Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt n...

Tài liệu Luận văn kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam từ thực tiễn huyện thạch thất, thành phố hà nội

.PDF
76
116
106

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LOAN KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LOAN KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS LÊ MAI THANH Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tác giả cam đoan luận văn này là do bản thân tự thực hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình. Các thông tin được sử dụng trong luận văn này có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tình xác thực và nguyên bản của luận văn. Tác giả Nguyễn Thị Loan LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và cảm ơn chân thành tới PGS.TS Lê Mai Thanh, cô đã chỉ bảo và giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt thời gian hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn các đồng nghiệp nơi tôi đang công tác, Khoa Luật - Học viên khoa học xã hội đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, gia đình đã động viên, ủng hộ, chia sẻ và là chỗ dựa tinh thần giúp tôi tập trung nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ................................................................................................ 7 1.1. Khái niệm, phân loại kết hôn có yếu tố nước ngoài ............................ 7 1.2. Lý luận pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài .............. 13 1.3. Cấu trúc pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài............. 22 1.3.1. Về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài..................................... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THẠCH THẤT THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............. 32 2.1. Đặc điểm thực tiễn tại huyện Thạch Thất tác động đến kết hôn có yếu tố nước ngoài ............................................................................................. 32 2.2. Thực trạng pháp luật về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn tại huyện Thạch Thất ................................................................. 34 2.3. Thực trạng pháp luật về hình thức kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn tại huyện Thạch Thất ................................................................. 44 2.4. Thực trạng pháp luật về hủy kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn tại huyện Thạch Thất.......................................................................... 51 Chương 3: NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ......................... 58 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam ........................................................................... 58 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài. ......................................................................................................... 60 KẾT LUẬN .................................................................................................... 68 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 69 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong những năm gần đây, chính sách mở rộng hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta đã làm cho đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu quốc tế, các quan hệ về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cũng phát sinh ngày càng nhiều. Việc điều chỉnh quan hệ này trở thành một yêu cầu cấp bách, quan trọng nhằm làm ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các nước có liên quan. Để kịp thời điều chỉnh được các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài nói riêng, nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật có giá trị như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 2/12/1993; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và một số văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản trên. Điều này đã tạo điều kiện cho các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài có cơ sở pháp lý để phát triển đồng thời tăng cường sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Do vậy, trong thời gian qua số lượng công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài tăng nhanh về cả số lượng và ngày càng đa dạng về phạm vi chủ thể. Đây là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu dân sự giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, bên cạnh những yếu tố tiến bộ, tích cực, trong quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đang nảy sinh các hệ lụy như hiện tượng lấy chồng (vợ) là người nước ngoài vì mục đích kinh tế, để "xuất ngoại", kết hôn không xuất phát từ tình yêu nam nữ, sự tự nguyện… Những hiện tượng này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến 1 “Quyền mưu cầu hạnh phúc” của các chủ thể, gây bất ổn gia đình và xã hội, đi ngược lại với chuẩn mực đạo đức văn hóa của người Việt Nam. Ngoài ra, còn phải kể đến một số trường hợp lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài nhằm buôn bán người, xâm phạm tình dục người phụ nữ. Hậu quả từ những tiêu cực trong việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài để lại cả trước mắt và lâu dài, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế… Có nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan dẫn đến các hiện tượng trên nhưng sự hạn chế của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đóng vai trò không nhỏ. Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, từ đó đề xuất nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về vấn đề này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nhận thức được điều đó, em đã mạnh dạn chọn vấn đề "Kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ thực tiễn huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là vấn đề có tính thời sự cao. Do vậy, từ trước tới nay có không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể chia các công trình nghiên cứu về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài thành 3 nhóm lớn sau: Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam (Luận văn Thạc sỹ luật học của Vilayvong Senebouttarat, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008), Pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp, của Nguyễn Thị Hương, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. Nhìn chung các công trình 2 nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề cơ bản của pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Tuy nhiên hầu hết các công trình trên đều được nghiên cứu dưới góc độ khái quát hoặc nghiên cứu dưới góc độ tư pháp quốc tế, lý giải về hiện tượng xung đột pháp luật trong khi giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. - Nhóm sách giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: trong nhóm này, đầu tiên phải kể đến cuốn sách Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc, NXB Tư pháp, năm 2006. Ngoài ra còn có một số giáo trình và bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, chưa đề cập hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên. - Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong số này phải kể đến bài viết của Đỗ Văn Chỉnh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 (1/2011) với nhan đề: "Kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn áp dụng pháp luật"; "Một số vướng mắc liên quan đến việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài" của Ngô Văn Thìn, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2009; "Thực trạng về việc phỏng vấn trong kết hôn với người nước ngoài hiện nay" của Nguyễn Văn Thắng, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về đăng ký khai sinh và đăng ký kết hôn… Phần lớn các bài viết này đề cập tới một số vấn đề cụ thể của quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, chưa đề cập được sâu sắc và toàn diện các vấn đề của việc công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Tóm lại, cho đến nay, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này nhưng vẫn chưa lý giải toàn diện, chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; đặc biệt là đánh giá hiệu quả pháp luật từ địa bàn cụ 3 thể trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu đã có, luận văn sẽ tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ gắn với địa bàn cụ thể như Thạch Thất, Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ khá nhạy cảm và phức tạp nên trong luận văn này, trước hết, tác giả muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Thứ hai, nghiên cứu các quy định pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm: các qui định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Thứ ba, qua quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt nam về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ lý luận về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc kết hôn có yếu tố nước ngoài và cấu trúc, nội dung pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài; Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài với thực tiễn huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là kết hôn có yếu tố nước ngoài quan hệ tư pháp quốc tế được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình và những văn bản pháp luật liên quan trong phạm vi địa bàn cụ thể là Thạch Thất, Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu của luật văn Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một số vấn đề sau: 4 - Kết hôn có yếu tố nước ngoài mà không đề cấp đến những quan hệ hôn nhân gia đình khác. - Kết có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam được điểu chỉnh theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật Hộ tịch năm 2014; Bộ luật dân sự năm 2015 và các điều ước liên quan khác mà không đề cập tới việc kết hôn tại nước ngoài và yêu cầu công nhận tại Việt Nam. - Thực tiễn kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Thạch Thất, Hà Nội sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh; phương pháp tổng hợp, thống kê. Trên cơ sở phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, đặc biệt đánh giá, phân tích về thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh việc kết hôn có yếu tố nước ngoài đã lựa chọn, tác giả rút ra những ưu điểm, tồn tại trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn có đóng góp mới về khoa học như sau: Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích khái niệm "Kết hôn" đã được pháp luật quy định, tác giả đưa ra khái niệm về “Kết hôn có yếu tố nước ngoài”. Việc đưa ra khái niệm này, có thể góp ý kiến khoa học cho việc sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật Hộ tịch năm 2014 về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài đang diễn ra hiện nay. 5 Thứ hai, luận văn phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về kết hôn có yếu tố nước ngoài. Xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về kết hôn có yếu tố nước ngoài trên địa bàn cụ thể chưa được nghiên cứu như Thạch Thất. Thứ ba, Luận văn đã đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật hộ tịch năm 2014 nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài. Mặt khác, luận văn cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế bảo đảm thực thi việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tư liệu học tập, tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo luật hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm đến quan hệ kết có yếu tố nước ngoài. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kết hôn có yếu tố nước ngoài và pháp luật kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam Chương 2: Thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài từ thực tiễn huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Chương 3: Nhu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài. 6 Chương 1 LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm, phân loại kết hôn có yếu tố nước ngoài 1.1.1. Kết hôn có yếu tố nước ngoài Kết hôn có yếu tố nước ngoài là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là quan hệ dân sự giữa các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; hoặc quan hệ giữa các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại khoản 25 Điều 3 như sau: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Như vậy, kết hôn có yếu tố nước ngoài gồm có những trường hợp sau: Quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau cư trú tại Việt Nam. Trường hợp thứ nhất một bên là công dân Việt Nam, một bên là người nước ngoài. Công dân Việt 7 Nam khi tham gia quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài phải có đủ năng lực hành vi theo pháp luật Việt Nam, còn người nước ngoài phải có đầy đủ năng lực hành vi theo quy định của nước mà người đó là công dân hoặc nước người đó đang thường trú, đồng thời họ phải đảm bảo đầy đủ năng lực pháp luật theo quy định của pháp luật Việt Nam. Căn cứ vào khoản 5 điều 3 Luật Quốc tịch năm 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định: “Người nước ngoài là công dân nước ngoài và người không quốc tịch”. Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác ( Điều 673). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 674). Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau xác lập ở nước ngoài cũng là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nhưng không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn, họ đều mong muốn việc kết hôn của mình được pháp luật công nhận, muốn việc kết hôn là hợp pháp thì phải thỏa mãn các điều kiện về kết hôn và nghi thức kết hôn, tức là việc kết hôn đó phải được cơ quan nhà nước có thầm quyền đăng ký và cấp Giấy chứng nhận kết hôn, đồng thời hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn hoặc nếu việc kết hôn được tiến hành theo pháp luật nước ngoài, việc kết hôn đó muốn được công nhận tại Việt Nam thì phải ghi chú vào Sổ đăng ký kết hôn nếu thỏa mãn điều kiện của pháp luật Việt Nam. Tại điều 34 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định về điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt 8 Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài như sau: Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài được ghi vào Sổ hộ tịch nếu tại thời điểm kết hôn, các bên đáp ứng điều kiện kết hôn và không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, việc kết hôn không đáp ứng điều kiện kết hôn, không vi phạm điều cấm quy định của Luật hôn nhân và gia đình , nhưng vào thời điểm yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc phục hoặc việc ghi chú kết hôn là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em thì việc kết hôn cũng được ghi vào Sổ hộ tịch. Như vậy, đối với trường hợp này các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn đều là công dân Việt Nam, tuy nhiên căn cứ làm phát sinh quan hệ này là việc đăng ký kết hôn tiến hành ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài được coi là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Việc hai công dân Việt Nam đăng ký kết hôn với nhau tại Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán của Việt Nam ở nước ngoài (cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài) thì có được coi là đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài hay không? Trường hợp này, không được coi là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, đối với việc đăng ký kết hôn trong trường hợp này, Luật áp dụng là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật hộ tịch năm 2014, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015. Như trường hợp sau được coi là kết hôn có yếu tố nước ngoài: Trường hợp công dân Việt Nam cùng nhau định cư ở Anh, chưa nhập quốc tịch Anh, tuy nhiên làm thủ tục đăng ký kết hôn với nhau tại cơ quan có thẩm quyền của Anh và theo pháp luật nước Anh, trong những trường hợp này có sự xung đột pháp luật , việc kết hôn này muốn được công nhận tại Việt Nam thì phải được ghi chú vào Sổ đăng ký kết hôn và thỏa mãn điều kiện về pháp luật Việt Nam. 9 Quan hệ kết hôn, cả hai bên nam, nữ là công dân Việt Nam nhưng có ít nhất một bên đang định cư ở nước ngoài tại thời điểm đăng ký kết hôn. Theo quy định tại khoản 3 điều 3 Luật Quốc tịch năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Ví dụ: Trường hợp anh A là công dân Việt Nam đang định cư tại Hàn Quốc, quen biết và yêu chị B là công dân Việt Nam đang du học tại Hàn Quốc, sau đó cả hai trở về Việt Nam, trong trường hợp này thì quan hệ kết hôn giữa anh A và chị B được coi là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. 1.1.2. Phân loại kết hôn có yếu tố nước ngoài a. Kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam Căn cứ để xác định quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là quốc tịch của ít nhất một bên là nước ngoài hoặc cả hai bên có quốc tịch Việt Nam nhưng có một bên định cư ở nước ngoài. Theo đó, có một số trường hợp cụ thể sau: Một là, công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài ở Việt Nam. Việc kết hôn trong trường hợp này có thể là một bên nam là công dân Việt Nam kết hôn với một bên nữ là người nước ngoài hoặc một bên nữ là công dân Việt Nam kết hôn với một bên nam là công dân nước ngoài nhưng việc kết hôn đó phải được tiến hành tại Việt Nam. Ví dụ : Trong thời gian làm việc ở một công ty nước ngoài tại Việt Nam, anh N (công dân Việt Nam) đã quen, yêu một cô đồng nghiệp tên là Marian (quốc tịch Mehico). Vừa rồi, anh N và cô Marian đã lập kế hoạch kết hôn với nhau và họ quyết định đăng ký kết hôn tại Việt Nam. Hai là, công dân Việt Nam ở trong nước kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt 10 Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Trong đó, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã có quốc tịch Việt Nam đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Như vậy, trường hợp này có thể là công dân Việt Nam ở trong nước kết hôn với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc công dân Việt Nam ở trong nước kết hôn với người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài. Ba là, người nước ngoài kết hôn với người nước ngoài tại Việt Nam Người nước ngoài theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam là công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch. Trong đó công dân nước ngoài là người có quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam; còn người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy định giữa hai người nước ngoài kết hôn với nhau mà cả hai người này đều thường trú tại Việt Nam thì mới được coi là việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, theo Luật Cư trú năm 2006 thì cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú. Vì vậy, để bảo đảm bình đẳng về quyền tự do cư trú cũng như quyền kết hôn của công dân nước ngoài học tập, lao động, nghiên cứu, sinh sống tại Việt Nam, Điều 1 Nghị định số 24/2013/NĐ-CP đã mở rộng nội hàm “người nước ngoài thường trú tại Việt Nam”. Theo đó, không riêng gì người nước ngoài “thường trú” mà cả trường hợp “tạm trú” kết hôn với nhau cũng được coi là kết hôn có yếu tố nước ngoài (điều kiện ở đây chỉ là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có yêu cầu đăng ký kết hôn tại Việt Nam). Đối với trường hợp nêu trên, gồm có các trường hợp kết hôn sau đây: - Giữa hai người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. - Giữa hai người nước ngoài tạm trú tại Việt Nam. 11 - Giữa người nước ngoài thường trú với người nước ngoài tạm trú tại Việt Nam Ví dụ: Anh David quốc tịch Đức đăng ký thường trú tại Việt Nam, chị Diana người không quốc tịch đăng ký tạm trú tại Việt Nam. Hiện nay, hai anh chị muốn kết hôn với nhau tại Việt Nam. Trong trường hợp này, nếu họ đáp ứng các điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam thì họ có quyền kết hôn với nhau và được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xem xét, giải quyết việc đăng ký kết hôn theo thủ tục, nghi thức do luật định. b. Kết hôn có yếu tố nước ngoài tại nước ngoài Đây là trường hợp các bên tiến hành kết hôn ở nước ngoài (những trường hợp này không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn). Thứ nhất, công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài ở nước ngoài. Nước ngoài ở đây có thể hiểu là nước mà người nước ngoài là công dân hoặc cư trú (người nước ngoài là người không quốc tịch). Ví dụ: Anh Nguyễn Văn K (công dân Việt Nam) kết hôn với chị Andrew (công dân Mỹ) và họ thực hiện đăng ký kết hôn tại Mỹ. Thứ hai, công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở nước ngoài. Hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau nhưng việc kết hôn của họ được tiến hành ở nước ngoài nơi một trong hai bên cư trú. Mặc dù hai bên kết hôn đều là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập quan hệ vợ chồng là ở nước ngoài. Vì vậy, giữa công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở nước ngoài cũng được xác định là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Ví dụ: Chị K và anh N (công dân Việt Nam đang làm việc tại Pháp) tiến hành đăng ký kết hôn tại Pháp. Ngoài mục đích, ý nghĩa của kết hôn nói chung như bảo đảm duy trì nòi giống, xây dựng môi trường giao đình để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách con người; kết hôn có yếu tố nước ngoài còn thể hiện bảo đảm của 12 pháp luật trong việc thực hiện quyền bình đẳng giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. 1.2. Lý luận pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài. 1.2.1.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn là tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau (quy phạm xung đột, quy phạm thực chất được thống nhất hóa), được lựa chọn để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài phát sinh trong đời sống quốc tế. Quan hệ kết hôn là tiền đề hình thành gia đình, gia đình là tế bào của xã hội, xã hội thịnh hay suy phụ thuộc vào các tế bào cấu tạo nên nó. Các tế bào này giúp xã hội phát triển trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,… Chính vì vậy, phải có pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn. Pháp luật là công cụ quản lý hữu hiệu của bất cứ Nhà nước nào để thực hiện chức năng của mình. Nội dung pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn phụ thuộc vào chế độ kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán nhất định. Mỗi một xã hội, một chế độ có điều kiện kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau thì pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn cũng có nội dung khác nhau. Khác nhau về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, đăc biệt bởi yếu tố nước ngoài. Do vậy, quan hệ này không chỉ chịu sự điều chỉnh của các quy phạm quốc gia mà còn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm điều ước quốc tế của các bên liên quan. Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất được các quốc gia liên quan thống nhất hóa, trong đó, quy phạm xung đột là quy phạm cơ bản điều chỉnh quan hệ. Các loại quy phạm này có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên sự thống nhất trong việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Nếu quan hệ 13 kết hôn không được điều chỉnh bởi qui phạm thực chất thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng qui phạm xung đột để chọn luật áp dụng. 1.2.1.2. Đặc điểm pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài trước tiên được xem xét là quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài do tư pháp quốc tế điều chỉnh, pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài không những chỉ là các quy định được ghi nhận trong nguồn pháp luật trong nước mà còn là các quy định được ghi nhận trong các nguồn pháp luật khác như điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Đây chính là một trong những đặc điểm quan trọng của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài: Đối tượng điều chỉnh: Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đặc trưng bởi đối tượng điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh bị phức tạp hoá bởi yếu tố nước ngoài, đây cũng là điểm phân biệt với các quan hệ kết hôn thông thường khác. Các nước trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự nói chung và trong quan hệ kết hôn nói riêng. Để xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự, các quốc gia thường căn cứ vào ba dấu hiệu: quan hệ đó có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài; khách thể của quan hệ đó là tài sản hoặc quyền tài sản và quyền nhân thân được thực thi ở nước ngoài; sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2014 yếu tố nước ngoài trong quan hệ kết hôn được hiểu theo khoản 25 Điều 3 và khoản 4 Điều 121 như trên đã phân tích. Phương pháp điều chỉnh: Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là một trong những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc lĩnh vực điều chỉnh của Tư pháp quốc tế nên cũng có phương pháp điều chỉnh đặc trưng của Tư pháp quốc tế. Đó là hai phương pháp xung đột và thực chất, hai phương pháp này được kết hợp hài 14 hoà, tương hỗ nhau trong việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. * Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh gián tiếp, được sử dụng phổ biến trong việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Phương pháp này chỉ ra pháp luật của một nước gần gũi nhất để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thông qua quy phạm pháp luật xung đột. Quy phạm pháp luật xung đột gồm quy phạm xung đột của quốc gia và quy phạm xung đột trong các Điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Các quy phạm này không trực tiếp điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài mà nó chỉ ra pháp luật nước nào sẽ điều chỉnh cụ thể. Quy phạm xung đột điểu chỉnh kết hôn có cơ cấu khác với các quy phạm thông thường, nó được cấu tạo bởi hai phần: Phạm vi và hệ thuộc. Phần phạm vi là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, hệ thuộc là bộ phận quan trọng trong quy phạm xung đột hệ thống pháp luật gần gữi được lựa chọn áp dụng. Điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài có các hệ thuộc: Luật quốc tịch; Luật nơi cư trú; nơi tiến hành kết hôn; Quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt nam được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam; trong các điều ước quốc tế các Hiệp định tương trợ tư pháp và các văn bản khác có liên quan. * Phương pháp thực chất hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh trực tiếp là phương pháp điều chỉnh thông qua các quy phạm thực chất được thống nhất hóa ghi nhận tại các điều ước quốc tế nhưng gần như chưa có trong các lĩnh vực hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Việc áp dụng quy phạm thực chất làm đơn giản hoá trong điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết quan hệ nhanh chóng, thuận lợi. Đồng thời loại trừ vấn đề phải lựa chọn luật hoặc áp dụng pháp luật nước ngoài. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan