê bình đứng trên quan điểm xã hội học để đề cao tinh thần phản phong, chống chiến tranh (Chinh phụ ngâm) và tố cáo chế độ cung nữ trong xã hội phong kiến qua thân phận bất hạnh của một cung phi bị thất sủng (Cung oán ngâm khúc). Rất nhiều công trình cũng đi sâu tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý trong hai khúc ngâm này cũng như đóng góp về thể thơ song thất lục bát. Từ sau chiến tranh, các nhà phê bình có hứng thú hơn với việc tìm hiểu từ góc độ văn hóa (như ảnh hưởng của đạo Phật, số phận hồng nhan bạc mệnh, bi kịch của con người cá nhân…). Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu tỉ mỉ về kiểu nhân vật chinh phụ và cung nữ đặt trong hệ thống nhân vật nữ văn học trung đại nói chung, kiểu nhân vật khuê oán nói riêng, chúng có sự vận động như thế nào, vị trí và những đóng góp ra sao về khía cạnh tính nữ. Như trên đã nói, nhiều nhà phê bình đã đánh giá tinh thần nhân đạo của Đặng Trần Côn và Nguyễn Gia Thiều khi lấy đề tài sáng tác là người phụ nữ. Nhưng có nhiều góc độ thể hiện giá trị nhân bản lại chưa được xem xét, khẳng định một cách đúng đắn. Chẳng hạn, những biểu hiện của giới nữ, của tình yêu gắn với nhục cảm, tình dục trong hai khúc ngâm. Chúng ta hãy điểm lại những bài phê bình đề cập tới tính nữ, tình yêu thân xác trong hai tác phẩm này. Đối với Cung oán ngâm khúc, cách nhìn nhận về yếu tố tình dục của các nhà nghiên cứu rất khác nhau. Nhà phê bình Đặng Thanh Lê trong Cung oán ngâm khúc trên bước đường phát triển của thể song thất lục bát phê phán yếu tố nhục cảm: “Tuy nhiên, Cung oán ngâm khúc vẫn có phần chưa lành mạnh. Tràn đầy khúc ngâm là một không khí nhục cảm. Cung nữ say sưa nói đến những hạnh phúc của thời kỳ được sủng ái và chủ yếu là khoái cảm xác thịt với những cảm giác đắm đuối khó tả (…) Hạnh phúc ở đây phiến diện quá, yêu cầu ấy có mặt chính đáng nhưng quyết không thể là mặt duy nhất, cao nhất của hạnh phúc yêu đương. Tất nhiên, tâm trạng của cung nữ phần nào được biểu hiện qua nhân sinh quan hưởng lạc của giai cấp thống trị và quan hệ giữa cung nữ với vua không phải là quan hệ của tình yêu mà chỉ là quan hệ nhục dục. Nhưng dù sao, cung nữ cũng khác nàng Kiều trong trắng kiên quyết bảo vệ mối tình đầu tươi đẹp, khác cả người chinh phụ tuy rạo rực 6 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 yêu đương nhưng cũng rất kín đáo, tế nhị” [26, tr. 2]. Nhà nghiên cứu Thanh Lê đứng trên quan điểm giai cấp để phê bình cung nữ chỉ nghĩ đến hưởng lạc, nhu cầu xác thịt, không có tình yêu trong sáng. Nguyễn Trác và Nguyễn Đăng Châu trong Cung oán ngâm khúc, khảo thích và giới thiệu, cũng phê phán phương diện nhục cảm, cho rằng cung nữ luôn bị ám ảnh về tình dục mà không một chút e lệ. Ông viết: “Toàn khúc ngâm triền miên trong một thế giới đặc biệt toàn ân ái mây mưa. Mới thời con gái, chưa bước chân vào cuộc đời, tự hào về nhan sắc người thiếu nữ đã nghĩ tới: Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa. Hoặc cho rằng văn nhân tài tử công hầu khanh tướng khi nghe nói đến nàng sẽ: Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn/ Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng. Với những ý nghĩ táo bạo sớm nở về dục tình kiểu ấy, khi được tuyển vào cung, người cung nữ cũng chỉ có thể hân hoan vì những sự thỏa nguyện về xác thịt (…). Bài ca xác thịt văn vẻ ấy được kết thúc bằng một nỗi hân hoan không chút e lệ ngượng ngùng” [50, tr. 45 – 46]. Lý giải về yếu tố nhục dục trong khúc ngâm, hai ông cho rằng, hiện thực đời sống trụy lạc trong cung đã tác động tới nhân sinh quan nhà thơ: “Sự thực trong cung, dưới mắt Nguyễn Gia Thiều, cơ sở sáng tác của ông, là một sự thực dâm đãng. Cuộc tình duyên của Sâm và Huệ không phải là thiên ái tình cao thượng của những tâm hồn trong sạch trọng nhau vì nết, mến nhau vì tài. (…) Từng ấy yếu tố đã khiến Nguyễn Gia Thiều đơn giản hoá tâm hồn người cung nữ, hướng nàng đi quá sâu vào con đường tình dục. Ông cũng sẵn sàng quên rằng ông đã qua cửa Khổng sân Trình và đức thánh của ông khi xưa chỉ nói chuyện với nàng Nam Tử chốc lát, mà phải thanh minh mãi với môn đồ. Người cung nữ đã bị nhìn sai lạc. Cảm tình của người đọc đối với nàng bị hạn chế. Và cũng bị hạn chế cái giá trị của tình yêu mà tác giả muốn đề cao”. [50, tr. 47]. Hai nhà nghiên cứu cũng đứng trên quan điểm giai cấp để phê phán nhân vật cung nữ quá nhiều khao khát nhục dục, đại diện cho sự sa đọa của giai cấp thống trị: “Tâm lý của người cung nữ là tâm lý chung của tầng lớp thống trị đang đi vào con đường tan rã suy vong, kiêu ngạo lố lăng, trắng trợn, bất chấp hết thảy, chỉ còn nghĩ tới khoái lạc cá nhân, địa vị cá nhân. 7 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 Họ không còn chút ý thức đối với lịch sử, không còn chút ưu ái đối với nhân dân” [50, tr. 49]. Nhà nghiên cứu đánh đồng giữa tình yêu xác thịt của người con gái với sự hưởng lạc của giai cấp thống trị. Các nhà nghiên cứu trên đều quá nặng về phê bình xã hội học giai cấp nên nhìn nhận phiến diện về nhân vật cung nữ. Những yếu tố đậm tính nữ của nhân vật đều bị phê phán và bị quy kết là đại diện tâm lý hưởng lạc của giai cấp thống trị. Các nhà nghiên cứu không xem xét tới cảnh ngộ đặc biệt của người cung nữ, bi kịch của người phụ nữ tuy đầy đủ về vật chất nhưng bị tước bỏ hạnh phúc vợ chồng, hạnh phúc ái ân, chôn vùi tuổi xuân trong cung cấm. Bởi vậy, những khao khát đời sống thân xác của nàng là rất đời thường và những trang thơ của Nguyễn Gia Thiều thể hiện tâm sự sâu kín ấy chính là ý nghĩa nhân bản của khúc ngâm. Nhiều nhà nghiên cứu có cái nhìn thoáng hơn về yếu tố nhục cảm trong khúc ngâm và đánh giá cao nghệ thuật thể hiện nữ tính của Nguyễn Gia Thiều. Trong Mấy vấn đề đặt ra từ hội thảo khoa học về Nguyễn Gia Thiều và Cung oán ngâm khúc, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi viết: “Bởi vì cảm hứng nghệ thuật chủ đạo của ông đã cố ý để cho biểu tượng cung nữ – người lấn át biểu tượng cung nữ – phụ nữ. Nhưng ham muốn nhục cảm có phần lộ liễu đối với nàng cũng không còn gì là quá đáng, là xa lạ với những quy phạm nghệ thuật biểu hiện nữ tính, vì chúng nằm trong tâm lý khao khát nhục cảm vốn có của con người. Cho nên Cung oán ngâm khúc chính là sự giãi bày tâm trạng của một con người trong mọi cảnh ngộ có thể có về thân phận con người, cao hơn nữa, nó còn kết tinh được những cảm hứng triết học về nỗi khổ của đời người.” [8, tr. 4]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Giá trị hư ảo, vô nghĩa của cá nhân con người trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều khẳng định yếu tố nhục cảm là một trong những biểu hiện của quan niệm về con người cá nhân: “Ông miêu tả cảnh hành dục không như một tội lỗi kiểu Truyền kỳ mạn lục mà như một niềm kiêu hãnh, sung sướng. Cả ở đây con người cá nhân cũng xuất hiện như một phát hiện lại, đi ngược giáo lý. Có thể nói thế kỷ XVIII đã xảy ra một bước ngoặt lớn 8 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 trong quan niệm con người cá nhân, làm nở rộ một dòng văn học nhân đạo, khác với văn học nhân nghĩa là chủ đạo trước đó. Bước ngoặt làm đổi thay giá trị con người ấy là: Trước thế kỷ XVIII cá nhân chỉ được đánh giá trong thang bậc đạo lý, nghĩa lý, lý trí và ở sức mạnh tinh thần, con người càng có nghị lực vươn lên bao nhiêu, càng khắc phục cá nhân nhỏ bé, phàm tục bao nhiêu thì càng có giá trị. Bởi vì nghĩa lý, đạo lý, giáo lý là cái thiện, còn mọi thứ dục, lục dục, nhân dục, nhất là tình dục đều là cái ác. Bây giờ tình hình lật ngược lại. Quyền sống của con người trần thế, giá trị con người thân xác với bao thứ “dục” chính đáng của nó là trung tâm điểm của giá trị. Bất kỳ cái gì chà đạp giá trị ấy, quyền sống ấy thì đều là cái ác, cái xấu, cái đáng oán hận” [41, tr. 168]. Nhà nghiên cứu Vũ Minh Tâm trong Nguyễn Gia Thiều và nỗi đau nhân thế(1) khẳng định yếu tố nhục cảm trong khúc ngâm không phải là chủ nghĩa thân xác mà chính là nhân tính, nhân tình. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong Rực rỡ và khắc khoải (Hay là tính cách hiện đại của “Cung oán ngâm khúc”) cũng đánh giá cao những đóng góp của Nguyễn Gia Thiều về nghệ thuật miêu tả yếu tố xác thịt trong khúc ngâm: “Xưa nay, trong văn học cổ Việt Nam, mọi khoái cảm xác thịt chỉ được diễn tả một cách lấp lửng, nửa vời, nếu không nói là giấu biệt đi, bảo nhau không nên đả động đến. Ở Cung oán ngâm khúc, người phụ nữ mất hết vẻ e thẹn vốn có, nàng sẵn sàng khoe ra tài năng, vẻ đẹp và cả khả năng quyến rũ của mình” [34, tr.4]. Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh trong tham luận Nguyễn Gia Thiều và nhân vật người cung nữ(2) cũng khẳng định yếu tố dục tính, coi đây là điều hợp lý với hoàn cảnh riêng của người cung nữ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Bích trong Đạo Phật, tính dục, âm nhạc tính trong Cung oán ngâm khúc khẳng định tác phẩm có một đoạn miêu tả không tiền khoáng hậu về vẻ đẹp của dục tính (câu 135 – 152). Tuy nhiên, ông không phân tích sâu và lại cho rằng đó là cái nhìn của người theo Phật giáo công nhận sức hút phi thường của dục tính. (1 ) Đăng trên Tạp chí Văn học, số 4 – 2003. (2 ) In trong Những nghĩ suy từ văn học trung đại, Nxb Khoa học xã hội, H., 1999. 9 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 Các nhà nghiên cứu trên đã coi yếu tố xác thịt trong khúc ngâm là chính đáng và đánh giá cao nghệ thuật biểu hiện nữ tính mà Nguyễn Gia Thiều đã thể hiện. Dù chưa đi sâu khai thác yếu tố nữ tính nhưng đây là những đóng góp bước dầu trong việc nhìn nhận lại giá trị khúc ngâm xét về khía cạnh con người bản năng, thân xác. Với Chinh phụ ngâm, vấn đề nữ tính ít bị chỉ trích vì khao khát thể xác không được thể hiện sôi nổi và trực tiếp như trong Cung oán ngâm khúc. Trong các bài nghiên cứu trước đây về nội dung và nghệ thuật của khúc ngâm, người chinh phụ chủ yếu được đánh giá về phẩm chất chung thủy theo quan niệm đạo đức Nho giáo (Đỗ Mục trong Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu) hoặc cái nhìn phê phán chiến tranh (Phong Châu trong Chinh phụ ngâm khúc – khúc ca oán ghét chiến tranh, Văn Tân trong Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm hay là một tác phẩm chống chiến tranh…). Rất ít các bài phê bình nhìn nhận và đề cao yếu tố nữ tính trong khúc ngâm. Chinh phụ ngâm khúc giảng luận của Thuần Phong có đoạn viết: “Và đây là bài học của tạo vật, của tự nhiên: “Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội Cũng dập dìu chẳng vội phân trương. Chẳng xem chim én trên rường Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau. Kìa loài sâu hai đầu cùng sánh, Nọ loài chim chắp cánh cùng bay, Liễu sen là thức cỏ cây, Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền. Ấy loài vật tình duyên còn thế, Sao kiếp người nỡ để đấy đây?” Một bài học khá tầm thường chứa chan những ý vị phàm tục, chưa nói đến ý nghĩa khoa học có chỗ rất khả nghi. Bài học hưởng thụ, bài học khoái lạc chủ nghĩa chỉ có thế thôi! Mà lời lẽ cũng chẳng có gì là tha thiết cho lắm (…). Sự yêu cầu hưởng thụ trong Chinh phụ ngâm lại cũng không có ý vị nồng nàn của nhục dục như trong Cung oán, hoặc chán chường như trong Truyện Kiều. Ái tình, ở đây, không 10 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 nghiến răng, nghiến lưỡi trong một cử chỉ phản kháng, nhưng cũng chưa hề hướng dẫn tâm hồn đến một cõi đời siêu thoát. Dù có bực bội với hoàn cảnh thì ý niệm của khổ chủ cũng vẫn quanh quẩn trên thực tế và dịu dàng ngoan ngoãn xin với đời sống những cái mà đời sống có thể cung cấp cho cuộc đời thế tục mà thôi”(1). Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ khẳng định Chinh phụ ngâm là tiếng nói đầu tiên mà bột phát mạnh mẽ của tình cảm, của cá nhân trong văn học sử quốc âm nhưng ông cũng cho rằng, nhân vật chinh phụ hầu như chỉ biết đến nỗi niềm riêng tư của bản thân, nỗi thèm khát hạnh phúc đôi lứa: “Các giáo sư phê bình Chinh phụ ngâm thường ca tụng tư cách đạo đức của người chinh phụ, nào nuôi lão thân, nào chăm con nhỏ. Song chỗ nói về điều đó không quá mười câu, còn ra trong cả trăm câu toàn là một tâm sự thiếu thốn tình cảm, mơ ước yêu thương. Phải công nhận rằng tiếng kêu của tình cảm ở đây rõ là mãnh liệt. Nó nói lên một biến chuyển mạnh mẽ ở nội dung văn học chúng ta, ở tâm trạng của nhà văn, của nho sĩ. Chúng ta đã cách xa cái thời lý trí thanh sở, đạo đức uy nghi, pháp luật khắt khe, chính quyền nghiêm cẩn, cái thời Thịnh Lê ngày trước. Từ lâu, xã hội loạn ly, lòng người hoang mang, trống trải. Các chúa Trịnh lại ngụp lặn trong một nếp sống xa hoa dật lạc, gây cho người dưới một sự thèm thuồng hưởng thụ mà binh cách máu lửa càng kích thích nấu nung(2). Nhà nghiên cứu cho rằng, “tư cách đạo đức” của chinh phụ cần được xem xét lại vì nàng chẳng mấy nói về gia đình, con thơ mà chỉ đề cập đến tâm sự thiếu thốn tình cảm của bản thân. Có thể thấy, yếu tố nhục cảm trong hai khúc ngâm gây ra nhiều ý kiến trái chiều đối với các nhà nghiên cứu. Đa số các cây bút phê bình trong giai đoạn ảnh hưởng mạnh mẽ của phê bình xã hội học giai cấp đã phê phán không khí nhục cảm trong các khúc ngâm và quy nhân vật vào giai cấp quý tộc hưởng lạc. Có một thực tế rằng, các nhà phê bình đã không xem xét đến thái độ của tác giả khi viết về các nhân vật nữ này. Giai đoạn sau này, một số nhà phê bình đã nhìn nhận yếu tố này một cách cởi mở hơn, đặc biệt xem xét nhân vật chinh phụ và cung nữ ở góc độ con (1 ) Thuần Phong, Chinh phụ ngâm khúc giảng luận, Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1952, tr. 33. (2) Phạm Thế Ngũ, Đặng Trần Côn với khúc chinh phụ chữ Hán. In trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập II, Văn học lịch triều, Việt văn, Nxb Đồng Tháp, in lại năm 1997. 11 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 người đời thường chứ không đứng ở góc độ giai cấp hay đạo đức, bổn phận của người phụ nữ. Tìm hiểu con người trong văn chương trung đại từ quan điểm văn hóa học, dựa trên hai phạm trù “thân” và “tâm”, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã có những đánh giá mới mẻ về nhân vật phụ nữ. Trong nhiều bài viết, ông đã bước đầu hệ thống hóa những kiểu nhân vật nữ giai đoạn thế kỷ XVIII, chỉ ra sự chuyển biến giữa các kiểu nhân vật và thái độ đầy nhân bản của tác giả nhà nho khi viết về người phụ nữ. Ông cũng đánh giá cao Nguyễn Gia Thiều và Đặng Trần Côn ở việc ngợi ca, bênh vực, nói lên quyền sống về tình yêu, thân xác của họ. Đặc biệt bài viết Nho giáo và nữ quyền của nhà nghiên cứu gợi mở cho chúng tôi hướng nghiên cứu sâu hơn về các kiểu nhân vật phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam, nhìn nhận từ phương pháp phê bình văn học nữ quyền. Bài tham luận này đã chỉ ra sự phân hóa trong tầng lớp tác giả nhà nho đối với vấn đề nữ quyền. Trong bối cảnh Nho giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tống Nho và Minh Nho, với nhiều tư tưởng nam quyền nặng nề, dòng văn học có yếu tố nữ quyền vẫn tồn tại và phát triển. “Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX có thể cấp cho chúng ta một nguồn tư liệu phong phú để suy nghĩ về vấn đề nữ quyền và Nho giáo. Trong khuôn khổ một xã hội Nho giáo nam quyền, thực tế sáng tác văn học giai đoạn này cho thấy chủ nghĩa nữ quyền đã xuất hiện bên cạnh dòng tư tưởng chống nữ quyền truyền thống (…) Hai thế kỷ XVIII- XIX cũng chứng kiến tiếng nói bênh vực nữ quyền của một số nhà Nho người đàn ông. Ba kiểu nhân vật phụ nữ đều là do các nhà văn - nhà Nho sáng tác đã tạo nên những cơn sốt văn học cho giai đoạn này là: người chinh phụ (vợ lính), người cung nữ và người kỹ nữ” [47, tr. 2 – 4]. Yếu tố nữ quyền trong sáng tác của một bộ phận nhà nho giai đoạn này chính là cái nhìn về người phụ nữ bằng cảm xúc, nỗi niềm của giới nữ, nói giùm họ những khao khát sâu kín về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Đặc biệt, một khía cạnh của tư tưởng nữ quyền là sự bộc bạch tình yêu gắn liền với khao khát nhục cảm, nhu cầu xác thịt của người phụ nữ. Bởi trong tư tưởng khắt khe của Nho giáo, phụ nữ đức hạnh không được phép nói về những nhu cầu bản năng, thân xác đó. Theo quan 12 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 điểm nam quyền, phụ nữ cần phải giữ gìn tiết hạnh, đảm đương bổn phận của một người vợ, người mẹ. Trong bài viết này, khi phân tích sự xuất hiện nổi bật của nhân vật chinh phụ và cung nữ trong hai khúc ngâm, chúng tôi mong muốn đi sâu tìm hiểu từ phương diện con người đời thường, phương diện giới tính – tính nữ, một vấn đề vẫn chưa được khai thác cụ thể trong các nghiên cứu từ trước đến nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Để tìm hiểu nhân vật chinh phụ và cung nữ, điều cần thiết là khảo sát hai kiểu nhân vật này trong toàn bộ văn chương thời kỳ trung đại Việt Nam. Thêm vào đó, đây là những kiểu nhân vật truyền thống trong văn học phương Đông nền cần có sự so sánh với nền văn học Trung Quốc. Tuy nhiên, do khuôn khổ của luận văn, việc khảo sát trên diện rộng chỉ được trình bày sơ lược trong chương 1. Luận văn chủ yếu tập trung phân tích hai kiểu nhân vật này trong hai tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam là Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Ngoài ra, mục đích của luận văn là nghiên cứu hai nhân vật này đặt trong hệ thống nhân vật nữ văn học trung đại, soi chiếu ở góc độ tính nữ nên chúng tôi cũng phân tích đối chiếu với các tác phẩm viết về người phụ nữ nói chung, bởi từ đó mới thấy rõ hơn những đóng góp của hai tác giả nhà nho trong việc thể hiện hai kiểu nhân vật nữ này. Về văn bản khúc ngâm dùng để khảo sát và phân tích, chúng tôi nghiên cứu dựa trên văn bản chữ quốc âm của Chinh phụ ngâm, bản dịch hiện hành in trong sách Chinh phụ ngâm, Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu. Đối với Cung oán ngâm khúc, chúng tôi lựa chọn văn bản in trong cuốn Ngâm khúc Việt Nam chọn lọc do Nhà xuất bản Văn học chịu trách nhiệm biên tập và in ấn, xuất bản năm 2008. 4. Phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu nhân vật chinh phụ và cung nữ trong hai khúc ngâm, những nhân vật nữ thuộc về thời kỳ trung đại, nên chúng tôi lựa chọn phương pháp tiếp cận văn 13 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 hóa học, dựa trên hai phạm trù mà người xưa dùng để nhìn nhận về con người: thân và tâm. Chúng tôi nghiên cứu hai kiểu nhân vật từ góc độ giới nên cũng áp dụng phương pháp phê bình văn học nữ quyền. Trên thế giới, phê bình văn học nữ quyền bắt đầu thịnh hành từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 cùng với cuộc cách mạng nữ quyền rầm rộ. Ở Việt Nam, phê bình văn học nữ quyền mới chỉ được áp dụng ở vài ba công trình nghiên cứu. Phê bình nữ quyền đem lại nhiều kiến giải mới về nhân vật và quan điểm của nhà văn. Một trong những khía cạnh của phê bình văn học nữ quyền là vấn đề giải phóng tình dục. Chúng tôi cũng dựa vào khía cạnh này để phân tích tư tưởng nữ quyền trong hai khúc ngâm. Bên cạnh đó, do đề tài thuộc về vấn đề văn học sử nên chúng tôi cũng áp dụng phương pháp xã hội học để lý giải sự tác động của hoàn cảnh xã hội, lịch sử đến tư tưởng của tác giả, đến sự xuất hiện nở rộ của kiểu nhân vật phụ nữ trong văn học nhà nho giai đoạn XVIII – XIX. Luận văn nghiên cứu nhân vật chinh phụ và cung nữ trong hai khúc ngâm, đặt trong hệ thống nhân vật phụ nữ xuyên suốt văn học trung đại cũng như hai kiểu nhân vật này trong lịch sử và văn học Trung Quốc nên chúng tôi cũng thấy sự cần thiết của việc lựa chọn phương pháp so sánh. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp thi pháp học để tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện tâm lý và tính nữ trong hai khúc ngâm. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng kết hợp các thao tác như thống kê, phân tích… để có được cái nhìn toàn diện và cụ thể về đối tượng nghiên cứu của mình. 5. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm những mục chính như sau: Chương 1: Người chinh phụ, cung nữ và số phận của họ trong lịch sử và văn học Chương 2: Chinh phụ và cung nữ trong Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc nhìn từ góc độ tính nữ 14 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 2.1. Phụ nữ trong quan niệm của Nho giáo và trong văn học của các nhà nho trước thế kỷ XVIII 2.2. Bối cảnh lịch sử thế kỷ XVIII và sự nở rộ của văn học viết về người phụ nữ 2.3. Ba kiểu nhân vật phụ nữ giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII – đầu XIX 2.4. Nhân vật chinh phụ và cung nữ trong Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc Chương 3: Kỹ thuật miêu tả tâm lý và tính nữ PHẦN NỘI DUNG Chương 1 NGƯỜI CHINH PHỤ, CUNG NỮ VÀ SỐ PHẬN CỦA HỌ TRONG LỊCH SỬ VÀ VĂN HỌC 1.1. Người chinh phụ trong lịch sử và văn học 1.1.1. Khái niệm Từ “chinh phụ” được hiểu theo nghĩa chung là vợ của những người ra trận chinh chiến. Theo Từ điển tiếng Việt: “Chinh phụ là vợ của người đàn ông đang đi đánh trận thời phong kiến”(1). Tuy nhiên, từ Hán Việt này thường được dùng trong văn chương nhà nho theo một nghĩa trang trọng, chỉ phu nhân của những người có chức tước đi đánh trận phương xa. Họ không phải là những nông dân lam lũ, có đời sống vật chất thiếu thốn. Chẳng hạn trong ca dao, người vợ có chồng ra trận mạc được gọi một cách dân dã là người “vợ lính”: Kìa ai tiếng khóc nỉ non, Ấy vợ lính mới trèo hòn Đèo Ngang. Chém cha cái giặc chết hoang, (1) Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2010, 1562 trang. 15 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng. Gánh từ xứ Bắc, xứ Đông Đã gánh theo chồng, lại gánh theo con Người vợ trong ca dao có tiếng nói hồn hậu, mạnh mẽ, ngôn ngữ gần gũi, thân thuộc với đời sống nhân dân lao động. Trong khi đó, ở các tác phẩm văn học viết thời kỳ trung đại của Việt Nam, từ chinh phụ đều có ý hàm chỉ đến những phụ nữ quý tộc. Như trong Chinh phụ ngâm, nhắc đến chàng là “trang phong lưu”, “vốn dòng hào kiệt”, cũng bạn bút nghiên”, được so sánh với các danh tướng như Giới Tử, Phục Ba, Ban Siêu, Tần, Hoắc. Nàng thì biết dạy con đèn sách, biết gõ sênh ngọc, ôm đành tranh, có gương lầu Tần, thoa cung Hán… Chinh phụ được miêu tả là người có nhan sắc, là “khách má hồng” trong khuê phòng chịu nhiều nỗi truân chuyên khi phải xa chồng. Nhưng nỗi khổ của họ không nằm ở chỗ thiếu thốn vật chất, tất bật mẹ già con thơ mà chủ yếu được khắc họa về mặt nội tâm, nỗi u sầu trông ngóng cùng muôn vàn cảm xúc khác. Điều này có thể được lý giải bởi tác giả của những khúc ngâm viết về người chinh phụ đều là các nhà nho, tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến. Nhân vật trong các tác phẩm của nhà nho chủ yếu là người gần gũi với tầng lớp của họ, nếu nam giới là các bậc hiền nhân quân tử, những chàng trai công tử phong lưu tài tình, phụ nữ là những người tài sắc, như cung nữ, kỹ nữ, công chúa, vợ của nho sĩ… Không phải nhiều nhà nho viết về những người lang thang khốn khổ như Nguyễn Du viết về ông lão hát rong, người mẹ dẫn đàn con đi ăn xin trên đường… Tuy nhiên, mặc dù viết về những nhân vật không hẳn gần gũi với đại đa số người dân, nhiều tác phẩm của các nhà nho đặc biệt là khúc ngâm và truyện thơ vẫn được nhiều người bình dân yêu mến và đón nhận. Trường hợp điển hình nhất là Truyện Kiều và Chinh phụ ngâm (bản dịch sang thơ Nôm theo thể song thất lục bát). Những nhân vật này có sức hấp dẫn bởi chứa đựng những tình cảm đời thường, nỗi đau nhân tình và số phận bất hạnh của họ nhận được nhiều sự đồng cảm của mọi người. Trong văn học Việt Nam, từ chinh phụ gắn chủ yếu với các tác phẩm trong thế kỷ XVIII, XIX. Từ này cũng chỉ được dùng trong văn chương của các nhà nho thời 16 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 kỳ trung đại. Thuật ngữ chinh phụ sau này không còn được sử dụng trong văn học hiện đại và lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. 1.1.2. Một số gương chinh phụ được nhắc đến trong lịch sử trung đại Việt Nam Trong sử sách Việt Nam rất ít khi ghi chép về các nhân vật nữ, ngay cả những nhân vật nữ trong triều đình như hoàng hậu, phi tần, công chúa... Những nhân vật được ghi danh phải là các nữ anh hùng như Bà Triệu, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Bùi Thị Xuân… Tuy nhiên trường hợp đặc biệt, một số người phụ nữ bình thường lại được ghi tên vào sử sách và được vua quan và nhân dân lập miếu thờ. Đó là những chinh phụ tuẫn tiết khi biết tin chồng mình đã thiệt mạng nơi chiến trường. Chẳng hạn như trong Thần nữ và liệt nữ Việt Nam, nhắc đến gương một người vợ tuẫn tiết theo chồng. Đó là bà Phan Thị Thuấn, quê ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Bà là vợ thứ 3 của ông Ngô Cảnh Hoàn. Ông là tướng quân nhà Trịnh, dưới quyền của Hoàng Phùng Cơ, được giao trấn giữ ở bến Thúy Ái, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Quân Tây Sơn tiến ra Bắc để lật đổ họ Trịnh. Trịnh Khải bỏ chạy, quân Lê Trịnh tan tác, riêng có Ngô Cảnh Hoàn cố cầm cự trên sông nhưng cũng trúng đạn mà tử trận. Cả họ hàng và làng quê thương khóc, riêng bà Thuấn, lúc ấy 20 tuổi, vẫn thản nhiên như không có chuyện gì. Bà thu xếp đưa mấy người họ hàng ra Bắc đến chùa Kiến Sở ở làng Phù Đổng, làm lễ cáo gia tiên, vĩnh biệt họ hàng, nói những lời tuyệt mệnh: “Chồng chết vì việc nước, tôi xin đi theo để trọn nghĩa cùng chồng”. Nói xong, chèo thuyền con ra giữa dòng, gieo mình xuống nước. Vua Lê Chiêu Thống phong bà là Tiết liệt phu nhân. Nhân dân lập đền thờ bà ở bến Thúy Ái. Sau này trong sách Đại Nam thực lục chính biên có ghi “Năm Tự Đức thứ 12, có lệnh dựng bia liệt nữ Phan Thị Thuấn” [9, tr. 281]. Cuốn Thần nữ và liệt nữ Việt Nam còn nhắc đến thiếu phụ Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương (Lý Nhân, Hà Nam). Nàng là nhân vật có thật, được ghi trong sử sách và cũng đi vào văn học (Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ). Nàng là người con gái xinh đẹp, lại nết na, cưới chồng chưa được bao lâu thì chồng đi đánh giặc Chiêm Thành. Đêm đêm ở nhà nàng thường chỉ bóng mình trên vách bảo đứa con nhỏ rằng 17 Vò ThÞ Hoµi Cao häc v¨n häc K51 đó là bố. Khi người chồng trở về, đứa con không chịu nhận cha, nói rằng đêm nào bố cũng đến, mẹ đi bố đi, mẹ ngồi bố ngồi. Người chồng vốn hay ghen, cho rằng vợ phản bội nên hết sức ruồng rẫy. Vũ Thị phải nhảy xuống sông tự tử để chứng minh sự vô tội của mình. Nàng được nhiều người ca ngợi là liệt nữ, được lập đền thờ, sau này được vua Lê Thánh Tông đề thơ ca ngợi (bài Hoàng Giang điếu Vũ Nương và Điếu Vũ Nương). Trong luận án Tiến sĩ, tác giả Nguyễn Nam cho biết, có ít nhất 6 văn bản viết về Vũ thị trong đó tôn xưng nàng là liệt nữ. Có thể phỏng đoán rằng, trong thực tế có rất nhiều liệt nữ vô danh, những người vợ dám chết theo chồng để giữ gìn danh tiết hoặc ở vậy cả đời thờ chồng, nuôi con. Một số gương liệt nữ được vua chúa, nho gia ca tụng, lập đền thờ ít nhiều gắn với mục đích giáo huấn, nêu gương, định hướng đạo đức cho người đời sau. Sử sách Việt Nam không ghi chép nhiều về những liệt nữ như trong sử sách Trung Quốc. Nếu như ở Trung Quốc có hẳn một loại sách riêng là liệt nữ truyện thì ở Việt Nam hầu như không có, họa chăng chỉ là những cuốn sách người đời sau sưu tầm, tổng hợp lại. Có thể ở Việt Nam không có sách liệt nữ truyện mà chỉ có những ghi chép lẻ tẻ, bởi các nhà nho của chúng ta không hô hào tiết liệt mạnh mẽ, cực đoan như Trung Quốc. 1.1.3. Người chinh phụ trong văn học Viết về chinh phụ là đề tài xuyên suốt trong các tác phẩm cổ điển Trung Quốc, không chỉ gói gọn trong một, hai thế kỷ như ở Việt Nam. Lịch sử Trung Quốc thời kỳ cổ, trung đại chứng kiến những cuộc chiến tranh xảy ra liên miên, từ cuộc chiến giữa các nước nhỏ với nhau đến chiến tranh chống giặc ngoại xâm, nội chiến dập tắt các cuộc khởi nghĩa, đảo chính, chiến tranh ổn định các vùng chư hầu hay xâm lược láng giềng... Trong Kinh thi, cuốn sách ghi lại những bài thơ do nhân dân sáng tác được Khổng Tử ghi chép lại, nhân vật người chinh phụ đã được nhắc đến. Bài thơ Bá hề trong Kinh thi: Chàng là người uy vũ anh hùng Tài năng trội nhất ở trong nước này 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan