Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn một số đặc điểm nghệ thuật kí vũ bằng...

Tài liệu Luận văn một số đặc điểm nghệ thuật kí vũ bằng

.PDF
112
126
80

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n ===    === L£ THÞ QUÕ Mét sè ®Æc ®iÓm nghÖ thuËt kÝ vò b»ng LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam M· sè: 60.22.34 Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS. TS hµ v¨n ®øc Hµ Néi - 2011 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học Việt Nam từng ghi nhận sự góp mặt của nhiều nhà văn, nhà thơ từ cổ chí kim. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều lí do, không phải tác phẩm nào ra đời cũng được người đọc yêu thích, đón nhận ngay. Và không phải nhà văn, nhà thơ nào cũng được tìm hiểu, nghiên cứu một cách đầy đủ, khách quan.Vũ Bằng là một trong những trường hợp như thế. Chúng ta có thể cho thấy rõ tầm đón đợi của công chúng đối với tác phẩm của ông ở mỗi thời khác nhau như thế nào. Có thể nói, những biến đổi của hoàn cảnh lịch sử, kinh nghiệm sống, nhận thức chính trị, vốn văn hóa, trạng thái tâm lí… đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp nhận của người đọc và tạo nên sự khác biệt ấy. Đồng hành cùng thời cuộc của đất nước Từ những năm 30 của thế kỉ XX, Vũ Bằng liên tục cho ra đời những tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau. Nhưng việc nghiên cứu, tìm hiểu về kí của Vũ Bằng cũng như việc xuất bản và tái bản tác phẩm của ông, đã có sự “chững lại” từ sau ngày đất nước thống nhất. Từ khi nhà văn được công nhận là chiến sĩ tình báo như một sự minh oan, xóa đi những định kiến bất thành văn, cuộc đời và sự nghiệp của ông đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của độc giả và các nhà nghiên cứu. Những năm cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, sự góp mặt của các bài viết các công trình nghiên cứu về Vũ Bằng, cũng như việc tái bản liên tục nhiều tác phẩm của ông, đã trở thành sự kiện có ý nghĩa trong văn học Việt Nam hiện đại. Điều đó cho thấy xã hội đã quan tâm và đánh giá công bằng, khoa học hơn những đóng góp thiết thực của nhà văn đối với nền văn học nước nhà. 1.2. Là nhà văn, nhà báo, Vũ Bằng hiện diện trên văn đàn Việt Nam từ những năm 30 của thế kỉ XX, lúc còn rất trẻ. Từ đấy, như con tằm nhả tơ, ông miệt mài sáng tạo, “dệt” cho đời những tác phẩm văn học có giá trị. Ông viết nhiều thể loại, phản ánh nhiều vấn đề xã hội, con người trong nhiều bối cảnh khác nhau của cuộc sống với phong cách riêng biệt, góp những gam màu sống động cho nền văn học hiện đại nước nhà. Gần hai phần ba cuộc đời chuyên tâm cho sáng tác, Vũ Bằng đã để lại một văn nghiệp rất đáng chú ý. Cai, Miếng ngon Hà Nội, Thương nhớ mười hai, Món lạ miền Nam… là tác phẩm lớn, luôn được đón nhận, đã thật sự neo đậu trong lòng người đọc, trong đời sống văn học, dù thời cuộc có đổi thay. 2 1.3. So với những nhà văn cùng thế hệ, cuộc đời và sáng tác của Vũ Bằng quả có nhiều điểm không bình thường. Vừa hoạt động tình báo vừa sáng tác văn chương, vừa viết báo, lại chịu nhiều khổ đau, oan ức trong cuộc đời, phải sáng tác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau… chúng làm nên nét đặc biệt, thôi thúc sự quan tâm, tìm hiểu của người đọc và của những người làm công tác nghiên cứu. Không những thế, từ những năm sau đổi mới, khi những nghi vấn về cuộc đời và về văn nghiệp được làm sáng tỏ, Vũ Bằng là một trong số ít nhà văn Việt Nam có số lượng tác phẩm tái bản nhiều, lại có tác phẩm được chọn lựa đưa vào sách giáo khoa. Song các công trình nghiên cứu tỉ mỉ, toàn diện về các sáng tác của Vũ Bằng, đặc b iệt là ở thế kí chưa nhiều. Vì vậy, mà chúng tôi quyết định chọn đề tài Một số đặc điểm nghệ thuật kí Vũ Bằng làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vũ Bằng là một trong những hiện tượng văn học mà ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn đã thu hút sự quan tâm của công chúng cũng như các nhà nghiên cứu. Trên rất nhiều sách, báo, tạp chí đã xuất bản trong và ngoài nước, Vũ Bằng được nghiên cứu và giới thiệu về nhiều mặt, với nhiều góc độ khác nhau. Những sáng tác kí của Vũ Bằng là sự góp phần hiện đại hóa một thể loại không xa lạ với độc giả nói chung. Đây cũng là sự so sánh đối chiếu với các tác giả cùng thời. Đồng thời, những sáng tác kí của ông đã khắc phục được những hạn chế mà thơ ca hay văn xuôi không đáp ứng được trước những nhu cầu ngày càng đa dạng của cuộc sống con người. Mặc dù vậy, như đã nói, các sáng tác kí của Vũ Bằng còn xa lạ với bạn đọc và các công trình nghiên cứu về các tác phẩm kí của ông còn rất ít và chưa có tính hệ thống. Hầu hết chỉ là những bài báo mang tính chất giới thiệu, đánh giá về các tác phẩm khi mới ra đời. Chúng ta có thể kể ra một số bài báo tiêu biểu đánh giá về các tác phẩm kí của Vũ Bằng như: Bài viết năm 1944 ở mục Phê bình sách mới trên tiểu thuyết thứ bảy nguyệt san, (số 7). Thượng Sỹ có nhiều lời đánh giá, ngợi khen hồi kí Cai, vì lần đầu được thấy một nhà văn Việt Nam kể về chuyện của chính mình một cách hoàn toàn thành thật, “sự thực làm cho người đọc, ở lắm đoạn đến ghê sợ, và lắm đoạn cảm động đến rơi nước mắt” [97;7]. Theo tác giả, trong những sách 3 truyện nói về thuốc phiện trước đó, chưa có một cuốn nào ý thành thực phơi bày tâm lí người nghiện thuốc phiện rành rẽ như cuốn Cai. Bài viết năm 1960 của Lô Răng sau khi đọc quyển hồi kí Bốn mươi năm nói láo, Khởi hành, (số16), tác giả đã cảm nhận: “Khi gấp sách lại rồi tôi mới nhận ra rằng cái chất Vũ Bằng đã dẫn mình đi – cái cảm khái, tàng tàng, cười cợt kia đã làm mình quyến rũ”. [94;14]. Bài viết năm 1969 của Thượng Sỹ trong lời giới thiệu cuốn Bốn mươi năm nói láo, khi cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên. Theo Thượng Sỹ, Bốn mươi năm nói láo là “lịch sử một kiếp sống lê thê của người viết báo chuyên nghiệp xứ này”. Đó là: “Lịch sử một kiếp sống gắn theo với nhiều kiếp sống, và đó cũng là tâm tư của một người, của nhiều người, cùng đeo đuổi một nghề và thường cùng nuôi một hoài bão như nhau”. [29;7]. Bài viết của Huy Hoàng về Miếng ngon Hà Nội: tác giả đã khẳng định. “Qủa tình chưa có một tác phẩm nào làm tôi rung động bằng Miếng ngon Hà Nội. Phải chăng vì tác giả đã viết ra bằng cả một tấm lòng tha thiết nhớ quê hương?” Miếng ngon của Vũ Bằng được viết với một niềm say mê, đắm đuối đánh động đến cảm xúc tâm hồn, cảm xúc về quê hương đất nước của biết bao thế hệ bạn đọc Việt. [42;233] Bài giới thiệu Món lạ miền Nam năm 1972 của Châu Vũ trên Tạp chí ý thức, (số 5), cho rằng Vũ Bằng viết tác phẩm là xuất phát từ tình cảm đối với những người miền Nam mà lòng hiếu khách, tính nhẫn nại, chất phác, hiền hòa đã làm ông xúc cảm. Nhà phê bình thể hiện nhận thức về miếng ăn qua ý hướng của Vũ Bằng: “miếng ăn là một cái gì có thể gọi là “linh thiêng” nối kết con người với quê hương, với xóm giềng”. [118;8]. Theo tác giả, viết Món lạ miền Nam, Vũ Bằng “muốn khơi dậy trong chính mình và những người xung quanh cái tự hào dân tộc, niềm tin tưởng ở tiền đồ tổ quốc, đã từ lâu ốm o mòn mỏi và đôi khi giao động bàng hoàng trước những thực tế chát đắng, chua cay” [118;8]. Bài viết về Thương nhớ mười hai của Giáo sư Hoàng Như Mai, tác giả đã khẳng định, ngợi ca sức hấp dẫn của tác phẩm là tấm lòng và ngòi bút tài hoa của tác giả. “Dù phải thích nghi với hoàn cảnh chính trị như thế nào đấy, cuốn sách vẫn bày tỏ rất tâm sự của một người con miền Bắc nhớ da diết quê hương bên kia giới tuyến”. Chính tấm lòng ấy đã cùng với ngòi bút tài hoa của Vũ Bằng làm nên giá trị văn chương của tác phẩm này. Nó hấp dẫn chúng ta từng 4 dòng, từng trang” [37; 4]. Giáo sư Hoàng Như Mai còn nhấn mạnh: cuốn sách “có ý nghĩa như một nhịp cầu giao lưu văn hóa” vì nó giới thiệu những sản vật từng tháng ở miền Bắc nước ta, góp phần “làm cho bạn bè năm châu hiểu biết thêm một khía cạnh đặc sắc của nước mình” và “làm cho chúng ta có ý thức tôn trọng hơn đối với những giá trị của quê hương” [37; 5]. Sau Giáo sư Hoàng Như Mai, phải kể đến bài viết năm 1991 của Tô Hoài “Vũ Bằng – Thương nhớ mười hai”, Tạp chí văn học, (số 1). Tô Hoài đã đánh giá rất cao Thương nhớ mười hai, coi đó là “một nét anh hoa của tấm lòng với cuộc đời”, “từng câu tha thiết đã làm cho đến những người đương ở giữa Hà Nội những sành sỏi và sâu sắc toát ra từ ngòi bút sao mà nhớ đến não nùng” [69;31- 16]. Vũ Quần Phương bằng sự cảm thụ tinh tế của một nhà thơ đã nêu bật được một nét đặc sắc của tác phẩm trên nhiều phương diện: “Tình yêu quê hương đất nước ấy là linh hồn của những trang viết hay nhất trong Thương nhớ mười hai” [91;6]. Bao hàm trong đó, còn có tình cảm gia đình truyền thống của người dân Việt. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh còn nhìn thấy vẻ đẹp của cái tôi tác giả thể hiện trên trang văn: “Một con người ham chơi, hiếu động, sành sỏi ẩm thực, tinh tế, tài hoa và rất có duyên. Anh yêu tha thiết quê hương đất nước mình” [82; 40]. Ngoài ra, còn một số bài viết nhỏ, lẻ bình phẩm vẻ đẹp tác phẩm qua đoạn trích: Tháng ba rét nàng bân có giá trị như của Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đặng Anh Đào. Nguyễn Thị Thanh Xuân năm 1994 trong bài “Khúc ca cảm hoài của kẻ tình nhân” lại đi sâu khám phá nhân vật trữ tình: “một chàng nhân tình hào hoa lịch lãm, biết sống đẹp và cảm người yêu của mình đến từng chân tơ kẻ tóc”. Tác giả cũng chú ý nguồn mạch tạo nên cái đẹp của tác phẩm cái đẹp như ta đã thấy qua “tháng ba rét nàng Bân – vốn có từ đời sống, nhưng cũng là phát hiện riêng của tâm hồn Vũ Bằng”. Còn Đặng Anh Đào năm 1996 với bài viết “Tháng ba đi tìm thời gian đã mất”, Tiếng nói tri âm, T.2,Nxb.Trẻ,Tp.HCM. Lại là lời ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên trong đoan văn coi đó là: “Cuốn phim ảnh màu tuyệt đẹp” về “Những biến động tinh tế nhất của cỏ cây, mây nước” và ngợi ca vẻ đẹp của người đàn bà có cái tên giản dị: Qùy: “Nàng là ánh sáng huyền diệu, kì ảo tỏa ra ngay từ đầu tác phẩm”. Tác giả bài viết cũng là người đầu tiên nêu cụ thể nét đặc sắc trong nghệ 5 thuật kí Vũ Bằng “nhân vật trữ tình và chủ thể hành động không được đặt ở một ngôi duy nhất như thường thấy trong thể hồi kí”. Nghiên cứu về kí của Vũ Bằng, đầy đủ và dành nhiều công sức, tâm huyết có lẽ là Văn Gía năm 2000 với công trình: Vũ Bằng – Bên trời thương nhớ. Tác giả đánh giá cao về kí của Vũ Bằng: “Ngòi bút viết kí của ông lấp lánh tài hoa”. Văn Gía đã dành khá nhiều trang để ca ngợi những tác phẩm kí của Vũ Bằng như: Thương nhớ mười hai. Theo anh thì Vũ Bằng đã “trãi gấm hoa” lên những trang văn, và “ngay cả người đọc khó tính nhất cũng phải thừa nhận Thương nhớ mười hai là một tác phẩm đặc sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại [63;59]. Mạnh dạn hơn, Văn Gía còn khẳng định: “Với những tác phẩm kí trữ tình này, ông đã có một vị trí chắc chắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Lịch sử thể loại kí trong lịch sử văn học Việt Nam sẽ phải khắc đến ông như một sự đóng góp quan trọng không thể thiếu được” [63; 85]. Tiếp theo còn có Lưu Khánh Thơ với bài viết năm (2000), “Vũ Bằng bên trời thương nhớ”, Lao động (2/6/2000), Đỗ Hải Ninh năm (2006), “Kí trên hành trình đổi mới”, Nghiên cứu văn học (số 11). Như vậy, có thể nói, các bài viết này đã nêu bật được những đặc trưng tiêu biểu và quan trọng nhất trong các tác phẩm kí của Vũ Bằng là đã phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc đời, thiên nhiên, con người, văn hóa, phong tục, và nắm bắt được bản chất của cuộc sống với lối viết giản dị, chân thực nhưng cũng giàu chất thơ. Tuy nhiên, sự nhìn nhận, đánh giá còn chưa thật cụ thể và hệ thống. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với việc chọn đề tài Một số đặc điểm nghệ thuật kí Vũ Bằng, chúng tôi muốn đi vào tìm hiểu cuộc sống và con người, thiên nhiên, văn hóa ẩm thực được phản ánh trong các tác phẩm và nghệ thuật viết kí của ông. Từ đó, đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đồng thời góp phần tìm hiểu một cái nhìn mới về thể loại kí trong cảm quan của một nhà văn, nhà báo. Từ đó, có thể tìm hiểu một cách hoàn thiện và đầy đủ hơn về thể loại kí trong thời hiện đại. 6 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm kí của Vũ Bằng. Tuy nhiên, có sự so sánh, đối chiếu với các tác giả trước đây và tác giả cùng thời để có cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn. Các tập kí của Vũ Bằng được khảo sát trong luận văn này: - (1944), Cai , Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. - (1949), Bát cơm, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. - (1960), Miếng Ngon Hà Nội, Nxb. Nam chi tùng thư, Sài Gòn. - (1969), Bốn mươi năm nói láo, Csxb. Phạm Quang Khải, Sai Gòn. - (1970), Món lạ miền Nam, Nhà sách tân văn, Sài Gòn. - (1971), Thương nhớ mười hai, Nhà sách tân xuân, Sài Gòn. - (2000), Tuyển tập Vũ Bằng (tập 1), Nxb. Văn học, Hà Nội. - (2003), Mười chín chân dung nhà văn cùng thời, Nxb. ĐHQGHN. - (2004), Mười bốn gương mặt nhà văn đồng nghiệp, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội. - (2005), Vũ Bằng toàn tập – tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội. 4. Phương pháp nghiên cứu Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp lịch sử - xã hội - Phương pháp so sánh, đối chiếu 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn gồm có ba chương. Chương 1. Khái lược kí và hành trình sáng tác của Vũ Bằng Chương 2. Cuộc sống và con người, thiên nhiên, văn hóa ẩm thực trong các tác phẩm kí của Vũ Bằng Chương 3. Nghệ thuật kí Vũ Bằng 7 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 KHÁI LƯỢC KÍ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA VŨ BẰNG 1.1.Khái lược kí Theo Từ điển tiếng việt định nghĩa kí là “một thể văn tự sự viết về người thật, việc thật, có ý nghĩa thời sự, trung thành với hiện thực ở mức độ cao nhất”. Theo Từ điển văn học xác định: “Kí là một loại hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết và kịch, bao gồm nhiều thể loại như bút kí, hồi kí, du kí, nhật kí, phóng sự, tùy bút, tạp văn, tự truyện… Kí phản ánh sự việc và con người”. Cũng như tiểu thuyết, kí là một loại văn học vô cùng linh hoạt và năng động. Từ thể loại này, nhiều nhà văn đã bộc lộ tài năng và trở nên nổi tiếng như: Tư Mã Thiên, M.Gorki, I.Erenbua, JohnReed, Lỗ Tấn… Trong Văn học Việt Nam, kí cũng là một trong những thể loại văn học được các nhà văn chuyên tâm sáng tác và các nhà lí luận phê bình quan tâm với nhiều ý kiến khá đa dạng và phong phú về việc xác định khái niệm và đặc trưng thể loại. Từ lí thuyết của các nhà nghiên cứu, từ thực tế sáng tác của các nhà văn ,chúng tôi xác định: kí là một loại thể mang tính thời sự, nhạy bén và giàu biểu cảm. Nó phản ánh chính xác, linh hoạt hiện thực đời sống và thể hiện ý tưởng cảm xúc của nhà văn về hiện thực ấy. Kí bao gồm các thể: bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, tùy bút, tạp văn… Về việc phân biệt kí văn học và kí báo chí, đã từng có những quan niệm khác nhau, hoặc phân chia một cách cực đoan hoặc xóa nhòa ranh giới giữa kí văn học và kí báo chí. Riêng chúng tôi thống nhất với quan niệm xem cả hai loại kí đều tôn trọng tính xác thực và tính thời sự, song “kí báo chí đòi hỏi tính xác thực phải được bảo đảm ở mức tuyệt đối, và tính thời sự cũng mang tính chất cấp bách” và kí văn học thì “đề ra yêu cầu cao hơn chất suy nghĩ và tình cảm của chủ thể”. Trong văn học Việt Nam hiện đại, nhiều nhà văn dùng kí để phản ánh nhanh nhạy và trọn vẹn các thời đoạn, các sự kiện lịch sử chủ yếu của đời sống đất nước và con người Việt Nam như Nguyễn Đình Thi, Thép Mới, Nguyễn Khải, Nguyễn Trung Thành… cũng có nhà văn sử dụng kí như một loại tự truyện đó là Nguyên Hồng, Tô Hoài, Anh Thơ, Huy Cận…Tuy nhiên, có lẽ, trên văn đàn, các nhà văn được xem là gắn bó tài hoa ở thể loại này, phải kể đến 8 Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và sau này là Hoàng Phủ Ngọc Tường, với Nguyễn Tuân tùy bút là thể loại mà ông thủy chung và chính nó đã làm cho ngòi bút ông thăng hoa và để lại dấu ấn cá tính trên từng trang viết. Điều đó thể hiện ở việc lựa chọn thể loại có chủ địch và việc đặt tên cho tác phẩm của Nguyễn Tuân (Tùy bút I, Tùy bút II). Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, bút kí (Ngôi sao trên đỉnh phu văn lâu, Rất nhiều ánh lửa, Hoa trái quanh tôi, Ai đã đặt tên cho dòng sông…) và nhà đàm, là thể loại nhà văn gắn bó và được xem là tài năng. Còn Vũ Bằng hồi kí và tùy bút được xem là thể loại nhà văn thành công nhất. Tuy nhiên, Vũ Bằng không có sự gắn bó chuyên biệt với chúng như hai nhà văn nói trên mà ở tác phẩm của ông, ta thấy có sự giao thoa giữa các thể kí. Điều này đã tạo nên sự khác biệt của ông so với các nhà văn khác cùng viết thể loại này . Có thể nói, kí chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Bằng và cũng chính kí làm nên nét độc đáo, riêng biệt của ông. Nghiên cứu kí Vũ Bằng trong hành trình phát triển của nó trên cơ sở lí thuyết đề cập và nhằm làm rõ những đặc sắc mà kí của nhà văn này đã đạt được. 1.2. Hành trình sáng tác của Vũ Bằng Là một nhà văn, nhà báo Vũ Bằng không thể thoát ra được hoàn cảnh lịch sử xã hội mà mình đang sống để sáng tác. Hơn nữa, ông lại là nhà văn có số phận khá đặc biệt, vừa sáng tác như một nhà văn chuyên nghiệp; lại vừa dùng văn chương như một vỏ bọc cần thiết để thực nhiệm vụ cách mạng với tư cách của một nhà tình báo. Vì vậy, có thể nói, Vũ Bằng là một nhà văn có số phận đặc biệt mà cuộc đời luôn bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử. Hoạt động sáng tác của ông chịu sự chi phối của lịch sử văn học và chịu ảnh hưởng từ những biến động của chính trị xã hội. Và ngược lại, chính hoạt động nhiều mặt và số phận đặc biệt của ông đã là một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử văn học hiện đại. Đây là điểm mới mà luận văn cần hướng tới. 1.2.1. Cuộc sống và hoạt động văn học những năm trước 1945. 1.2.1.1. Cuộc sống những năm trước 1945 Vũ Bằng tên thật là Vũ Đăng Bằng. Ông sinh ngày 03/ 06/ 1913 tại Hà Nội. Bình tro thi hài ông ở chùa Vĩnh Nghiêm, ghi năm sinh là 1913. Trên thực tế, ngoài công trình nghiên cứu của Thế Phong, Văn Gía và Từ điển văn học xác định Vũ Bằng sinh năm 1913, còn lại các bài viết trên sách báo đều cho rằng Vũ Bằng sinh năm 1914. Nhà giáo Vũ Hoàng Tuấn (con trai của nhà văn Vũ Bằng và bà Nguyễn Thị Qùy) cho biết 1913 là năm sinh chính xác theo gia phả 9 và bài vị trên bàn thờ tổ. Ông không biết vì sao lại có tài liệu ghi là 1914. Tờ trích lục hôn thú của Vũ Bằng và bà Lương Thị Phấn cũng ghi năm sinh của ông là 1913. Sinh ra trong một gia đình nho học nổi tiếng ở phố Hàng Gai, Hà Nội. Cụ thân sinh là Vũ Đăng Tự, hiệu Ân học, xuất thân từ dòng họ túc nho Vũ hồn – một Dòng họ nổi tiếng truyền thống khoa bảng nhiều đời, thuộc xã Ngọc Thục, Huyện Luông Ngọc, tỉnh Hải Dương. Hai cụ thân sinh Vũ Bằng làm nghề xuất bản, có nhà sách Quảng Thịnh ở số 115 phố Hàng Gai Hà Nội, chuyên in ấn và phát hành những chuyện dân gian, chuyện Nôm, đáp ứng nhu cầu đọc cho bà con ở các làng quê. Và cũng chính từ nguồn sách này và từ kho sách riêng của gia đình, Vũ Bằng đã có được những hiểu biết về văn học Việt Nam và văn học Thế giới. Niềm thích thú, say mê văn chương cũng từ đó nảy sinh. Ông tâm sự: “Tôi chỉ nhớ rằng thuở nhỏ tôi ưa đọc sách là vì nhà tôi là nhà bán sách, ngoài thời gian học bài tôi phải ngồi bán sách, xếp sách để gửi bán đi khắp nước. Lúc rãnh tôi vồ lấy sách để đọc: từ đọc sách tôi thích đọc báo; đọc mãi thấy hay thì tôi làm thơ, tôi viết báo…” [29;13]. Là con thứ tư trong một gia đình có chín người con, Vũ Bằng không phải vất vả trong chuyện mưu sinh mà còn được mẹ và các anh chị tạo điều kiện học hành. Lúc nhỏ, Vũ Bằng học tại trường tiểu học Hàng Vôi. Lớn lên, ông theo học trường Lycee Albertsarrau - một trường Pháp nổi tiếng ở Hà Nội vào thời ấy. Đó là ngôi trường dành cho con em người Pháp; con em người Việt phải thuộc hàng có thế lực hoặc khá giả mới vào được. Vũ Bằng trở thành học sinh của trường nhờ vào sự giàu có của gia đình và mối quen biết của bà cụ thân sinh với một số người khách qua những lần mua bán. Gia đình và trường học là môi trường đầu tiên để Vũ Bằng thực hiện sở thích của mình – viết văn và làm báo. Bà mẹ của Vũ Bằng dự định, sau khi ông tốt nghiệp, sẽ nhờ một người Pháp nhận ông làm con nuôi để đưa sang Pháp học về nghề thuốc hoặc luật, để ra Làm tri huyện. Nhưng những tính toán, dự định của bà đã không thành. Vào năm cuối học tú tài, Vũ Bằng bỏ học để theo nghề viết báo. Thời thơ ấu của Vũ Bằng trôi qua khá êm đềm trong một gia đình đầm ấm, cầu tiến. Tuy thiếu thốn tình cảm của cha từ lúc bé nhưng ông lại may mắn có được bà mẹ tháo vát, luôn vì con và đặt niềm tin vào các con. Vũ Bằng cũng may mắn có được những anh chị em chịu thương chịu khó, luôn thương yêu, 10 nâng đỡ nhau. Vũ Bằng lớn lên, có điều kiện học hành và đến với văn chương, báo chí trong hoàn cảnh gia đình thuận lợi, không bị chi phối bởi khó khăn, trở ngại nào. Tuy nhiên, cũng chính từ cuộc sống sung sướng trong gia đình giàu có, từ tình yêu thương mù quáng của người cô, từ sự chiều chuộng hết mực của người mẹ và nhất là từ sự nông nổi của bản thân mà những ngày còn là học sinh ấy, Vũ Bằng đã sa đà, nghiện hút, thích ăn chơi, rượu chè. Ở tuổi đôi mươi, ông đã nghiện thuốc phiện rất nặng. Lại thêm những ngày đầu viết báo, ông suy nghĩ hết sức ngây thơ ( cũng có thể đây là một cách biện hộ cho sở thích nông nổi của ông): là một nhà báo thì phải khác người, phải lập dị. Và để tỏ ra mình cũng là tay lão luyện như ai, ông hút dữ, uống dữ.Vũ Bằng đã bước vào đời bằng những bước đi chênh vênh như thế . Bằng ý thức vươn lên, bằng nghị lực mạnh mẽ, ông đã vượt thoát được vòng tay “nàng tiên nâu”. Từ những cuộc trò chuyện với Nguyễn Văn Vỹ, Vũ Bằng nhận thức làm báo là nghĩa vụ lớn lao. Nhìn lại mấy năm làm báo chí nhắm vào những tin tức lặt vặt, ông muốn làm khác đi, muốn tranh đấu. Vũ Bằng ý thức được tình trạng của ông: “Cứ nằm dài hút sách bê tha như thế này thì có hy vọng gì thoát khỏi sự chi phối của xã hội và chính trị của Pháp” [29;76]. Và Vũ Bằng quyết định cai nghiện. Năm 1935, kkhi mới ngoài 20 tuổi, Vũ Bằng kết hôn với bà Nguyễn Thị Qùy. Bà Qùy trước đó đã có chồng và bốn con, nhưng bị chồng phụ. Bà hơn Vũ Bằng 6 tuổi (có nhiều tài liệu nói bà hơn Vũ Bằng 7 tuổi), sinh năm 1907, quê ở xã Tư Thế, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Là con gái kinh Bắc chính gốc, bà còn là người khéo tề gia nội trợ, lại thuộc nhiều ca dao, cổ tích, truyện kiều… mối lương duyên của họ quả là lương duyên tiền định. Sự chênh lệch nhau về tuổi tác, sự bàn tán ra vào của bạn bè, người thân cả hai bên và nhất là sự từ chối quyết liệt của bà mẹ… đã không có ý nghĩa gì trước tình yêu mãnh liệt của hai người. Vũ Bằng đến với bà Qùy xuất phát từ sự thương cảm trước nỗi bất hạnh trong cuộc sống gia đình của bà. Hơn nữa, điều đó cũng cho thấy quan niệm tiến bộ trong hôn nhân của ông. Sống với Vũ Bằng, Bà Qùy lo toan, vun thém mọi chuyện trong gia đình để ông yên tâm sáng tác. Hai ông bà ăn ở với nhau chỉ có một người con chung duy nhất là anh Vũ Hoàng Tuấn (tên tục là Lạc, có khi còn gọi là Lăng). Khi về làm bạn với Vũ Bằng, bà Qùy có mang theo một người con riêng tên là Khoái. Thế là cả hai anh cùng lớn lên dưới một mái nhà và cùng 11 nhận được lòng yêu thương, chăm chút của hai ông bà. Xem con riêng của vợ như là con mình Vũ Bằng quả là người có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Gia đình ấy đã sống những tháng ngày hạnh phúc, vui buồn, sướng khổ có nhau để rồi sau này, nó trở thành nỗi nhớ nhung, tiếc nuối khôn nguôi khi xa cách. Và có thể nói, những ngày tháng hương lửa mặn nồng bên nhau cùng với hình ảnh người vợ chiều chồng, vén khéo ấy sau này đã trở thành một nguồn cảm hứng để nhà văn Vũ Bằng dệt nên những trang văn đẹp nhất của đời ông. Với gia đình, Vũ Bằng đã không lo được và thậm chí đã không quan tâm đến những người thân như mẹ, cô và những anh chị em của mình. Ông kính trọng, biết ơn và ăn năn khi lầm lỗi với mẹ, cô nhưng ông cũng đã là làm họ buồn lòng thật nhiều vì chuyện làm báo, chuyện hút thuốc phiện và chuyện lấy vợ… Về chuyện làm báo, mẹ ông đã khóc hết nước mắt khi bao nhiêu hy vọng đặt vào ông bị sụp đổ. Ông đã bỏ qua lời van xin của mẹ: “Nếu ở đời có cái nghề gì xấu nhất, tồi bạo nhất, bất nhân bạc ác nhất thì nhất định đó là nghề làm báo” [29;33]. Về chuyện nghiện hút của Vũ Bằng, nguyên nhân sâu xa là từ hiện thực xã hội nhưng Vũ Bằng và nhiều nhà văn đã từng đề cập. Sau này, Vũ Bằng thấu hiểu căn bệnh của cả một thế hệ thanh niên cùng thời, được gọi tên “bệnh thời đại”. Đó là căn bệnh u uất, bế tắc, ngột ngạt trong xã hội loạn lạc. Họ sống không biết bám víu vào đâu, sống bấp bệnh. Họ đã “sống một cuộc đời không tin tưởng. Không có ngày mai. Sa ngã. Trụy lạc” [14;19]. Chính Vũ Bằng và một số nhà văn, nhà báo thời kỳ ấy là bằng chứng về lớp thanh niên sống không lý tưởng, không niềm tin. Nhiều lần, trong Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng nhắc đến hiện thực này. Khẳng định nguyên nhân biến thiên của xã hội, Vũ Bằng trực tiếp và thẳng thừng kết tội chế độ thực dân: “Xã hội tràn đầy cảnh bất công bóc lột tạo ra vì chế độ thực dân tàn ác. Đa số thanh niên hồi ấy, cũng như tôi, không biết dùng tiềm lực làm gì, buông theo một cuộc đời trác táng trong rượu chè, đỉ bợm” [29;56]. Về nguyên nhân của căn bệnh này, Tạ Tỵ cũng đã từng khẳng định: “Cái tâm trạng chán đời của lứa tuổi thanh niên những năm 1930 1940, nó là mẫu số chung cho bài toán của một dân tộc bị đô hộ [115;109]. Tuy nhiên, thuở ấy, Vũ Bằng đã không vượt qua được những nông nổi của chính mình. Trong lúc hút và trong thời gian cai nghiện, ông cũng nhiều lần nghĩ đến người cô tội nghiệp đã đem bao nhiêu tình thương đặt vào ông. Nhưng 12 mãi sau này, khi cô chết và khi đã cai được ông mới thực sự hối hận: “Bây giờ nghĩ đến, sao có một thời kỳ đã có thể tàn ác thế!” [29;57]. Với người mẹ tất bật buôn bán nuôi con. Ông cũng có lúc nghĩ lại biết thương mẹ vất vả “có khi đến mười một mười hai giờ đêm, mà nào đã được ngủ yên… đến một hai giờ sáng người mới được nghỉ lưng” [29;53]. Nhớ lời mẹ khuyên, ông bỏ thuốc, thương mẹ đau khổ khi biết mình nghiện hút, ông tự nhận mình là thằng con trời đánh. Tuy nhiên, khi cơn nghiện đến thì dường như ông quên cả. Về chuyện ông lấy vợ, mẹ ông đã đau khổ biết nhường nào bởi vì bà Qùy không chỉ là người đang có chồng, có con mà còn vì chồng bà Qùy là người có họ hàng với bên nội Vũ Bằng . Đành rằng Vũ Bằng yêu nghề báo nên bỏ học, đành rằng Vũ Bằng thương người nên lấy người đã có chồng, đành rằng Vũ Bằng chỉ có một giai đoạn bê tha, đành rằng Vũ Bằng hết lòng yêu thương vợ con… nhưng quả là ông đã không làm tròn, làm tốt được trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình. Nhưng xét về phương diện cá nhân của một người có niềm đam mê, sáng tạo thì ông đã có một sự dấn thân hết mình cho sự lựa chọn đầy trách nhiệm. Và chính sự chọn lựa này như một dự báo cho số phận đặc biệt của ông trong hành trình sống và sáng tạo nghệ thuật mà có nhà nghiên cứu cho rằng đó là một “số phận”. Khảo sát kí của Vũ Bằng trong hành trình sáng tạo, cũng là một vấn đề mà luận văn hướng tới . 1.2.1.2. Hoạt động văn học: Ở Việt Nam, trong sự phát triển văn học thời kì 1930 – 1945, báo chí có vai trò góp phần vào sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần và tác động mạnh mẽ đến sự hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Bởi lẽ: “Sự gắn bó giữa báo chí và văn học trong giai đoạn hình thành nền văn học hiện đại là một hiện tượng mang tính khu vực” [60;15]. Có thể nói, sự phân hóa và phát triển của báo chí Việt Nam vì vậy, cũng đồng thời phản ánh, gắn bó với lịch sử hiện đại Việt Nam. Là cây bút chủ lực của nhiều tờ báo Vũ Bằng đến với văn chương không phải là tình cờ. Từ nhỏ ông đã thích đọc sách. Trước hết vì nhà ông bán sách, sau nữa vì bản thân vốn thích sách. Nhà văn Tô Hoài đã từng gọi Vũ Bằng là mọt sách. Đọc thấy hay ông lại nghĩ đến chuyện làm thơ, viết báo như mọi người rồi lại mơ ước trong tương lai sẽ trở thành tên tuổi trong nền văn chương 13 quốc tế. Dẫu suy nghĩ nông nổi, có phần bốc đồng nhưng ước mơ trở thành nhà văn trong tương lai của Vũ Bằng đã được nuôi lớn từ những ngày còn bé. Yêu văn chương và ôm mộng trở thành văn sĩ, ở trường Lycees Albert Sarraut, ông không buồn học các môn toán, vật lý, hóa học, chỉ học dòng về văn chương Pháp, đọc chuyện Pháp. Ở tuổi mười lăm Vũ Bằng bắt đầu học Ale xandre Dumas, Andres Theuriet, Guy De Maupassant, Gustave Flaubert… “Thoảng học có đến lớp thì thể xác thì ngồi đó mà hồn thì phiêu diêu tận đâu đâu: tôi nghĩ đến cuốn Cours de journalism pả corespondance và nung nấu một kịch ngắn hay một tiểu thuyết viết cho báo An Nam tạp chí của Nguyễn Khắc Hiếu” [29;29]. Thời kì đó, giữa không khí văn hóa Pháp, nói tiếng Pháp với nhau, hiểu văn học Pháp, những chàng thanh niên Tây học trong lớp thường đọc gì thì bảo cho nhau biết mà đọc. Họ nghiền ngẫm rồi tấm tắc khen từng cách dùng từ, viết câu, kết cấu… mãi đến sau này, Vũ Bằng vẫn còn nhớ hai cuốn sách làm ông rung cảm nhất là Lé feuilles mortes của Andres Theuriet do người bạn Trần Mai giới thiệu, còn cuốn Manon Lescaut thì do Lê Khắc Quyên giới thiệu, Sự ra đời và phát triển của báo chí thời Pháp thuộc, việc du nhập văn hóa Phương Tây mà cụ thể là văn học Pháp chính là cơ sở thuận lợi cho những tài năng văn chương, báo chí phát triển, trong đó có Vũ Bằng. Mê đọc báo Đông Tây, thích những truyện ngắn trên báo và thán phục các tác giả, Vũ Bằng ước có một bài đăng báo cùng họ. Truyện ngắn Con ngựa già được đăng trên mục bút mới báo Đông Tây năm 1930, lúc tác giả chưa tròn mười bảy tuổi, khiến ông xúc động tưởng có thể ngất đi. Cũng trong năm đó, Vũ Bằng trình làng tạp văn châm biếm Lọ Văn khá nổi tiếng. Những bạn cùng thời như Tô Hoài, Tạ Tỵ, Thượng Sỹ… đều nhắc đến tạp văn này như lời ca ngợi tài năng của Vũ Bằng thời trẻ. So với nhiều bạn văn cùng thời, Vũ Bằng có nhiều thuận lợi từ hoàn cảnh gia đình, từ môi trường văn hóa xã hội. Tuy nhiên, ý thức học hỏi, chịu khó trau dồi cùng niềm khát khao, say mê trở thành người viết văn của chính ông mới là động lực quan trọng đưa ông đến với nghề. Ở Vũ Bằng, từ việc tiếp nhận văn chương phương Tây đến việc sáng tác là cả một quá trình học nghề và hành nghề. Thời kỳ văn học bước vào cuộc đổi mới, tuy không còn là một cây bút mới nhưng những tạp văn và sáng tác đầu tay trước kia của Vũ Bằng vẫn chưa 14 có tiếng vang. Khoảng năm 1937 trở đi, khi Vũ Bằng cho in liên tiếp một loạt truyện ngắn, truyện vừa trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy thì tiếng nói nghệ thuật của ông mới nổi lên. Từ đó, Vũ Bằng xuất hiện như một cây bút chuyên nghiệp. Sau Tạp văn Lọ Văn, Tiểu thuyết Một mình trong đêm tối được nhiêu người biết đến, Vũ Bằng đã chủ tâm và mở rộng lối riêng. Những sáng tác của Vũ Bằng giai đoạn này cho thấy ông thực sự là một nhà văn chuyên nghiệp với nhiều sáng tác đa dạng về thể loại. Và đặc biệt là thể loại kí, với các tác phẩm như: Hội Lim (1931), Cái búa con (1931) (hai bài kí in trong mục xã hội Ba đào kí trên tờ An Nam tạp chí ra tháng 3/193, thuộc loại những tác phẩm sớm nhất của Vũ Bằng); và Cai (1944). Vũ Bằng đã sáng tác đúng theo cái mạch của văn học giai đoạn 19321945 – thoát li thi pháp Trung Đại, khẳng định cái tôi. Việc thử nghiệm loại truyện mới (hướng ngòi bút vào hiện thực đời thường, có cốt truyện đơn giản) với các hình thức nghệ thuật mới của Vũ Bằng (kiểu kết cấu tâm lí, hình thức viết thư…), là một cách khẳng định cái tôi trong sự tìm tòi, sáng tạo. Như vậy, ở giai đoạn này, con người nghệ sĩ Vũ Bằng hiện lên với cả mặt tốt và mặt xấu: nghiện hút và ham mê văn chương, báo chí. Đó cũng là lối sống của nhiều văn nghệ sĩ thời tiền chiến (Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Thâm Tâm…). Chất nghệ sĩ khiến Vũ Bằng sáng tác văn chương, không màng đến dự định của mẹ ông về việc nghề thuốc hay nghề luật. Ông bất cần cuộc sống gia đình khá giả, chỉ quyết thực hiện đam mê. Lòng yêu nước của Vũ Bằng giai đoạn này tuy còn mơ hồ nhưng ông đã có ý thức cai nghiện để “làm một cái gì khác”. Con người yêu nước thức tỉnh con người nghệ sĩ, từ một nghệ sĩ không có phương hướng (nghiện hút), ông đã trở thành một nghệ sĩ có phương hướng (cai nghiện). 1.2.2. Cuộc sống và hoạt động văn học trong vùng Hà Nội tạm chiếm (1945 1954) 1.2.2.1. Cuộc sống trong vùng Hà Nội tạm chiếm (1945 - 1954) Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, hầu hết dân chúng Hà Nội đều tản cư về hết miền quê, tạm rời nơi đang ở đến xa nơi chiến sự hơn. Cùng với bao người dân Hà Nội khác Vũ Bằng và gia đình đi tản cư. Gia đình ông lần lượt đến vùng Hà Nam, Hòa Bình, thuộc khu ba. Hội nhập và cảm nhận cuộc sống vùng tản cư, Vũ Bằng chú ý đến tâm trạng, tình cảm của con người, xem như đó là những biểu hiện chủ yếu để nhận ra tình hình thời cuộc. Nhà văn 15 không giấu diếm cảm xúc: “Tôi chưa hề được sống những giờ phút sội động và ấm lòng như thế: đồng bào thương xót nhau như ruột thịt; người dân giúp đỡ nhau thực tình; anh lính ho thì tự dưng người dân thấy ngực mình đau nhói” [29;163]. Đó là nhận thức và cảm xúc mới mẽ của nhà văn về cuộc đời, về con người. Trong những cảnh ngộ đặc biệt, nhà văn mới phát hiện ra những nghĩa cử đầy tình người mà trước đây, ở nội thành, họ chưa từng biểu lộ, bộc bạch. Những ngày kháng chiến ở hậu phương ấy, Vũ Bằng cũng đã từng rưng rưng nước mắt khi nhiều bạn văn nghệ sĩ như Nguyễn Phổ, Nguyễn Kỳ, Doãn Kế Thiện, Nam Cao, Thượng Sỹ… từ những vùng kháng chiến xa xôi tìm đến thăm. Vũ Bằng chưa bao giờ tâm sự với bạn bè hay thể hiện trong sáng tác về việc ông không hài lòng hay bất mãn đối với cuộc sống vùng tản cư. Thế nên, việc ông quay về thành sau đó là một bất ngờ. Ngày đó, vấn đề hồi cư vào thành hay trụ lại vùng tản cư chi phối dữ dội đến suy nghĩ và quyết định của bao người, khiến những người có bản lĩnh cũng lung lay, dao động. Và rồi xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, nhiều người đã “ Dinh tê”. Nhưng dù với lý do nào đi nữa thì những người hồi cư đều không được quần chúng nhân dân yêu nước chấp nhận. Những người hồi cư thường chịu án “dinh- tê”, mang tiếng xấu là quay lưng với kháng chiến, bất hợp tác với kháng chiến. Cuối năm 1948, nhà văn Vũ Bằng cùng gia đình “dinh –tê” vào Hà Nội. Tất nhiên, ông và gia đình không thể tránh được sự phán xét nghiêm khắc của mọi người. Với bà con, bạn bè và hàng xóm thì gia đình Vũ Bằng vốn thuộc hàng giàu có, từng sống phong lưu. Do vậy, việc ông hồi cư được dư luận cho là không chịu nỗi cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nơi vùng tản cư, không đồng cam cộng khổ với nhân dân. Thực tế, chỉ có Vũ Bằng mới biết được động cơ nào đã khiến ông chủ động chọn lựa tình thế hồi cư. Trong Bốn mươi năm nói láo, ông bày tỏ suy nghĩ của bản thân về đất nước, về việc ông từ biệt kháng chiến để về Hà Nội: “Thế rồi tôi dinh – tê. Tôi dinh nhưng không có một chút mặc cảm, là vì tôi quan niệm rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, có vấn đề hèn hay không là tùy vào nhân cách từng người” [29;167]. Nhưng ba năm sau (Năm 1971), những lời Tự ngôn trong tập truyện kí Bát Cơm lại giải thích với lý do khác về hành động dinh – tê ngày nào và tác giả tự nhận mình là kẻ kém bản lĩnh, đáng khinh: “Cuối năm 1948, tôi từ biệt kháng chiến để về Hà Nội. Lý do không phải vì ý thức hệ hay không được 16 đãi ngộ, mà chỉ vì cơm áo. Tôi tự biết là hèn” [47;385]. Thật khó lý giải về những mâu thuẫn trong những điều tác giả bộc bạch trên các trang viết. Sau này, Văn Lang - một nhà báo lão làng từng tham gia hoạt động cách mạng bằng hình thức hoạt động báo chí công khai ở Nội Thành năm 1948-1949 - cho biết là những ngày ấy (1948), ông đã biết Vũ Bằng vào Hà Nội hoạt động cho ta và là người của ta. Cả hai cùng biết nhau hoạt động cách mạng nhưng không ai nói với ai về điều đó. Ông nói: “Anh Vũ Bằng hoạt động kín lắm, không ồn ào và nông nổi như cánh chúng tôi đâu” [63;16]. Ông Văn Sáu (tức Nguyễn Văn Thu), người được phân công đặc trách mạng lưới AS9, liên lạc viên giữa chiến khu với các đơn vị tình báo ở nội thành từ năm 1948, về sau cùng cho biết từ 1948 -1951, lần nào về Hà Nội ông cũng ghé nhà Vũ Bằng để truyền đạt chỉ thị của trên: “Giữa anh Vũ Bằng và tôi ngoài cái tình đồng chí với nhau, tôi lại ít tuổi hơn, được coi như đứa em”. [63;15]. Theo ông Trần Văn Hội, nguyên cán bộ ở đơn vị 1752 bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam, thì năm 1952, ông được phân công vào nội thành Hà Nội để kiểm tra các cơ sở, và rà soát lại lực lượng cán bộ, quần chúng có cảm tình với cách mạng… Ông đã được tổ chức giao cho bản danh sách mạng lưới hoạt động của ta ở nội thành, trong đó có nhà văn Vũ Bằng. Ông cũng cho biết là vào những năm1952 - 1953, ông thường xuyên lui tới nhà Vũ Bằng ở số 11 Hàng Da để liên lạc. Đến cuối những năm 90, qua những người đã từng hoạt động với Vũ Bằng, qua những bạn văn cùng thời với ông, công chúng mới biết được từ năm 1948 đến 1954, ngôi nhà số 11 Hàng Da của nhà văn Vũ Bằng đã từng là cơ sở của các cán bộ hoạt động bí mật. Đó là nơi mà các nhà văn nổi tiếng, các nhà báo sành tin và các nhà trí thức có vị trí trong xã hội thường xuyên hội tụ trò chuyện và bàn luận thời thế. Chính vì thế mà các tình báo cán bộ có thể khai thác được nhiều loại tin. Ngoài tổ chức, không ai biết việc ông làm. Điều đó khẳng định, Vũ Bằng tham gia cách mạng trong vai trò của một nhà văn, một trí thức yêu nước. Vũ Bằng đã lặng lẽ gánh lấy nỗi oan ức chịu tiếng tham cuộc sống đầy đủ, quay lưng với cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông âm thầm hoạt động và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong hoàn cảnh Hà Nội tạm chiếm ấy, công tác hoạt động tình báo đòi hỏi ông phải hy sinh bản thân và bao quyền lợi chính đáng khác. Đó là cách nhập cuộc có ý 17 nghĩa của Vũ Bằng vào cuộc cách mạng của dân tộc. Một sự nhập cuộc trong thầm lặng. 1.2.2.2. Hoạt động văn học Cũng như ở giai đoạn trước, trong thời kì này, hoạt động trên lĩnh vực văn học của Vũ Bằng và hành trình sáng tạo của ông lại gắn liền với lịch sử xã hội của đất nước. Phát triển gắn liền với những bước đi của lịch sử, văn học Việt Nam từ 1945-1975 vươn lên trong một hoàn cảnh lịch sử có những khó khăn và thuận lợi nhất định. Đó là nền văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, thống nhất về tổ chức và về quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn – chiến sĩ. Hiện thực cách mạng phong phú và sinh động – nổi bật là cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc kéo dài suốt 30 năm - đã trở thành nguồn sáng tạo phong phú, là đối tượng phản ánh của nhiều tác phẩm văn chương, đặc biệt là văn xuôi. Văn học chặng đường từ 1946 -1954 phát triển với nhiều thể loại đã phản ánh trọn vẹn không khí, hiện thực của một giai đoạn lịch sử hào hùng – cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp vẻ vang của dân tộc. Thể kí có ý nghĩa mở đầu cho văn xuôi thời kì kháng chiến chống Pháp với dấu ấn của nhiều lớp nhà văn do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Đó là những nhà văn tiền chiến theo cách mạng, tham gia kháng chiến và nỗ lực thay đổi cách viết như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyên Hồng… đó còn là những nhà văn trẻ tài năng, đầy nhiệt huyết như Trần Đăng, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Thành Long… mà trong số họ, có những người ban đầu vốn là những người lính. Vũ Bằng không nằm trong những số nhà văn trên bởi ông chọn lựa hoạt động gắn với những môi trường sống thành thị. Nhưng cũng chính ở môi trường này, ông đã có điều kiện khai thác cuộc sống đời thường trong chiến tranh. Đó cũng là một sự bổ sung cho việc nhận thức đầy đủ hơn về hiện thực hết sức khắc nghiệt này. Nói về vai trò của nhà văn trong xã hội có chiến tranh, nhà văn Pháp Romain Rolland nêu quan điểm: “Số phận của chúng ta đã khiến chúng ta sinh ra giữa cuộc chiến tranh vĩ đại. Nó không cho phép chúng ta tách rời cuộc chiến [106;12]. Vũ Bằng không là nhà văn - chiến sĩ trực tiếp cầm súng tham gia cuộc kháng chiến của dân tộc nhưng ông không tách rời cuộc kháng chiến. Ở giai đoạn này, Vũ Bằng viết phóng sự Khúc ngâm trong đất Hà. lúc này, ngòi bút của ông không ưu tiên cho những thử nghiệm kĩ thuật tự sự nữa, mà hướng vào hiện thực xã hội với các đề tài: cuộc sống của nhân dân vùng tạm chiếm Hà Nội, 18 vấn đề hồi cư và con người hồi cư… viết về hiện thực thời chiến, Vũ Bằng không mô tả sự khốc liệt, dữ dội của đạn bom, máu lửa, chết chóc; không đi sâu mô tả diễn biến của các biến cố mà chủ yếu là phô bày thái độ căm phẫn cùng những ưu tư, trăn trở bằng sự nhận thức về nỗi đau, nỗi bơ vơ của con người trong nhưng hoàn cảnh đặc biệt. Ở phần Tự ngôn tập truyện kí Bát cơm, Vũ Bằng cho biết là ông ghi những điều mà ông đã nhìn thấy và nghe thấy trong thời gian quằn quại trong khói lửa xâm lăng với ước muốn: “Tôi mong gì hơn là đánh dấu lại một thời kì đau khổ của dân ta hai mươi ba, hai mươi bốn năm về trước đây” [47;266]. Trong nhiều tác phẩm, những đau thương, tang tóc của đất nước, đã được Vũ Bằng đề cập và phát biểu khi trực tiếp, khi gián tiếp trong cái nhìn u uất, trong nỗi đau mất nước: Với Vũ Bằng, chiến tranh cắt đứt hạnh phúc, niềm vui, phá vỡ hy vọng, niềm tin và sự sinh sôi nảy nở, chiến tranh gây nên những cảnh chia lìa. Giai đoạn quân đội Pháp thua hết trận nọ đến trận kia, xã hội bất an, Vũ Bằng vẫn theo dõi tâm trạng, nỗi lòng của quần chúng nhân dân, vẫn nhìn hiện thực bằng cái nhìn đánh giá, khái quát; “Dân tình mỗi ngày một chán nản, một mặt vì rối ren ở trong nước quá nhiều, mặt khác thì kinh tế lại bắt đầu suy sụp dữ… cùng lúc ấy, Mỹ bắt đầu đến Việt Nam” [29;177]. Bị đặt vào một hoàn cảnh lịch sử - xã hội biến động, hoàn toàn khác với giai đoạn trước, Vũ Bằng đã sống và sáng tác với tư cách là một nghệ sĩ yêu nước. Hoạt động văn học của Vũ bằng vẫn tiếp tục và sôi nổi, có những đóng góp tích cực cho văn học. Vũ Bằng đã có nhiều tìm tòi, sáng tạo về đề tài, về nghệ thuật thể hiện. Và chính những sáng tác về cuộc sống, con người hồi cư mang đậm dấu ấn Vũ Bằng là những mảng đề tài hiếm hoi và độc đáo trong văn học Việt Nam. Mảng đề tài này góp phẩn phản ánh đầy đủ, đa dạng hiện thực cuộc sống những năm 1945-1954. Nó cũng là một minh chứng cho tính lịch sử xã hội của quan niệm nghệ thuật nói chung và quan niệm nghệ thuật kí nói riêng về cuộc đời nhà văn Vũ Bằng. Và hôm nay nhìn lại, ta càng trân trọng hơn với những gì ông đã đóng góp cho mảng đề tài khá nhạy cảm này để góp phần hoàn thiện bức tranh hiện thực về những năm kháng chiến chống Pháp. Hiện thực kháng chiến phải được tiếp cận từ nhiều hướng, được đông đảo nhà văn phản ánh nếu thiếu những tác phẩm viết về đề tài hồi cư của Vũ Bằng thì hiện thực ấy là một bức tranh chưa hoàn thiện. Vì thế, có thể nói, vị trí của Vũ Bằng trong văn học hiện đại Việt Nam rất quan trọng và cần thiết. 19 1.2.3. Cuộc sống và hoạt động văn học đô thị miền Nam (1954 - 1975) 1.2.3.1. Cuộc sống đô thị miền Nam những năm (1954 – 1975) Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève được kí kết, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Cũng trong thời gian này, do chiến dịch tuyên truyền của Pháp và Mỹ, nhiều người dân miền Bắc đã lên tàu di cư vào miền Nam. Vũ Bằng cũng nằm trong số đó. Một ngày đầu tháng 10 -1954, ông quyết định xa Hà Nội, xuống Hải Phòng để vào Nam. Nhiều bạn bè thân thiết khuyên ông đừng đi. Tô Hoài, Phùng Bảo Thạch viết thư dài khuyên ông ở lại, “có anh giận quá, dùng những lời lẽ không nhẹ nhàng, nhưng hầu hết đều tỏ ra chí tình” [29;196], nhưng không một ai ngăn được ông. Vũ Bằng bước vào cuộc hành trình đã định với mục đích, lí do riêng. Từ đó cho đến mãi sau này, nhiều người nghĩ ông là kẻ phản bội. Và cũng vì điều này mà vợ con nhà văn ở miền Bắc đã phải chịu bao thiệt thòi cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Nhà giáo Vũ Hoàng Tuấn kể: “Chúng tôi sống trong sự nghi ngờ suốt hai mươi năm trời đằng đẳng” vì mang tiếng có người cha “phản bội tổ quốc”. Bà Nguyễn Thị Qùy âm thầm chịu nỗi đau riêng của người phụ nữ còn xuân sắc mà phải sống xa chồng suốt mười ba năm, biết việc chồng làm nhưng không được phép nói ra sự thật. Ôm nỗi niềm riêng tư, lại bị bệnh lao, bà mất 1967 trong cảnh vợ Bắc chồng Nam. Số phận lại đặt Vũ Bằng trước những thách thức mới, oan nghiệt mới mà chỉ ông mới thấu hiểu được. Vào Nam, năm 1960, Vũ Bằng lấy người vợ thứ hai là bà Lương Thị Phấn, nhỏ hơn ông hai mươi hai tuổi. Bà Phấn là người Tân Phú, xã Tân Phước, huyện Lai Vung, tỉnh Vĩnh Long. Tuy là con gái vùng ruộng đồng, sông nước nhưng bà có vẻ đẹp dịu dàng, thanh thoát, nhẹ nhàng như gái thị thành. Bà Phấn lên Sài Gòn học may và lo luôn cả việc cơm nước cho Vũ Bằng. Từ lòng thông cảm, họ đã đến với nhau, rồi thành vợ chồng. Bên Vũ Bằng, mạnh mẽ, từng trải, già dặn, bà Phấn hồn nhiên, trong trẻo và có phần yếu đuối. Bà Phấn đã một lần gẫy gánh, về làm vợ Vũ Bằng, bà dắt theo đứa con riêng tên Lê Văn Long lúc này vừa bốn tuổi. Và cũng như trước kia đã từng nuôi nấng con riêng của người vợ đầu, giờ Vũ Bằng đã chăm sóc dạy dỗ Long như chính con ruột mình. Người con gái đầu lòng của họ ra đời 1961 và sau đó lần lượt thêm năm người con nữa - tổng cộng ba gái, ba trai. Cả Vũ Bằng và vợ đã cũng gồng mình để gánh cả gia đình, lo cho đàn con có được cái ăn, cái mặc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Vũ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan