Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện th...

Tài liệu Luận văn giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở việt nam hiện nay

.PDF
81
141
140

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG THANH TÚ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG THANH TÚ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN VĂN BIÊN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Học viên Lương Thanh Tú MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH ........................................................................................... 10 1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại điện tử.......................................................... 10 1.2. Khái quát về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh .......................................................................................... 18 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM .................................................................. 29 2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ................................................................. 29 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ........................................................ 53 Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................. 65 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ........................................................ 65 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ........................................................ 68 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh .............................. 71 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 74 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN B2B Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business-to-Business) B2C Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với cá nhân (Business-to-Consumer) C2C Giao dịch thương mại điện tử giữa cá nhân với cá nhân (Consumer-to-Consumer) CNTT Công nghệ thông tin G2B Giao dịch thương mại điện tử giữa Chính phủ với doanh nghiệp (Government-to-Business) GDĐT Giao dịch điện tử TMĐT Thương mại điện tử UNCITRAL United Nations Commission on International Trade Law (Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Ngày 19/11/1997 là ngày đầu tiên Việt Nam hòa vào mạng Internet toàn cầu, mở đầu cho giai đoạn phát triển mạnh mẽ của Internet tại Việt Nam. Sau hơn 20 năm, đến năm 2018 Việt Nam có 50.231.474 người sử dụng Internet, 36.188.417 thuê bao băng rộng di động phát sinh lưu lượng thoại, tin nhắn, dữ liệu (3G, 4G) [4] và 422.601 tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” được duy trì (là tên được sử dụng để định danh địa chỉ Internet của máy chủ), 170.712 website đang hoạt động, 15.902.976 địa chỉ Internet (địa chỉ IP - địa chỉ mạng của thiết bị, máy chủ) (số liệu tính đến tháng 10/2018) [14]. Chính sự phát triển của Internet trên thế giới đã tạo tiền đề ra đời cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Mạng Internet đã trở thành một bộ phận tất yếu trong đời sống kinh tế - xã hội mà qua đó, mọi chủ thể sử dụng để thực hiện các mục đích khác nhau như chính trị, kinh doanh, truyền thông, quảng bá, tương tác, kết nối, tìm kiếm thông tin… và cả mục đích cá nhân, riêng tư. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (AR), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), công nghệ thiết bị di động… đang làm thay đổi căn bản hình thái, trình độ sản xuất của thế giới. Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động mạnh mẽ tới mọi mặt kinh tế - xã hội, tác động làm thay đổi hình thái và phương thức sản xuất theo hướng tiên tiến, hiện đại. Việt Nam là quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên nền tảng Internet mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm; tạo ra sự thay đổi lớn về hình thái kinh doanh dịch vụ, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử khi sử dụng các thiết bị di động thông minh; tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ 1 số và Internet; đồng thời cũng là cơ hội lớn cho sản xuất công nghiệp với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến. Số liệu báo cáo thống kê của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số Bộ Công Thương năm 2018 [3] cho thấy, doanh thu bán lẻ trực tuyến của Hoa Kỳ đạt 354 tỷ USD (chiếm 7,4% tổng doanh thu bán lẻ), Trung Quốc đạt 470 tỷ USD (chiếm 13,5% tổng doanh thu bán lẻ), Hàn Quốc đạt 39 tỷ USD (chiếm 11,2% tổng doanh thu bán lẻ), Ấn Độ đạt 20 tỷ USD (chiếm 1,7% tổng doanh thu bán lẻ), Indonesia đạt 6,9 tỷ USD (chiếm 1,4% tổng doanh thu bán lẻ) và Việt Nam đạt gần 7 tỷ USD (chiếm 5% tổng doanh thu bán lẻ). Theo ước tính của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam [7], tốc độ tăng trưởng của thương mại điện tử Việt Nam năm 2018 đạt trên 25% và tốc độ này có thể được duy trì trong ba năm tiếp theo 2018 - 2020. Cũng theo số liệu công bố tại Diễn đàn Thanh toán điện tử Việt Nam năm 2018 (VEPF - Vietnam E-Payment Forum) [5] được tổ chức vào tháng 11/2018 tại Hà Nội và số liệu thống kê của Appota [31] (đến thời điểm quý II/2018) thì hiện có 72% dân số Việt Nam sở hữu điện thoại thông minh smartphone; 68% truy cập mạng bằng thiết bị di động thường xuyên hơn sử dụng máy tính; 72% tổng số lượt truy cập các trang thương mại điện tử xuất phát từ điện thoại thông minh, 53% các giao dịch mua hàng trực tuyến thực hiện qua điện thoại, thương mại điện tử trên điện thoại thông minh có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong năm. Trước thực tế hành vi sử dụng thiết bị di động (bao gồm điện thoại thông minh smartphone và máy tính bảng tablet có kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động) ngày càng trở nên phổ biến, tiện lợi trong mọi hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi mua sắm trực tuyến và thương mại điện tử nên đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải kịp thời nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử sử dụng các thiết bị di động nói chung cũng như các quy định pháp luật điều chỉnh việc giao kết, thực hiện hợp đồng thương mại điện tử bằng thiết bị di động nói riêng. Vĩ lẽ đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giao kết hợp 2 đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước: Trải qua hơn 20 năm phát triển Internet ở Việt Nam, và đặc biệt là sau khi Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005 đặt nền móng pháp lý cho sự phát triển của hoạt động thương mại điện tử, tác giả nhận thấy các vấn đề về pháp luật thương mại điện tử nói chung và pháp luật điều chỉnh từng khía cạnh, vấn đề cụ thể trong hoạt động thương mại điện tử nói riêng ở Việt Nam đã giành được sự chú ý, quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: 2.1.1. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật thương mại điện tử nói chung và một số khía cạnh của hoạt động thương mại điện tử: - Luận văn Thạc sĩ luật học “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Vũ Hoàng, Học viện Khoa học xã hội, 2018. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Trọng Minh, Học viện Khoa học xã hội, 2018. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Trách nhiệm pháp lý do vi phạm pháp luật trong giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Thái Thanh Sơn, Học viện Khoa học xã hội, 2018. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Điều kiện hoạt động của Website thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Trọng Trí, Học viện Khoa học xã hội, 2017. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Mua bán hàng hóa trong thương mại điện tử theo pháp luật ở nước ta hiện nay” của tác giả Trịnh Lâm Khả Thành, Học viện Khoa học xã hội, 2016. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lương Tuấn Nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2015. 3 - Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử” của tác giả Lê Hồng Thanh, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2013. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Dương Thị Mai Ngọc, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Một số vấn đề pháp lý về thương mại điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế” của tác giả Hà Lan Anh, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2008. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về thương mại điện tử trong cung cấp dịch vụ nội dung số ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Tố Lan, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2008. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Xây dựng khung pháp luật nhằm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam” của tác giả Lê Hà Vũ, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2006. - Bài viết “Đặc điểm, vai trò của pháp luật thương mại điện tử và quan điểm hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử trong thời gian tới” của Lương Tuấn Nghĩa, Tạp chí Công Thương, số 6 - tháng 5/2017. - Bài viết “Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử” của Lê Văn Thiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2016. - Bài viết “Bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam” của Đinh Thị Lan Anh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2015. - Bài viết “Chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử” của Nguyễn Thị Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2012. - Bài viết “Những vấn đề pháp lý về thương mại điện tử ở Việt Nam” của Bùi Bích Liên, Tạp chí Luật học số 6/2000. 2.1.2. Một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử: 4 - Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Mai Chí Tùng, Học viện Khoa học xã hội, 2017. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Giao kết hợp đồng trong giao dịch thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Hoàng Nam, Học viện Khoa học xã hội, 2015. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Hợp đồng mua bán hàng hoá qua mạng điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Huỳnh Thanh Đông, Học viện Khoa học xã hội, 2015. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử ở Việt Nam” của tác giả Trịnh Thị Thu Thảo, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Giao kết hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Lan Anh, Học viện Khoa học xã hội, 2013. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Thu Hằng, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2009. - Luận văn Thạc sĩ luật học “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam” của tác giả Trần Đình Toản, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004. 2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài: - Bài viết “Phân tích hành vi người tiêu dùng trực tuyến trên thiết bị di động và PC: Cách tiếp cận khai thác sử dụng web mới” của tác giả Orit Raphaeli, Anat Goldstein, Lior Fink, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 26/2017, trang 1-12 [21]. - Bài viết “Bảo vệ quyền riêng tư của người dùng trong thương mại điện tử bằng thiết bị di động” của tác giả Chunhui Piao, Xiaoyan Li, Xiao Pan, Changyou Zhang, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 18/2016, trang 58-70 [18]. - Bài viết “Vai trò của chuyển giao tín thác liên kênh trong việc thiết lập niềm tin thương mại điện tử bằng thiết bị di động” của tác giả Jiabao Lin, 5 Yaobin Lu, Bin Wang, Kwok Kee Wei, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 10/2011, trang 615-625 [19]. - Bài viết “Những rào cản đối với các mô hình kinh doanh thương mại điện tử và cạnh tranh ở các nước đang phát triển: Một nghiên cứu điển hình” của Nir Kshetri, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 6/2007, trang 443-452 [20]. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, sau khi nghiên cứu một số công trình trong nước và ngoài nước nêu trên, tác giả nhận thấy mỗi công trình khoa học đều có những giá trị tham khảo nhất định đối với đề tài nghiên cứu của tác giả. Tuy nhiên, do khác nhau về phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu, nên các công trình nêu trên chưa đề cập một cách sâu sắc, nghiên cứu cụ thể vấn đề pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam. Có thể nói, việc tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình đến thời điểm hiện nay mang tính thời sự, là duy nhất và không bị trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài có mục đích là phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh; trên cơ sở đó đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Phân tích khái niệm và cơ sở lý luận về pháp luật thương mại điện tử, pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh. - Đánh giá được thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh và thực tiễn thực thi pháp luật; chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này ở Việt Nam hiện nay. 6 - Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử được giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt bằng điện thoại thông minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Với tính chất đặc thù của hoạt động thương mại điện tử không bị giới hạn bởi địa giới hành chính hay vị trí địa lý cụ thể nên đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là trên không gian mạng, trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. - Về thời gian: tác giả lựa chọn thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến nay do đây là thời điểm Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử tạo cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử. - Về hoạt động thương mại điện tử: sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của Internet, khoa học công nghệ và công nghệ thông tin đã làm thay đổi các hình thái thương mại điện tử (Electronic commerce) ở các cấp bậc, mức độ phát triển khác nhau như sau: Telephone commerce, Fax commerce, Email commerce, Web commerce, Mobile commerce, Television commerce. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử được giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt bằng điện thoại thông minh smartphone (Mobile commerce). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu các nội dung được đề cập đến. Bên cạnh đó, luận văn còn bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác quản lý và phát triển hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay. 7 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp; thống kê; kết hợp lý luận với thực tiễn; lịch sử; so sánh… để giải quyết nội dung đề tài luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài nghiên cứu “Giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay” mang tính thời sự đến thời điểm hiện nay, do đó đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn như: - Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa các tài liệu đã có của các tác giả trong nước và ngoài nước, luận văn đưa ra khái niệm pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh. Từ đó, luận văn xây dựng cơ sở lý luận về những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh, chỉ rõ những vấn đề bất cập cần hoàn thiện trong thời gian tới. - Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh thời gian qua, đồng thời kế thừa những hạt nhân hợp lý của lý thuyết, lý luận pháp luật quốc tế về hợp đồng thương mại điện tử có thể áp dụng vào thực tiễn nước ta, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam. - Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học, luận chứng khoa học đối với các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền hoạch định chính sách, pháp luật trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại điện tử nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử nói riêng. - Những kiến thức khoa học của đề tài sẽ có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo chuyên môn về pháp luật thương mại điện tử và có giá trị tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này. 8 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn sẽ được trình bày, kết cấu theo 03 chương như sau: Chương 1. Những vấn đề chung về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Chương 2. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam. Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH 1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại điện tử 1.1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại điện tử Giao kết hợp đồng thương mại điện tử với bản chất là một giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử và được coi là có giá trị pháp lý tương đương với hợp đồng được giao kết bằng văn bản, hợp đồng thương mại điện tử không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì nó được giao kết bằng phương tiện điện tử. Luật Giao dịch điện tử đưa ra các nguyên tắc chung như: các bên tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện giao dịch; tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện giao dịch điện tử... Hành vi giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng. Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu. Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu. Hình thức phổ biến của thông điệp dữ liệu trong trường hợp này là các chứng từ điện từ - kết quả của quá trình sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử hoặc phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thống. Trên cơ sở tiếp thu những quy định chung áp dụng cho một giao dịch dân sự cũng như giao dịch điện tử, pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử 10 cũng đưa ra những quy định cụ thể hơn cho việc giao dịch, giao kết hợp đồng thương mại điện tử giữa các bên tham gia hoạt động thương mại điện tử như việc quy định: về địa điểm kinh doanh của các bên; về quy trình giao kết hợp đồng trực tuyến; về hợp đồng được giao kết từ sự tương tác giữa một hệ thống thông tin tự động với một người hoặc giữa các hệ thống thông tin tự động với nhau; việc cung cấp các điều khoản của hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh; về thủ tục chấm dứt hợp đồng,… Luật Giao dịch điện tử điều chỉnh chung tất cả các loại hợp đồng được thực hiện bằng phương thức điện tử, mà không phụ thuộc vào mục đích giao kết của chúng. Điểm khác biệt căn bản của hợp đồng thương mại điện tử so với các hợp đồng truyền thống khác là ở hình thức và phương thức giao kết. Pháp luật về giao dịch điện tử là khung pháp lý điều chỉnh chung hợp đồng điện tử, còn về hình thức, nội dung của từng loại hợp đồng sẽ do văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan quy định. Như vậy, nghiên cứu từ bản chất hợp đồng và đặc thù giao dịch điện tử, có thể hiểu: Hợp đồng thương mại điện tử là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ nhằm mục đích sinh lợi bằng cách trao đổi các thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử có kết nối mạng máy tính toàn cầu internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử Ngoài những đặc điểm chung của một hợp đồng thì hợp đồng thương mại điện tử còn có những đặc điểm riêng xuất phát từ đặc thù hoạt động thương mại điện tử như sau: Một là, hợp đồng thương mại điện tử có sự kết hợp các yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại. Bản chất hoạt động thương mại điện tử là sự kết 11 hợp giữa hoạt động thương mại truyền thống và việc ứng dụng công nghệ thông tin. Bởi vậy, các quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử được thiết kế, xây dựng, ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ thương mại, hành vi thương mại, hoạt động thương mại diễn ra trên môi trường mạng; các hành vi ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin, công nghệ cao, hành vi sử dụng các phương tiện điện tử, thiết bị số, điện thoại thông minh để thực hiện hoạt động thương mại. Hai là, đối tượng của hợp đồng thương mại điện tử bao gồm vật thể và phi vật thể. Tham gia trao đổi, mua bán trên môi trường mạng bao gồm tất cả sản phẩm của ngành sản xuất vật chất và phi vật chất, có vật hữu hình và vật vô hình, sản phẩm dịch vụ, sản phẩm nội dung số, phần mềm, ứng dụng, quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ… Với sự phong phú, đa dạng của hàng hóa, dịch vụ tham gia như vậy, hợp đồng thương mại điện tử có sự phức tạp hơn rất nhiều so với hợp đồng thương mại truyền thống. Ba là, hợp đồng thương mại điện tử được thực thi chủ yếu trên môi trường mạng. Để điều chỉnh hoạt động thương mại diễn ra trên môi trường mạng, các quy định của pháp luật về thương mại điện tử được thiết kế, xây dựng phù hợp với đặc điểm này. Như việc quy định hành vi giao kết, giao dịch điện tử; quy định việc trưng bày, giới thiệu, quảng cáo hàng hóa, dịch vụ trực tuyến; quy định việc thanh toán, thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước; quy định công tác quản lý nhà nước; thu thập chứng cứ điện tử, xử lý vi phạm… Bốn là, hợp đồng thương mại điện tử không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý. Khi giao kết hợp đồng thương mại điện tử, các chủ thể tham gia hoàn toàn có thể ở bất kỳ vị trí địa lý nào mà vẫn trao đổi, đàm phán, thương lượng và đi đến thống nhất ký kết hợp đồng điện tử. Kết nối internet toàn cầu đã giúp xóa bỏ khoảng cách, ranh giới giữa các đối tượng, chủ thể hay thậm chí giữa các quốc gia khác nhau. Do đó dù khác nhau về thời gian, khoảng 12 cách, địa điểm thì hợp đồng thương mại điện tử vẫn thực hiện giao kết được. Đây cũng là đặc điểm hữu ích của hợp đồng thương mại điện tử so với hợp đồng thương mại thông thường. Năm là, hợp đồng thương mại điện tử tiềm ẩn nhiều rủi ro trong các giao dịch thương mại điện tử mua sắm nhỏ lẻ, đơn thuần. Trong các giao dịch mua sắm trực tuyến nhỏ lẻ, hợp đồng thương mại điện tử chủ yếu được giao kết dưới hình thức sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến. Hay hiểu đơn giản hơn, trên hệ thống chỉ ghi nhận những tệp tin, thông điệp dữ liệu ngắn gọn về giao dịch mua bán của khách hàng và những tệp tin này cũng theo thời gian sẽ nhanh chóng bị xóa bỏ khỏi hệ thống. Và như vậy, rõ ràng việc bảo vệ quyền người tiêu dùng cũng vì thế mà bị hạn chế theo. Sáu là, hợp đồng thương mại điện tử không những chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại điện tử ở quốc gia nơi phát sinh giao kết hợp đồng, mà nó còn phải tuân theo những nguyên tắc chung của pháp luật thương mại quốc tế. 1.1.3. Phân loại hợp đồng thương mại điện tử Tùy theo đối tượng, chủ thể, hình thức giao kết hợp đồng mà có những quan điểm hay cách phân loại hợp đồng thương mại điện tử khác nhau và cũng rất đa dạng. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả phân loại hợp đồng thương mại điện tử như sau: a) Phân loại hợp đồng thương mại điện tử theo chủ thể giao dịch: Hợp đồng thương mại điện tử có thể được tiến hành giữa các chủ thể như sau: - B2B - Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business-to-Business). - B2C - Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với cá nhân (Business-to-Consumer). 13 - C2C - Giao dịch thương mại điện tử giữa cá nhân với cá nhân (Consumer-to-Consumer). - G2B - Giao dịch thương mại điện tử giữa Chính phủ với doanh nghiệp (Government-to-Business). b) Phân loại hợp đồng thương mại điện tử theo hình thức giao dịch: Telephone commerce: được hiểu là việc sử dụng thiết bị liên lạc hữu tuyến (có dây) trong giao dịch, giao kết hợp đồng, đặt hàng, mua hàng, trao đổi, đàm phán đối tác mua bán hàng hóa, dịch vụ. Fax commerce (Facsimile - viết tắt là Fax): được hiểu là việc sử dụng thiết bị fax trong giao dịch thương mại điện tử, ký kết hợp đồng. Email commerce: được hiểu là việc sử dụng địa chỉ điện tử (thư điện tử) trong giao dịch thương mại điện tử như gửi thư điện tử để giới thiệu, chào mua, chào bán hàng hóa, dịch vụ; gửi và nhận đề nghị giao kết hợp đồng,... Web commerce: được hiểu là việc sử dụng công nghệ web, thiết lập và vận hành website để tiến hành giao dịch thương mại điện tử. Chỉ cần có kết nối Internet, các chủ thể sử dụng máy tính để bàn (desktop) hoặc máy tính xách tay (laptop) có cài đặt phần mềm trình duyệt (Internet Explore, Google Chrome, Mozilla FireFox, Safari, Opera,…) để truy cập website thương mại điện tử, tiến hành các hoạt động thương mại, mua bán hàng hóa, thanh toán với các bên. Mobile commerce: được hiểu là việc sử dụng điện thoại thông minh, thiết bị di động, công nghệ di động, công nghệ vô tuyến (không dây) để tiến hành giao dịch thương mại điện tử. Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển OECD (Organisation for Economic Co-operation and Development), “Mobile commerce” là các giao dịch thương mại được thực hiện thông qua các mạng và dịch vụ truyền thông không dây (dịch vụ gọi, dịch vụ tin nhắn SMS, dịch vụ tin nhắn đa phương tiện MMS, dịch vụ truy 14 nhập Internet), sử dụng các thiết bị cầm tay, nhỏ gọn được thiết kế cho mục đích liên lạc. Hay nói cách khác, Mobile commerce là các giao dịch thương mại được thực hiện thông qua các mạng và dịch vụ truyền thông không dây, sử dụng các thiết bị di động cầm tay được thiết kế kết nối với mạng viễn thông di động hoặc các mạng truyền thông không dây. Television commerce: được hiểu là việc sử dụng thiết bị điện tử (máy thu hình - tivi) để mua hàng trực tuyến. Thương mại điện tử sử dụng công nghệ truyền hình thường áp dụng cho việc giới thiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ qua các kênh truyền hình thương mại. Với sự phát triển và mức độ phổ biến của khoa học công nghệ làm thay đổi hình thức thương mại nêu trên thì giao kết hợp đồng thương mại điện tử chủ yếu được thực hiện bởi web-commerce và mobile-commerce do hai loại hình thương mại điện tử này đáp ứng được trọn vẹn một quy trình giao kết hợp đồng thương mại: niêm yết thông tin sản phẩm, đàm phán giao dịch, thanh toán trực tuyến, hậu mãi trực tuyến. Khoản 17 Điều 4 Luật Công nghệ thông tin quy định: trang thông tin điện tử (website) là trang thông tin hoặc một tập hợp trang thông tin trên môi trường mạng phục vụ cho việc cung cấp, trao đổi thông tin. Tại Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử quy định: website thương mại điện tử là trang thông tin điện tử được thiết lập để phục vụ một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng. Website thương mại điện tử bán hàng là website thương mại điện tử do các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan