VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC TUẤN
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,
TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC TUẤN
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,
TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN.
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Quốc Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................................... 6
1.1. Khát quát chung về Luật sư ....................................................................... 6
1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự ................. 16
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình
sự Việt Nam .................................................................................................... 23
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 25
Chương 2 ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH......... 26
2.1. Địa vị pháp lý của luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự ......................... 26
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư trong tố
tụng hình sự từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh ..................................................... 39
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 56
Chương 3 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................ 57
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của luật sư ...... 57
3.2. Cần nhận thức đúng đắn vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự.. 64
3.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.. 65
3.4. Tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật sư....... 68
3.5. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật ........................................... 72
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
TAND: Tòa án nhân dân.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự được xác định là người
bào chữa, có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, sự tham gia
của luật sư cũng là căn cứ góp phần giúp Tòa án ban hành bản án, quyết định
một cách chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhận thức được
tầm quan trọng của Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự, thời gian
qua Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách khẳng định vị trí,
vai trò quan trọng của luật sư có thể kể đến như: Nghị quyết 08/NQ-TW của
Bộ Chính trị đã nêu: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định....
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW còn đề ra những định hướng rất quan
trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện chế định luật sư cho phù hợp với
tình hình mới của đất nước trước xu hướng pháp triển và hội nhập, cụ thể là:
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, có trình độ chuyên môn; hoàn thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực
hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách
nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về mặt pháp lý để phát huy chế
độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư
đối với thành viên của mình. Đặc biệt, ngày 28 tháng 7 năm 2017 Chánh án
TAND tối cao đã ban hành Thông tư số: 01/2017/TT-TANDTC Quy định về
phòng xử án đã quy định vị trí ngồi của luật sư là ngang hàng với Viện kiểm
sát. Có thể thấy vị thế của Luật sư ngày càng được coi trọng, địa vị pháp lý
của luật sư ngày càng được nâng cao, khẳng định sự quan trọng của chủ thể
1
này trong hoạt động tố tụng. Chính vì vậy BLTTHS 2015, đã sửa đổi, bổ sung
nhiều quy định mới, lần đầu tiên vấn đề tranh tụng được quy định trong cả
Hiến pháp và là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (Điều 26 BLTTHS
2015), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng và phần nào
khẳng định vị trí pháp lý quan trọng của Luật sư. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn
có những quy định chưa thật sự hợp lý, vướng mắc bất cập, ảnh hưởng đến
hoạt động bào chữa của luật sư đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu,
kiến nghị hoàn thiện. Chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: Địa vị pháp lý
của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc
Ninh làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học luật hình sự, đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến Địa vị pháp lý của luật sư như: Giáo trình Luật sư và nghề luật sư,
Học viện tư pháp; Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa, Lịch sử nghề luật sư
ở Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh; Quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư Việt Nam của Liên Đoàn luật sư Việt Nam; Giáo trình
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp;
Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005; Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng, Bình
luận khoa học BLTTHS 2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2016; Trần Văn Bảy
(2001), Người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp luật;
Nguyễn Ngọc Khanh, Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình
sự, Tạp chí Luật học, Số 7/2008; Đỗ Đình Nghĩa, “Địa vị pháp lý của người
bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Luận văn tiến sĩ Luật học; Ngô Thị Ngọc Vân, Hoạt động bào chữa của
luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luật án tiến sĩ luật học
trường Đại học luật Hà Nội năm 2016.
2
Có thể thấy đề tài liên quan đến Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng
hình sự Việt Nam chưa thật sự được quan tâm, thể hiện ở việc các công trình
nghiên cứu còn hạn chế, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luật văn
thạc sĩ nghiên cứu, do vậy đề tài “Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng
hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh” của học viên đảm bảo tính
mới và không bị trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
địa vị pháp lý của luật sư qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý
của luật sư.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục đích đặt ra của việc nghiên cứu, luận văn xác
định những nhiệm vụ phải giải quyết sau đây:
- Làm rõ những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng
hình sự
- Trình bày và phân tích các quy định của pháp luật hình sự về địa vị
pháp lý của luật sư
- Phân tích nội dung và các điểm mới quy định về địa vị pháp lý của
luật sư theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn áp dụng địa vị pháp lý của
luật sư trong tố tụng hình sự tại tỉnh Bắc Ninh thông qua các vụ án cụ thể.
- Trình bày các giải pháp bảo đảm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư
trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành thể hiện địa vị pháp lý của luật sư.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài được giới hạn trong các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự theo quy định của BLTTHS 2015 thể hiện địa vị pháp lý của luật
sư với tư cách tham gia tố tụng là người bào chữa.
Giới hạn về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;
Giới hạn về thời gian: Trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, trong đó có sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Luận văn vận dụng những quan điểm cơ bản của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn bản pháp luật Việt
Nam, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp
chí của các nhà khoa học pháp lý và các luật gia Việt Nam.
Bên cạnh đó, học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp luật học so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, đánh giá để làm sáng tỏ các
vấn đề của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Học viên nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và
thực tiễn làm rõ địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự. Luận văn có
những điểm mới sau đây:
4
- Phân tích được khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của luật sư trong tố
tụng hình sự.
- Là công trình nghiên cứu đầu tiên có sự phân tích một các toàn diện
các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự tính
đến thời điểm hiện nay.
- Là cơ sở dữ liệu nghiên cứu, đa dạng hóa các công trình nghiên cứu
về quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự.
- Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý của luật
sư trong tố tụng hình sự, từ đó góp phần đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị
pháp lý của luật sư trong công tác tham gia giải quyết vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố
tụng hình sự
Chương 2. Địa vị pháp lý của luật sư trong BLTTHS 2015 từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Một số đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của
luật sư trong tố tụng hình sự
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khát quát chung về Luật sư
1.1.1. Khái niệm luật sư
Ở các nước phát triển trên thế giới, nghề Luật sư xuất hiện từ rất sớm
và ngày càng được coi trọng. Lịch sử cho thấy, từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại
đến thời kỳ Trung cổ, nghề Luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã hội tuy
nhiên vẫn mang tính tự phát và Luật sư thời kỳ này không thể hiện rõ và đầy
đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của Luật sư bị hạn chế bởi chế độ
xã hội chuyên quyền hà khắc. Đến chế độ tư bản, các cuộc đấu tranh vì dân
chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản
phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu cầu của người dân đối với
việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp
luật luôn thường trực. Nghề Luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình
thành một nghề tự do [18]. Cho đến nay, nghề Luật sư tại các quốc gia phát
triển luôn được xã hội tôn vinh là một nghề cao quý.
Tại Việt Nam, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa được ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn thể Luật sư. Sắc lệnh này quy
định việc duy trì tổ chức Luật sư đã có, đồng thời vận dụng linh hoạt các quy
định pháp luật của chế độ cũ về Luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc
lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Tại Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định
quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Các bản Hiến
pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 tiếp tục ghi nhận và đề cao nguyên tắc
quan trọng này.
6
Tuy nhiên, phải đến năm 2001, khi Pháp lệnh Luật sư được ban hành
và có hiệu lực thì Luật sư mới thực sự được coi là một nghề nghiệp trong xã
hội. Theo pháp lệnh này thì: “Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề
theo quy định của pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư
vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của các cá nhân, tổ
chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp
luật”[35]. Kể từ khi áp dụng theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đội ngũ Luật
sư nước ta không ngừng được tăng nhanh về số lượng và đảm bảo về chất
lượng hoạt động. Các tổ chức luật sư hoạt động ngày càng chuyên nghiệp,
khẳng định được vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đồng thời tạo tiền
đề cho tổ chức luật sư tại nước ta ngày càng phát triển, vươn xa hơn và tiến
tới hội nhập với bạn bè quốc tế.
Có thể nói, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là cơ sở pháp lý quan trọng để
luật sư hành nghề, đảm bảo đáp ứng nhu cầu về mặt pháp lý cho cá nhân và tổ
chức. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng thực tiễn, Pháp lệnh Luật sư năm
2001 đã bộc lộ hạn chế, chưa đáp ứng đủ và kịp thời với nhu cầu và xu hướng
hiện tại. Trước bối cảnh đó, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội khóa XI kỳ
họp thứ 9 đã thông qua Luật Luật sư. Luật Luật sư năm 2006 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 và thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001.
Tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư là người có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là
khách hàng)”. Thực chất, đây không được coi là quy định về định nghĩa như
thế nào là Luật sư mà đây chỉ là quy định về tiêu chuẩn chung trở thành Luật
sư. Đó là người Luật sư phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật Luật sư năm 2006, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức (khách hàng của luật sư). Như vậy, có thể thấy,
7
pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ đều chưa có quy định cụ thể định nghĩa
về luật sư.
Do đó, hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa Luật
sư, trong đó có một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Luật sư là người hoạt động bào chữa
chuyên nghiệp hoạt động trong đoàn Luật sư. Quan điểm này còn rất chung
chung và chưa thực sự đầy đủ, bởi lẽ ngoài hoạt động bào chữa, Luật sư còn
thực hiện rất nhiều các hoạt động khác, các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của
khách hàng như tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh doanh thương mại… tham gia
tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng…
Quan điểm thứ hai: Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực
pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật của mỗi quốc gia [36]. Quan điểm này cũng khá là chung chung và gần
giống với quy định tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006.
Quan điểm thứ ba: Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Luật sư là người có
chức trách, dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án" [21]. Theo học
viên, định nghĩa này chưa thực sự chính xác, bởi vì, theo quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được gọi
là bị cáo chứ không phải bị can. Hơn nữa, ngoài hoạt động bào chữa tại Tòa
án nhân dân cho bị cáo thì Luật sư còn thực hiện nhiều dịch vụ pháp lý khác
như đã phân tích tại quan điểm thứ nhất.
Hiện nay, để trở thành một Luật sư, người đó phải đáp ứng tiêu chuẩn
luật sư theo quy định của pháp luật hiện hành.
8
Theo quy định tại Điều 2 Luật luật sư 2006 và Luật luật sư sửa đổi
2012 thì: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng).
Tại Điều 10 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy
định về tiêu chuẩn Luật sư như sau: "Là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng
cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành
nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật
sư".
Người đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư như trên chỉ thực sự được gọi là
luật sư và được phép hành nghề Luật sư khi đáp ứng đủ hai điều kiện sau:
được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn Luật sư
(Điều 11 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012).
Có thể thấy, trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước cùng với chất
lượng lập pháp của Quốc hội ngày càng được nâng cao, các quy định về Luật
sư cũng được quy định bổ sung, chặt chẽ theo hương nâng cao vai trò của
Luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chính vì vậy, đội ngũ các Luật sư cũng
ngày càng tăng về số lượng và chất lượng (Nếu năm 2009 số thành viên của
liên đoàn Luật sư Việt Nam mới chỉ là 5.300 Luật sư thì tới tháng 9/2019, số
lượng Luật sư đã là 13.563 Luật sư tăng 61%). Nghề luật sư trong xã hội cũng
được coi trọng. Do vậy, đối với các Luật sư ngoài những yêu cầu về kiến
thức, những trình độ chuyên môn cao, nhằm góp phần quan trọng vào việc
bảo vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần bảo vệ pháp chế, thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Để làm tốt công việc của mình, thì ngoài yêu cầu
9
về chuyên môn, các Luật sư còn phải tuân thủ theo những quy chế đạo đức
nghề nghiệp riêng của nghề luật sư.
Phạm vi hành nghề của luật sư trong vụ án hình sự
Trong vụ án hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố
giác và người bị tố giác; người bị tạm giữ, người bị bắt do phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã; bị can, bị cáo và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người
bảo vệ quyền lợi hợp pháp hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn,
bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu Luật sư là một chức danh tư pháp
độc lập, chỉ những người đáp ứng đủ tiêu chuẩn là công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư và đáp ứng đủ
điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn
luật sư để hành nghề Luật sư thực hiện các hoạt động chuyên môn, cung ứng
các dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
1.1.2. Phân biệt Luật sư với tư cách là người bào chữa trong vụ án
hình sự với người bào chữa
Trước hết, về người bào chữa: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở
rộng phạm vi người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Theo đó,
tại Khoản 1 Điều 72 Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: “Người
bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
10
Tại Khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người
bào chữa có thể là những người sau:
“2. Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân;
d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối
tượng được trợ giúp pháp lý”.
Thứ nhất, về Luật sư:
Như đã phân tích tại phần 1.1.1 Khái niệm về luật sư thì Luật sư là một
chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn là
công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề Luật sư,
đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề
luật sư và đáp ứng đủ điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã
gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư thực hiện các hoạt động
chuyên môn, cung ứng các dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Luật sư tham gia vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cũng phải
đáp ứng đủ các tiêu chuẩn và điều kiện để hành nghề luật sư theo quy định
của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, người đại diện của người bị buộc tội:
Trước đây, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định diện
người bào chữa có thể là “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo” (Điều 56), nay được quy định khái niệm rộng hơn là “người đại
diện của người bị buộc tội.
11
Tuy nhiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ
thể như thế nào là người đại diện của người bị buộc tội. Do đó, ta có thể vận
dụng kiến thức từ Bộ Luật Dân sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 để
nói về người đại diện của người bị buộc tội. Theo đó, người đại diện của
người bị buộc tội có thể là người đại diện theo pháp luật của người bị buộc tội
và người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội. Trong đó, người đại
diện theo pháp luật của người bị buộc tội là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ
đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi.
Người đại diện của người bị buộc tội nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ
cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố
tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào
chữa. Người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội là người được
người bị buộc tội ủy quyền bào chữa cho họ. Nhìn chung, người đại diện cho
người bị buộc tội phải đáp ứng một số tiêu chuẩn sau: là người đã thành niên;
không bị tâm thần hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; là công dân Việt
Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối
với người đại diện của người bị buộc tội có quốc tịch là người nước ngoài,
người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ ba, bào chữa viên nhân dân:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 72 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015
thì bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung
thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức
khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa
cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
12
Thứ tư, trợ giúp viên pháp lý:
Đây là một quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc
bổ sung trợ giúp viên pháp lý có thể tham gia tố tụng hình sự với tư cách là
người bào chữa góp phần đảm bảo quyền bào chữa miễn phí cho các đối
tượng thuộc diện chính sách.
Căn cứ vào Điều 17 và Điều 19 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì trợ
giúp viên pháp lý có thể được hiểu là viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp
lý nhà nước có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ cử nhân luật trở lên; đã
được đào tạo nghề luật sư hoặc miễn đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian
tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý; có sức khỏe đảm bảo
thực hiện công việc trợ giúp pháp lý; không đang trong thời gian bị xử lý kỷ
luật.
Ngoài ra, tư vấn viên pháp luật có kinh nghiệm 02 năm tư vấn pháp luật
trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cộng tác viên trợ giúp
pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Hợp đồng với Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước hay luật sư thực hiện trợ giúp theo sự phân công của tổ
chức tham gia trợ giúp pháp lý cũng là đối tượng được thực hiện công tác trợ
giúp pháp lý.
Như vậy, có thể thấy, Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là
Luật sư bào chữa và người bào chữa, hai khái niệm này không đồng nhất với
nhau. Trong thực tế, mọi người luôn quan niệm rằng người bào chữa phải là
luật sư và luật sư luôn luôn là người bào chữa, những người khác không phải
là luật sư thì không thể là người bào chữa. Tuy nhiên, đây là quan niệm sai
lầm. Bởi lẽ, từ những phân tích ở trên có thể thấy người bào chữa ngoài luật
sư còn có người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ
giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được
13
trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, Luật sư để trở thành người bào chữa khi tham gia
tố tụng hình sự phải là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị
cáo trong vụ án hình sự. Bên cạnh đó, pháp luật có quy định chặt chẽ hơn đối
với luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa. Người luật
sư phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề. Còn những
người khác không phải luật sư thì không phải đáp ứng các điều kiện này. Ví
dụ: Luật sư bao giờ cũng phải là người đã có bằng cử nhân Luật, phải học qua
lớp đào tạo Luật sư, phải có thời gian tập sự và dự thi kỳ thi tuyển chọn Luật
sư (Trừ một số trường hợp đặc cách như đã là Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc
có học vị Tiến sĩ...), còn đối với người đại diện và bào chữa viên nhân dân,
cũng được coi là người bào chữa nhưng lại không yêu cầu phải có những tiêu
chí như của Luật sư.
1.1.3. Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự
Trong hoạt động tố tụng hình sự, Luật sư có vai trò vô cùng quan trọng.
Cụ thể:
Thứ nhất, Luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ công lý, công bằng xã hội góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, nhắc tới luật sư là đa phần mọi người sẽ nghĩ ngay đến vai trò
đầu tiên của luật sư là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Trong xã hội ngày nay, có nhiều bộ phận người dân nước ta có trình độ dân trí
thấp, chưa am hiểu pháp luật. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của các cán bộ
tham gia tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế hoặc có một số cán bộ có hành
vi cố ý làm trái với quy định pháp luật nhằm trục lợi… Do đó, cần phải có
Luật sư – người am hiểu pháp luật, áp dụng pháp luật vào thực tiễn nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức (khách hàng), bảo vệ
14
công lý, công bằng xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của luật sư
phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, Luật sư tư vấn,
giúp khách hàng đưa ra những ý kiến, yêu cầu hợp pháp đối với cơ quan tiến
hành tố tụng hướng tới việc giải quyết các vụ án được thấu tình đạt lý.
Thứ hai, Luật sư là cầu nối truyền tải pháp luật vào đời sống bằng các
hoạt động chuyên môn của mình.
Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, Luật sư giải thích pháp luật theo
nhu cầu của các cá nhân, tổ chức (khách hàng), tư vấn cho khách hàng những
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trên cơ sở các quy định của pháp luật,
hướng dẫn khách hàng thực hiện, ứng xử theo đúng chuẩn mực của các quy
định pháp luật. Thông qua hoạt động bào chữa, Luật sư tuyên truyền, giải
thích những quy định của pháp luật cho bị can, bị cáo để họ hiểu được những
quy định của pháp luật, những điều pháp luật cấm hay những điều pháp luật
cho phép. Từ đó, giúp cho họ ý thức được những hành vi sai trái của mình để
họ có thái độ ăn năn, hối cải, biết sửa sai nhằm được hưởng sự khoan hồng
của pháp luật, giúp cho họ sớm được làm lại cuộc đời. Bằng các hoạt động
chuyên môn của mình, Luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của Luật sư không chỉ dừng lại ở
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho khách hàng của mình mà thông qua
việc tư vấn pháp luật hay tranh tụng tại phiên tòa, luật sư nói lên tiếng nói của
công lý với tất cả mọi người trong phòng xét xử. Đó cũng chính là cách gửi
thông điệp đến toàn bộ xã hội. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong xã hội, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân, chủ động tham
gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.
15
- Xem thêm -