Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn thành phố hà nội...

Tài liệu Luận văn miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
90
71
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ TIẾN KHOA MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ TIẾN KHOA MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS NGUYỄN VĂN HIỂN Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ .......................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự ............. 7 1.2. Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự ............................................ 11 1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt và với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự ............................................................................................................... 12 1.4. Quy định về miễn trách nhiệm hình sự qua các giai đoạn ................. 18 Chương 2 QUY ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI................................................................................................. 29 2.1. Quy định miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015 ....... 29 2.2. Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự tại thành phố Hà Nội .. 44 Chương 3 GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ............................................................. 61 3.1. Sự cần thiết của việc bảo đảm áp dụng đúng quy định về miễn trách nhiệm hình sự ................................................................................... 61 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định về miễn trách nhiệm hình sự ............................................................................................ 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77 DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra VKSND: Viện kiểm sát nhân dân CTTP: Cấu thành tội phạm TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự MTNHS: Miễn trách nhiệm hình sự NQ: Nghị quyết PLHS: Pháp luật hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HĐTP: Hội đồng thẩm phán MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình hình thành, phát triển của lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, để công cuộc đấu tranh, phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những vấn đề cấp thiết. Trong đó, chế định miễn trách nhiệm hình sự là chế định có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, có ảnh hưởng, tác động đến các chế định khác được quy định trong Bộ luật hình sự là một chế định được nhiều nhà làm luật và các nhà nghiên cứu khoa học quan tâm đến. Chế định miễn trách nhiệm hình sự đã được các nhà nghiên cứu khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học pháp lý. Do đó, tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về chế định này như: khái niệm về miễn TNHS, bản chất pháp lý, đặc điểm của miễn TNHS, quy định về các trường hợp miễn TNHS... Đến nay, vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về chế định miễn trách nhiệm hình sự. Đặc biệt, khi nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về miễn TNHS có thể nhận thấy những hạn chế, vướng mắc trong nhận thức và việc áp dụng, nhất là sau khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực đã có nhiều sự sửa đổi, bổ sung tuy nhiên nhà làm luật chưa ban hành bất kỳ văn bản hướng dẫn chi tiết nào. Hiện nay trên địa bàn nhiều tỉnh thành cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong việc áp dụng quy định của BLHS về miễn TNHS. Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu vấn đề áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm thấy được rõ nét thực trạng việc áp dụng chế định này là điều 1 cần thiết. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: “Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nội dung về chế định miễn trách nhiệm hình sự không chỉ được đề cập đến trong giáo trình Luật hình sự tại các trường đại học như Học viện khoa học xã hội, Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội,... mà còn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong các công trình có thể kể đến: * Sách, tạp chí: ; Trịnh Tiến Việt, Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2010; Lê Cảm, Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Nxb. Tư pháp, năm 2005; Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội tháng 6-2016; Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, năm 2017; Trần Văn Luyện (chủ biên), Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi Bổ sung 2017), Nxb. Công an nhân dân; Đinh Văn Quế, Bình luận BLHS 2015 Phần thứ nhất Những quy định chung (bình luận chuyên sâu), Nxb. Thông tin và truyền thông, Hà Nội, năm 2018; Lê Nam, Bàn về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số chuyên đề 9/2016; Thành Long, Cần chấm dứt tình trạng “miễn trách nhiệm hình sự” để né tránh bồi thường, Tạp chí Luật sư Việt Nam Số 10/2016; Huỳnh Châu Mai Sơn, Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số 9/2017; Đoàn Đắc Chinh, Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân Số 10 năm 2019; Đinh Văn Quế, Chế định 2 miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 2015, Tạp chí Luật sư Việt Nam, Số 10/2017; Trịnh Tiến Việt, Miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra trong quá trình áp dụng, Tạp chí Luật học Số 7/2016… * Luận văn thạc sĩ: Phạm Mai Thắm, Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015, luận văn thạc sĩ Luật học trường Đại học Luật Hà Nội năm 2018; Lê Thị Thu Hiền, Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, luận văn thạc sĩ Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2009; Đặng Ngọc Huy, Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự việt nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đăk lăk, luận văn thạc sĩ Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2015… Đa phần các công trình nghiên cứu trên về cơ bản đã có sự cập nhật, phân tích theo quy định của BLHS 2015. Tuy nhiên, dưới góc độ luận văn thạc sĩ chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách kết hợp giữa lý luận cũng như thực tiễn việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn trên một địa bàn thành phố lớn như thành phố Hà Nội. Do vậy, nội dung đề tài nghiên cứu luận văn về Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội đảm bảo không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khác đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về miễn TNHS và phân tích thực tiễn áp dụng chế định miễn TNHS trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định về miễn TNHS. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài 3 - Khái quát chung vấn đề lý luận về miễn TNHS, cụ thể từ: khái niệm, đặc điểm, nội dung chế định miễn TNHS và phân biệt miễn TNHS với các chế định tha miễn khác; - Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các quy định pháp luật về miễn TNHS từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay; - Luận văn phân tích các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về miễn TNHS và đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 05 năm từ năm 2015 – 2019; - Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định về miễn TNHS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Quy định về miễn TNHS và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Quy định về miễn TNHS theo BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Phạm vi không gian: Tại địa bàn thành phố Hà Nội, bao gồm các cơ quan tiến hành tố tụng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Phạm vi thời gian: Luận văn sử dụng số liệu thống kê trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở luận 4 Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước Pháp quyền, về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của nhà nước ta. Dựa trên các phương pháp này nhằm nghiên cứu cơ sở của miễn TNHS, phân tích nội dung, ý nghĩa của các quy định về miễn TNHS trong số các biện pháp tha miễn, vai trò của các biện pháp này trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù như: Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, xử lý số liệu… 6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Luận văn nghiên cứu tổng hợp các cơ sở lý luận về miễn TNHS. Có thể nói, luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về khái niệm, bản chất và ý nghĩa pháp lý của chế định miễn TNHS. Bên cạnh việc chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn TNHS, luận văn đưa ra đề xuất hệ thống các giải pháp mang tính giá trị pháp lý và thực tiễn, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp dụng chế định miễn TNHS trong thực tiễn đối với các cơ quan tư pháp. Về mặt thực tiễn: Luận văn đã bổ sung, góp phần làm đa dạng hơn tài liệu nghiên cứu đối với vấn đề miễn TNHS, góp phần cung cấp thêm nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu cho các học viên chuyên ngành pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của luận văn 5 Chương 1: Những vấn đề lý luận về miễn trách nhiệm hình sự. Chương 2: Quy định miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự 2015 và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định về miễn trách nhiệm hình sự 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự là thuật ngữ của ngành khoa học pháp lý hình sự thể hiện hậu quả pháp lý mà người phạm tội phải gánh chịu do việc thực hiện hành vi phạm tội của họ gây ra. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”. Theo đó, có thể hiểu “trách nhiệm hình sự” là những hậu quả mà cá nhân phải chịu khi thực hiện những hành vi vi phạm bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước Nhà nước, xã hội hoặc cá nhân khác. Từ trước đến nay, xung quanh vấn đề hiểu “trách nhiệm hình sự” là gì, vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Theo TSKH.GS. Lê Cảm thì “trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định”[3]. PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà và TS. Lê Thị Sơn thì cho rằng “trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích” 9, tr. 126; GS.TS Đỗ Ngọc Quang có quan niệm “trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu 7 quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện”. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học có định nghĩa “Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình”[31, tr.126]. Hiện nay, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân là người phạm tội thì hiện nay bao gồm cả pháp nhân thương mại nên khái niệm trách nhiệm hình sự cũng cần phải được hiểu đầy đủ là trách nhiệm của người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Trách nhiệm trong lĩnh vực pháp luật nói chung thường được hiểu theo hai nghĩa: là chức trách, nghĩa vụ, bổn phận phải làm hoặc là hậu quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật. Thuật ngữ TNHS không dùng để chỉ nghĩa vụ, bổn phận mà công dân phải thực hiện với Nhà nước và xã hội mà nó phải được hiểu theo nghĩa là hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước và xã hội vì họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cảm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [31, tr.126]. TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý phản ánh mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với người phạm tội khi người đó thực hiện tội phạm. Do vậy, để nhận thức đầy đủ và toàn diện về TNHS, việc nghiên cứu khái niệm TNHS không chỉ dừng lại ở trách nhiệm của người phạm tội trước nhà nước mà cần được xem xét đồng thời từ hai góc độ: thực hiện hoạt động truy cứu TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS từ phía người phạm tội [32, tr.7]. Tuy đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng việc thực hiện truy cứu TNHS từ phía 8 Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu TNHS của người phạm tội. Thực chất, TNHS chính là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội phát sinh từ thời điểm tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. Không chỉ được điều chỉnh bởi Bộ luật hình sự mà mối quan hệ này còn được điều chỉnh bởi cả luật tố tụng hình sự và pháp luật về thi hành án. Nhắc đến vấn đề TNHS chính là nói đến hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ người gây ra tội phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Nhà nước. Hậu quả pháp lí của việc thực hiện tội phạm đối với người phạm tội không chỉ thể hiện ở trách nhiệm cuối cùng của người phạm tội là bị kết án và phải chịu hình phạt nhất định mà còn thể hiện cả ở việc bị truy cứu TNHS. Như vậy, đối với người phạm tội, chịu TNHS có nghĩa là phải chịu tất cả các hậu quả do việc phạm tội đem lại: “phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích. Bản chất của TNHS là sự lên án của Nhà nước đối với người có lỗi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, Bằng bản án kết tội, Nhà nước chính thức lên án đối với người đã có hành vi phạm tội và trên cơ sở đó thể hiện thái độ phản ứng của mình thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự như áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp. Những biện pháp cưỡng chế này có đặc điểm chung là đều gây ra những tác động bất lợi về pháp lý đối với người phạm tội nhằm giảo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý đồng thời là hậu quả pháp lý bất lợi cho người thực hiện hành vi phạm tội với nội dung bao gồm việc phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích. 9 1.1.2. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bất kỳ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, bị xã hội lên án và đáng bị xử lý hình sự thì đều phải chịu TNHS. Điều đó đồng nghĩa trong trường hợp xét thấy không cần thiết phải áp dụng TNHS hoặc trường hợp theo luật định không phải áp dụng TNHS đối với người đó mà vẫn có thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự, bản chất của hiện tượng trên dưới góc độ thuật ngữ khoa học pháp lý gọi là Miễn trách nhiệm hình sự. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự được tiếp cận dưới nhiều góc độ khoa học pháp lý dẫn đến những quan điểm khác nhau, không đồng nhất có thể kể đến các quan điểm: - GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó [2, tr.7]. - GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: “Miễn trách nhiệm hình sự được hiểu là biện pháp nhân đạo, phản ánh sự khoan hồng của nhà nước, do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi có căn cứ theo quy định của BLHS với nội dung là không buộc người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện” [10, tr.14]. - PGS.TS Nguyễn Văn Huyên cho rằng: Miễn trách nhiệm hình sự là miễn hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội, thể hiện ở chồ người phạm tội không phải chịu sự kết tội của Tòa án, không bị coi là có tội, không phải chịu 10 hình phạt và không phải mang án tích. [8, tr.238]. - TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người đó khi đáp ứng những trường hợp luật định [42, tr.97]. Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và tổng kết nhiều quan điểm khoa học về miễn trách nhiệm hình sự, có thể hiểu khái niệm này như sau: “Miễn trách nhiệm hình sự là việc chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định không buộc một người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội có đủ các điều kiện chủ thể của tội phạm phải chịu hậu quả pháp lý hình sự của việc thực hiện hành vi phạm tội khi đáp ứng các điều kiện do luật định, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội”. 1.2. Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự Miễn trách nhiệm hình sự về bản chất chính là sự không buộc một người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà người đó đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự không đồng nghĩa với trường hợp không có trách nhiệm hình sự. Người được miễn trách nhiệm hình sự là người đã phạm một tội được quy định trong BLHS nhưng thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự. Còn người không có trách nhiệm hình sự là người mà hành vi của họ không có sự sai trái hoặc hành vi của họ tuy có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhưng mức độ nguy hiểm không lớn nên không coi là tội phạm mà chỉ đáng xử lý về hành chính. Thông qua 11 việc phân tích khái niệm và nghiên cứu các quy định về miễn trách nhiệm hình sự, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và luật hình sự nói riêng tại một quốc gia. Thứ hai, miễn trách nhiệm hình sự, hay nói cách khác là sự xoá bỏ hoàn toàn hậu quả pháp lý của việc thực hiện một tội phạm chỉ có thể được đặt ra đối với người nào là chủ thể của chính tội phạm ấy, mà lẽ ra nếu không có đủ căn cứ để được miễn trách nhiệm hình sự thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Tuy trong pháp luật hình sự không quy định nhưng thực tiễn cho thấy người được miễn trách nhiệm hình sự tuy không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự của hành vi phạm tội do mình thực hiện. Cụ thể, người phạm tội đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác và không bị coi là có án tích. Tuy nhiên, căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác. Thứ ba, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhất định (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc Toà án) khi có đủ căn cứ (hoặc là bắt buộc hoặc là tuỳ nghi) do pháp luật hình sự quy định. Thứ tư: Chủ thể được miễn trách nhiệm hình sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại phạm tội: Có thể thấy, BLHS 2015 lần đầu tiên thừa nhận pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm. Theo đó, khi đáp ứng 12 đầy đủ các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 29 BLHS thì pháp nhân thương mại cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự. 1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt và với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự 1.3.1. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt là những quy định khác nhau cả về bản chất và mặt nội dung, tuy nhiên thuật ngữ này thường bị nhầm lẫn với nhau nếu không xây dựng những tiêu chí để phân biệt thích hợp. Để phân biệt 3 hình thức trên, có thể dựa trên các tiêu chí sau: Khái niệm: Miễn trách nhiệm hình sự là việc không bắt buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội mà họ đã thực hiện. Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc một phần hình phạt còn lại (chưa chấp hành) của mức hình phạt đã tuyên. Miễn hình phạt là không buộc người bị kết án phải chịu hình phạt về tội họ đã thực hiện. Điều kiện áp dụng: Điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự là: Người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ tại khoản 1 Điều 29 BLHS Người phạm tội có thể được miễn TNHS khi có một trong các căn cứ tại khoản 2 Điều 29 BLHS. Trong khi đó, điều kiện để miễn chấp hành hình phạt là: Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá. 13 Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Sau khi bị kết án đã lập công; - Mắc bệnh hiểm nghèo; - Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nêu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nêu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại. 14 Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều này vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án. Điều kiện để miễn hình phạt là: Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Theo quy định khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS: “1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này [22]. 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.”[22]. Thẩm quyền áp dụng: Thẩm quyền áp dụng miễn trách nhiệm hình sự có phạm vi rộng hơn so với thẩm quyền áp dụng miễn chấp hành hình phạt và miễn hình phạt, theo đó cơ quan có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tùy từng giai đoạn mà các cơ quan tiến hành tố tụng này có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự, trong khi đó thẩm quyền miễn chấp hành hình phạt chỉ là Tòa án (nhưng quyết định theo đề nghị của Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự) và của miễn hình phạt là thẩm quyền riêng biệt của Tòa án. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan