Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dư...

Tài liệu Luận văn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh ninh thuận

.PDF
93
242
137

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN ANH DŨNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN ANH DŨNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN PHAN ANH DŨNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN ..................................................................................................7 1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện .........................7 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện .............................................................................................................15 1.3. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện. ...............................................................................19 1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện nhân thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm này ......22 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN ................................................................28 2.1. Thực trạng tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Tỉnh Ninh Thuận ..........................................................................................29 2.2. Nhận diện nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Tỉnh Ninh Thuận ..............................................35 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN........................................52 3.1. Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận..................................................................................................52 3.2. Các giải pháp phòng ngừa tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận ....................................................................................56 KẾT LUẬN ..............................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự CAND : Công an nhân dân HKTT : Hộ khẩu thường trú TAND : Tòa án nhân dân TCTS : Trộm cắp tài sản TNXH : Tệ nạn xã hội TTATXH : Trật tự an toàn xã hội TTHS : Tố tụng hình sự UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tình hình tội phạm trên địa bàn Ninh Thuận giai đoạn 2014 - 2018 Bảng 2.2: Tỉ lệ tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện và tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ năm 2014 – 2018 Bảng 2.3: Thống kê độ tuổi, giới tính tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.4: Đặc điểm xét theo trình độ văn hóa người dưới 18 tuổi phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014 - 2018 Bảng 2.5: Đặc điểm xét theo nghề nghiệp của người dưới 18 tuổi phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014-2018 Bảng 2.6: Đặc điểm hoàn cảnh gia đình của người dưới 18 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014 - 2018 Bảng 2.7: Đặc điểm xét theo tôn giáo, tín ngưỡng của người dưới 18 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014 - 2018 Bảng 2.8: Cơ cấu xét theo phương tiện gây án của người dưới 18 tuổi phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014 - 2018 Bảng 2.9: Cơ cấu xét theo địa điểm gây án của người dưới 18 tuổi phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014-2018 Bảng 2.10: Cơ cấu xét theo thời gian gây án của người dưới 18 tuổi phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014-2018 Bảng 2.11: Cơ cấu xét theo hình thức cư trú của người dưới 18 tuổiphạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014-2018 Bảng 2.12: Cơ cấu tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện xét theo đơn vị hành chính Bảng 2.13: Cơ cấu tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện xét theo tiền án, tiền sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định thanh, thiếu niên là thế hệ tương lai của đất nước; là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; có vai trò xung kích, quan trọng trong các cuộc cách mạng, là lực lượng quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc. Chính vì vậy, vấn đề chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ và phòng ngừa, ngăn chặn người dưới 18 tuổi phạm tội từ lâu đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, nghiên cứu và thực hiện. Điều đó đã được thể hiện trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng; pháp luật của Nhà nước, tiêu biểu như: Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05-11-2012 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”; Hiến pháp năm 2013 (Khoản 1 Điều 37 quy định “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”); Bộ luật hình sự (BLHS); Bộ Luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (sửa đổi, bổ sung, có hiệu lực ngày 01/6/2017); Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 – 2020 của Chính phủ. Bên cạnh đó, Nhà nước ta còn tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Nhà nước ta cũng xác định rõ: nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là “...Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.” (Điều 91 BLHS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017). Trong hơn 30 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, 1 có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển của cả nước, tỉnh Ninh Thuận cũng có những bước phát triển vượt bậc. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở hạ tầng được chú trọng đầu tư khang trang, sạch đẹp, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường và sự tác động của những yếu tố tiêu cực khác, tình trạng phân hóa giàu – nghèo, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, tác động không tốt đến một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có những người dưới 18 tuổi. Theo thống kê của Công an tỉnh Ninh Thuận, từ năm 2014 đến năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã khởi tố điều tra 1.680 vụ án hình sự, khởi tố 2.038 bị can; trong đó có 238 vụ án có dưới 18 tuổi tham gia (chiếm tỷ lệ 14,2% tổng số vụ án khởi tố), với tổng số 316 bị can là người dưới 18 tuổi, chiếm tỷ lệ 15,5% tổng số bị can. Qua khảo sát cho thấy người dưới 18 tuổi phạm nhiều loại tội khác nhau như trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, mua bán trái phép chất ma túy, gây rối trật tự công cộng, nguy hiểm hơn, người dưới 18 tuổi còn thực hiện các hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng như cướp giật tài sản, cướp tài sản, giết người... Trong các loại tội phạm nói trên, chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là trộm cắp tài sản tổng số 147 bị can chiếm tỷ 46,52%. Các đối tượng phạm tội bằng những thủ đoạn tinh vi, có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng, thậm chí đã hình thành các băng, nhóm tội phạm có tính nguy hiểm cao. Số lượng các vụ án tăng nhanh, nhiều vụ án nghiêm trọng xảy ra, cùng với tính chất phức tạp của từng vụ án là những thủ đoạn tinh vi, tài sản thiệt hại lớn, để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm xôn xao dư luận xã hội. Việc gia tăng tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói chung và tội phạm trộm cắp do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng không chỉ tăng về số lượng đối tượng, vụ án, mà số đối tượng trong cùng một vụ 2 án cũng có xu hướng tăng, tỷ lệ tái phạm của người dưới 18 tuổi tăng, cùng với đó là tuổi đời phạm tội của các đối tượng là người dưới 18 tuổi cũng trẻ hoá. Đây thực sự là một vấn đề rất đáng báo động. Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu tình hình tội phạm trộm cắp do người dưới 18 tuổi thực hiện, phân tích đặc điểm hành vi phạm tội trộm cắp của người dưới 18 tuổi, tìm ra những nguyên nhân, điều kiện của tình hình đó, từ đó đề xuất những giải pháp phòng ngừa có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới là thực sự cấp thiết. Do đó, học viên đã chọn đề tài: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” làm luận văn cao học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, tổng kết liên quan đến đề tài như: PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh (2008), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay – mô hình lý luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 6); PGS. TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Lê Thị Bình (2018) Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội. Nguyễn Bá Phụ (1996), “Quản lý, giáo dục nhằm ngăn chặn công dân là vị thành niên vi phạm pháp luật ở thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Thực trạng và giải pháp”, đề tài khoa học cấp cơ sở, Công an tỉnh Ninh Thuận; Đỗ Bá Cở (2003), “Hoạt động của lực lượng CSND trong phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội trong tình hình hiện nay”, nhà xuất bản CAND, Hà Nội; Nguyễn Nhị Hồng (2006), “Thực trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở địa bàn tỉnh Ninh Thuận và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn”, đề tài khoa học cấp cơ sở, Công an tỉnh Ninh Thuận; Vũ Hồng Thức (2006),“Tệ nạn ma túy trong thanh thiếu niên, học sinh trên địa bàn 3 Ninh Thuận - Thực trạng và giải pháp”, đề tài khoa học cấp cơ sở, Công an tỉnh Ninh Thuận; Phan Quang Mục (2008), “Thực trạng tình hình học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận và các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn”, đề tài khoa học cấp cơ sở, Công an tỉnh Ninh Thuận. Những công trình nói trên thường tập trung nghiên cứu vấn đề người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật nói chung, chưa nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm trộm cắp do người dưới 18 tuổi thực hiện trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Ninh Thuận. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá đúng đặc điểm, nguyên nhân tình hình tội trộm cắp do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa tỉnh Ninh Thuận và dự báo tình hình tội phạm, đề xuất các giải pháp phòng ngừa tội trộm cắp do người dưới 18 tuổi thực hiện. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Vận dụng lý luận tội phạm học để nhận diện chính xác nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện ở Ninh Thuận. - Đánh giá thực trạng tình hình tội phạm trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, thực tiễn công tác phòng ngừa của các cơ quan chức năng; từ đó rút ra những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm. - Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trong những năm tới và đưa ra giải pháp phòng ngừa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4 + Phạm vi nội dung: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện. + Về không gian: Địa bàn tỉnh Ninh Thuận. + Về thời gian: Từ năm 2014 đến 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận: Đề tài thực hiện trên cơ sở ơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng các nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, quy luật mâu thuẫn và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định; cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội trộm cắp tài sản của người dưới 18 tuổi, từ đó đưa ra dự báo và đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm này. 5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Phương pháp thống kê: học viên sử dụng kết quả thống kê của các cơ quan tư pháp và các cơ quan liên quan khác để đánh gía tình hình tội phạm trộm cắp do người dưới 18 tuổi thực hiện. - Phương pháp điều tra xã hội học: được sử dụng tiến hành khảo sát, điều tra trên địa bàn nhằm bổ sung cho các nhận xét xét, đánh giá Ngoài ra học viên còn sử dụng các phương pháp như: phương pháp điều tra điển hình; phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương pháp tọa đàm, lấy ý kiến chuyên gia 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm rõ hơn nguyên nhân, điều kiện và các biện pháp phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên một địa bàn cụ thể ở miền Nam Trung bộ-tỉnh Ninh Thuận 5 - Những kiến nghị của đề tài có thể được tham khảo, chọn lọc và sử dụng trong đấu tranh phòng chống tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội phạm trộm cắp nói riêng ở Ninh Thuận. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện. Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận Chương 3: Giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN 1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện 1.1.1. Nhưng đặc điểm tâm, sinh lý đặc trưng của người dưới 18 tuổi Giai đoạn dưới 18 tuổi là giai đoạn con người đang phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Ở giai đoạn này, các em có tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc. Trên thực tế, trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn cho người dưới 18 tuổi. Bên cạnh cạnh đó, lứa tuổi dưới 18 là lứa tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội và chỉ khi được giải thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội. Một đặc điểm tâm lý khá đặc trưng khác của người dưới 18 tuổi là nhu cầu độc lập, đó chính là việc các em muốn tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác. Do có những nhu cầu độc lập mang tính chất thái quá, biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, phô trương. Tất cả những hành vi này của người dưới 18 tuổi đều mang tính chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm tội. Cuối cùng, người dưới 18 tuổi có nhu cầu tìm hiểu và khám phá cái mới. Điều này cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em, nếu các em thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia 7 đình, xã hội, không tự chủ được bản thân và không phân biệt được phải trái, đúng sai. 1.1.2. Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam, được khẳng định trong các văn kiện của Đảng và được thể chế hóa trong luật hình sự theo tinh thần nhân đạo và hướng thiện. Với sự cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội có những khác biệt đáng kể so với người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Sự khác biệt này trước hết được thể hiện trong các quy định về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội, trong đó quan trọng nhất là quy định về nguyên tắc xử lý. Mục đích chủ yếu của việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của họ và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa và chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Đồng thời, khi xử phạt tù có thời hạn, người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Bên cạnh đó, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 8 1.1.3. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài sản Theo Bộ luật Hình sự hiện hành, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật Hình sự quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tội trộm cắp tài sản là một tội phạm cụ thể do Bộ luật Hình sự quy định, đó là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự [8, tr58-59]. Tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện phản ánh đầy đủ những đặc điểm pháp lý về khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015. - Khách thể của tội trộm cắp tài sản: Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại. Trên cơ sở đó, có thể coi khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu. - Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản: Mặt khách quan của một tội phạm bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của tội phạm nếu điều luật quy định và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của tội phạm. Bộ luật Hình sự hiện hành không mô tả hành vi của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn tư pháp hình sự và các công trình nghiên cứu pháp luật hình sự đã tổng kết và thừa nhận hành vi khách quan duy nhất của tội phạm này là “chiếm đoạt” một cách lén lút tài sản của người khác. Dấu hiệu lén lút đặc trưng ở chỗ nó tương phản với những hành vi công khai chiếm đoạt tài 9 sản (công nhiên chiếm đoạt, cướp tài sản...). Hành vi lén lút thực hiện trong điều kiện mà chủ sở hữu tài sản không có khả năng biết được hành vi chiếm đoạt đang xảy ra. Việc che giấu chỉ thực hiện đối với chủ sở hữu tài sản. Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản: đối tượng tác động của tội trộm cắp là tài sản có người quản lý, do người khác chiếm hữu hoặc đang trong khu vực quản lý. Theo Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015 thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Hậu quả do tội tội trộm cắp gây ra là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo Bộ luật Hình sự hiện hành, giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên (với một số tình tiết đi kèm) mới cấu thành tội phạm. ở đây có mối quanhệ nhan quả giữa hành vi trộm cắp tài sản và hậu quả xảy ra khi tài sản của chủ sở hữu bị người khác chiếm đoạt. - Chủ thể của tội trộm cắp tài sản: Căn cứ quy định tại Điều 12 BLHS hiện hành thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều Phần các tội phạm, trong đó có Điều 173 (Tội trộm cắp tài sản) Như vậy, tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra chỉ xuất hiện (phát sinh) khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây: Một là, có hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện. Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm. Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không 10 thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Chủ thể của tội phạm không phải là chủ thể đặc biệt, những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định (đối với khoản 1 và khoản 2 của điều luật thì chủ thể phải từ 16 tuổi trở lên. Đối với khoản 3 và khoản 4 của điều luật thì chủ thể có độ tuổi từ 14 tuổi trở lên) đều có thể là chủ thể của tội phạm. - Mặt chủ quan của Tội trộm cắp tài sản: Hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích phạm tội là chiếm đoạt tài sản. Về chế tài, không phải người nào có hành vi trộm cắp tài sản cũng chịu các chế tài giống nhau. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản sẽ phải chịu mức hình phạt thấp hơn người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: “Người dưới 18 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản là người thuộc lứa tuổi dưới 18 đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo quy định của Bộ luật hình sự”. 1.1.4. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện Để tổ chức phòng chống tội phạm có hiệu quả cần phải nghiên cứu và làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội TCTS do người dưới 18 thực hiện được lý giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả trong triết học Mác - Lênin. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ khách quan giữa các hiện tượng phát sinh, phát triển liên tục theo thời gian. Trong đó, hiện tượng là nguyên nhân, trong những điều kiện 11 nhất định sẽ làm phát sinh ra kết quả. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình”. GS.TS. Võ Khánh Vinh cũng cho rằng “...tìm ra mối liên hệ nhân - quả giữa tình hình tội phạm và các hiện tượng, các quá trình kinh tế - xã hội khác vì mục đích phòng ngừa tội phạm, tức là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” [21]. Khoa học nghiên cứu về tội phạm cho rằng nguyên nhân của tình hình tội phạm là các hiện tượng và quá trình xã hội ẩn chứa những mâu thuẫn và xung đột xã hội, có khả năng làm phát sinh tội phạm. Chúng tồn tại trước tội phạm về thời gian. Còn điều kiện phạm tội là những yếu tố tuy không có khả năng trực tiếp làm phát sinh tội phạm, không chứa đựng những mâu thuẫn và xung đột xã hội nhưng lại tạo ra những khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để thúc đẩy các nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Trong hệ vận động đó, nguyên nhân luôn là nhân tố trực tiếp làm phát sinh tội phạm, luôn thể hiện những mâu thuẫn tồn tại một cách ổn định, bền vững. Còn điều kiện là những nhân tố tồn tại ít có tính bền vững, không ổn định, dễ thay đổi. Về lý thuyết, nguyên nhân và điều kiện là hai phạm trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả là tình hình tội phạm. Tuy nhiên, trong lĩnh vực xã hội nói chung và tội phạm học học nói riêng, sự phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện chỉ mang tính chất tương đối, thực tế đấu tranh và phòng ngừa tội phạm luôn đòi hỏi phải loại trừ cả nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản chỉ ra rằng việc phân định rõ đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản là việc làm khó khăn. Tựu chung lại, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được các nhà khoa học về tội phạm học lý giải 12 dựa trên những hiện tượng và quá trình xã hội. Còn nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm cụ thể được lý giải dựa trên cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. Nguyên nhân của tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi là những hiện tượng xã hội tiêu cực làm phát sinh, phát triển tội TCTS như là hậu quả tất yếu của mình; là sự tác động qua lại giữa các yếu tố bên trong của người dưới 18 tuổi phạm tội TCTS thể hiện qua dấu hiệu, đặc điểm, tính chất của nhân thân và các yếu tố bên ngoài của môi trường sống như kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình, trường học… dẫn đến phát sinh tội phạm TCTS. Còn điều kiện của tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện là những hiện tượng xã hội tiêu cực không tự mình sinh ra tội TCTS mà là hỗ trợ và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân. Do đó, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện là những dấu hiệu, đặc điểm, tính chất của nhân thân và những tình huống hoàn cảnh khách quan bên ngoài trong sự tác động qua lại của chúng dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội TCTS. Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm sau: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện là sự tác động qua lại giữa các yêu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm - sinh lý tiêu cực thuộc cá nhân người dưới 18 tuổi trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định dẫn tới việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định đó là tội trộm cắp tài sản”. 1.1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. 13 Thứ nhất: Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện sẽ tạo cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này một cách hiệu quả. Phòng ngừa tội phạm là việc sử dụng nhiều giải pháp nhằm triệt tiêu, giảm thiểu những mâu thuẫn xã hội, khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Hoạt động này trong thực tiễn chỉ đạt được hiệu quả khi có sự hiểu biết đầy đủ về nguồn gốc phát sinh, tồn tại và thay đổi của tình hình tội phạm, về những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, góp phần vô hiệu hóa, loại trừ những yếu tố liên quan đến nhân thân là nguyên nhân gây ra tội phạm TCTS. Thứ hai: Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiếp tục hoàn thiện chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo tinh thần nhân đạo và hướng thiện, bảo đảm mục đích chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội trong tương lai. Thứ ba: Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện giúp hiểu rõ hơn các đặc điểm nhân thân người phạm tội, xem xét các yếu tố đó trong sự tương tác với các yếu tố của môi trường sống và hoàn cảnh sống làm phát sinh tình hình tội phạm. Đồng thời giúp cho công tác phát hiện, điều tra, xử lý loại tội phạm này được kịp thời Thứ tư: Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện phục vụ cho nghiên cứu đề ra các dự báo chính xác tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện. Thứ năm: Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội TCTS do người dưới 18 tuổi thực hiện góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan