Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kỹ thuật - Công nghệ Điện - Điện tử Luận văn đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở việt nam...

Tài liệu Luận văn đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở việt nam

.PDF
110
178
141

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 7 1.1 Vai trò của công nghệ thông tin 7 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm công nghệ thông tin 7 1.1.2 Vai trò của công nghệ thông tin 9 1.2 Nguồn nhân lực CNTT và đào tạo nguồn nhân lực CNTT 15 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của nhân lực công nghệ thông tin 15 1.2.2 Vai trò của nhân lực công nghệ thông tin 17 1.2.3 Đặc điểm của công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT 19 1. 3 Kinh nghiệm của Ấn Độ trong đào tạo nguồn nhân lực CNTT 21 CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở VIỆT NAM 28 2.1. Thực trạng nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam 28 2.2 Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam 32 2.2.1 Hệ thống đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin 32 2.2.2 Đào tạo nhân lực trong các doanh nghiêp CNTT 45 2.2.3 Đào tạo đội ngũ các nhà lãnh đạo CNTT ( CIO: Chief Information Officer) 48 2.2.4 Đào tạo nhân lực triển khai ứng dụng CNTT 52 2.3 Đánh giá chung về đào tạo nhân lực CNTT ở Việt Nam 70 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH ĐỂ THÚC ĐẨY 76 3 ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1 Quan điểm phát triển công tác đào tạo nhân lực CNTT từ nay đến 2020 76 3.1.1 Nhân lực CNTT trƣớc bối cảnh mới trong nƣớc và quốc tế 76 3.1.2 Các quan điểm cơ bản 89 3.2 Các giải pháp chính để thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong thời gian tới 91 3.2.1 Mở rộng các kênh đào tạo nhân lực công nghệ thông tin 91 3.2.2 Tăng cƣờng công tác đào tạo nhân lực CNTT theo các chuẩn mực quốc tế 93 3.2.3 Cần gắn đào tạo với thực tế doanh nghiệp 97 3.2.4 Phát triển những tài năng CNTT 100 3.2.5 Phát huy nguồn lực chất xám của đội ngũ Việt Kiều 101 3.2.6 Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với những nhân viên giỏi 102 KẾT LUẬN 103 TÀI LI ỆU THAM KHẢO 10
§¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI TR¦ êNG §¹I HäC KINH TÕ ----------------------- §ç ThÞ Ngäc ¸nh ®µo t¹o nguån nh©n lùc c«ng nghÖ th«ng tin ë ViÖt Nam Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ chÝnh trÞ M· sè : 60 31 01 LUËN V¡N TH¹C Sü KINH TÕ CHÝNH TRÞ NG¦ êI H¦ íNG DÉN KHOA HäC TS. T¹ §øc Kh¸nh Hµ Néi - 2008 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO 7 NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 1.1 Vai trò của công nghệ thông tin Khái niệm và đặc điểm công nghệ thông tin 1.1.1 7 7 1.1.2 Vai trò của công nghệ thông tin 9 1.2 Nguồn nhân lực CNTT và đào tạo nguồn nhân lực CNTT 15 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của nhân lực công nghệ thông tin 15 1.2.2 Vai trò của nhân lực công nghệ thông tin 17 1.2.3 Đặc điểm của công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT 19 1. 3 21 Kinh nghiệm của Ấn Độ trong đào tạo nguồn nhân lực CNTT CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC 28 CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin ở Việt 28 Nam 2.2 Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở 32 Việt Nam 2.2.1 Hệ thống đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin 32 2.2.2 Đào tạo nhân lực trong các doanh nghiêp CNTT 45 2.2.3Đào tạo đội ngũ các nhà lãnh đạo CNTT ( CIO: Chief 48 Information Officer) 2.2.4 Đào tạo nhân lực triển khai ứng dụng CNTT 52 2.3 Đánh giá chung về đào tạo nhân lực CNTT ở Việt Nam 70 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH ĐỂ 76 THÚC ĐẨY 2 ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1 Quan điểm phát triển công tác đào tạo nhân lực CNTT từ nay 76 đến 2020 3.1.1 Nhân lực CNTT trƣớc bối cảnh mới trong nƣớc và quốc tế 76 3.1.2 Các quan điểm cơ bản 89 3.2 Các giải pháp chính để thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực công 91 nghệ thông tin trong thời gian tới 3.2.1 Mở rộng các kênh đào tạo nhân lực công nghệ thông tin 91 3.2.2 Tăng cƣờng công tác đào tạo nhân lực CNTT theo các 93 chuẩn mực quốc tế 3.2.3 Cần gắn đào tạo với thực tế doanh nghiệp 97 3.2.4 Phát triển những tài năng CNTT 100 3.2.5 Phát huy nguồn lực chất xám của đội ngũ Việt Kiều 101 3.2.6 Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với những nhân viên 102 giỏi KẾT LUẬN 103 TÀI LI ỆU THAM KHẢO 105 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại gắn với phỏt triển kinh tế tri thức. Một trong những tiền đề cơ bản để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hoá, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững là phải phát triển nguồn nhân lực. Chúng ta phải đi tắt đón đầu, phải cố gắng đi ngay vào công nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ cao: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến và công nghệ năng lượng mới để tạo ra những bước đột phá. Công nghệ thông tin là công cụ quan trọng hàng đầu để hình thành xã hội thông tin, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay, ngành CNTT Việt Nam là ngành liên tục tăng trưởng cao trong nhiều năm. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2001-2005 là 22,7%, tỉ lệ tăng trưởng rất cao so với tốc độ tăng trưởng khu vực và thế giới. Tuy nhiên, những kết quả trên vẫn “chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của ngành và yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày 07/11/2006 là một bước ngoặt quan trọng xác định vị thế Việt Nam trên con đường hội nhập toàn cầu. CNTT và truyền thông bao gồm 4 trụ cột cấu thành: ứng dụng CNTT, nguồn nhân lực CNTT, công nghiệp CNTT và cơ sở hạ tầng CNTT. Đảng và Chính phủ ta đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực cho CNTT. Đây là yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển CNTT. Để phát triển được nguồn nhân lực CNTT chất lương cao, công tác đào tạo được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Quyết định 05/2007/QĐ-BTTTT về việc quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT Việt Nam đến năm 2020 đã khẳng định: “Phát triển mạnh nguồn nhân 4 lực CNTT, đảm bảo có đủ nhân lực phục vụ nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, xây dựng kinh tế tri thức và xã hội thông tin, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cung cấp nhân lực công nghệ thông tin cho thị trường lao động quốc tế; Hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của hệ thống đào tạo nhân lực CNTT, nâng trình độ đào tạo nhân lực CNTT nước ta tiếp cận trình độ quốc tế và tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế. Từng bước trở thành một trong những nước cung cấp nhân lực CNTT chất lượng cao cho các nước trong khu vực và trên thế giới.” Nguồn nhân lực CNTT đã đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền CNTT nước nhà trong thời gian qua. Số lượng nhân lực CNTT đã tăng lên nhanh chóng, chất lượng nguồn nhân lực cũng đã được cải thiện một cách đáng kể. Tuy nhiên, tình hình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực CNTT hiện còn chưa thoát khỏi tình trạng “thừa mà thiếu”. Đào tạo ra thì nhiều nhưng số lượng sinh viên tốt nghiệp đáp ứng được nhu cầu của các đơn vị sử dụng thì lại thiếu. Chất lượng nguồn nhân lực CNTT còn nhiều bất cập, trong khi đó nhu cầu về nguồn nhân lực CNTT lại vô cùng lớn. Những vấn đề trên cho thấy, việc đi sâu nghiên cứu thực trạng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu để có được nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển là một yêu cầu cấp bách, một đòi hỏi khách quan xuất phát từ thực tiễn. Đề tài luận văn:“Đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam” trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn của việc đào tạo nguồn nhân lực CNTT trong thời gian qua mong muốn góp một phần nhỏ bé trong việc tìm ra các giải pháp thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin nhằm phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến tới nền kinh tế tri thức. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề phát triển nguồn nhân lực là mảng đề tài được sự quan tâm của rất nhiều giới nghiên cứu. 5 Có rất nhiều sách về đề tài này đã được được sự quan tâm rất lớn của độc giả như: “Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc” của Phạm thành Nghị ( chủ biên), Trần Xuân Cầu, Trần Hữu Hân do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2006.Tác phẩm này đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng tính hiệu quả trong việc quản lý nguồn nhân lực ở nước ta. “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc” của Nguyễn Thanh do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2005 cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về tình hình phát triển nguồn nhân lực và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. “Phát triển nhân lực công nghệ ƣu tiên ở nƣớc ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (2002), Nxb Giáo dục Hà Nội đã đi sâu nghiên cứu nhân lực công nghệ ưu tiên ở nước ta như: CNTT, công nghệ sinh học... và phân tích các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực này. tác phẩm “ Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin khu vực Châu Á- Thái Bình Dƣơng” của Tô Chí Thành do NXB bưu điện xuất bản năm 2004 đã tập trung nghiên cứu các chiến lược phát triển nhân lực CNTT của Trung Quốc, ấn Độ, Malaixia và Philippin. ở thể loại báo và tạp chí, có rất nhiều bài viết về đề tài phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt, tạp chí lý luận chính trị của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã giành một chuyên mục:“ Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” cho những bài viết về chủ đề này. Phát triển nguồn nhân lực là một đề tài đã được nhiều người chọn làm đề tài luận án như: Luận án Tiến sỹ kinh tế: “Giải pháp nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc” của Phan Thanh Tâm (2000), ĐH Kinh tế quốc dân đã đi sâu nghiên cứu một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Luận án Tiến sỹ kinh tế: “Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn 6 nhân lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phạm Văn Quý, năm 2005, Viện kinh tế Việt Nam đã phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở nước ta và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ để đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH. Tác giả Kim Ngọc Anh với “Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát thanh- truyền hình ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, luận văn thạc sỹ, năm 2005, Khoa Kinh tế, ĐHQG HN đã tập trung nghiên cứu tình hình phát triển nguồn nhân lực của một lĩnh vực cụ thể, đó là lĩnh vực phát thanh truyền hình, đồng thời chỉ ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực này. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào việc phân tích, đánh giá thực trạng của nguồn nhân lực nói chung, và đã đưa ra những giải pháp để phát triển nguồn nhân lực đó. Một số tác giả đã nghiên cứu về nguồn nhân lực trong lĩnh vực cụ thể hơn như nguồn nhân lực khoa học công nghệ hoặc nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát thanh truyền hình. Có tác giả đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia đã thành công trong việc phát triển nguồn nhân lực CNTT. Có tác giả đã tập trung nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực công nghệ ưu tiên ở nước ta, trong đó có nguồn nhân lực CNTT nhưng nghiên cứu của tác giả này về nhân lực CNTT chưa sâu, chỉ là một mảng trong phần nghiên cứu chung về công nghệ ưu tiên, và giai đoạn mà tác giả nghiên cứu là trước năm 2002. Như vậy, vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào tập trung vào vấn đề: “Đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam” một cách hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn để đưa ra những giải pháp cần thiết nhằm tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý nguồn nhân lực CNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ thực trạng của việc đào tạo nhân lực CNTT ở Việt Nam, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy đào tạo nguồn 7 nhân lực công nghệ thông tin nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng tiến trình đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ lý thuyết về nguồn nhân lực CNTT và đào tạo nguồn nhân lực CNTT. - Phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong việc đào tạo nguồn nhân lực CNTT. - Đánh giá thực trạng đào tạo nguồn nhân lực CNTT ở nước ta hiện nay. - Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng tiến trình đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực CNTT ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề chung về đào tạo nguồn nhân lực CNTT ở nước ta trong giai đoạn 1997 – 2007 và những vấn đề đặt ra đối với việc đào tạo nguồn nhân lực CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 5. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ những nguyên lý chung dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, và các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề đặt ra. 6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Đánh giá thực trạng đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý nguồn nhân lực CNTT ở nước ta trong giai đoạn 1997 đến nay. - Đề xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong thời gian tới 7. Bố cục của luận văn 8 Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nguồn nhân lực CNTT Chƣơng 2: Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam Chƣơng 3: Quan điểm và các giải pháp chính để thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong thời gian tới 9 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Vai trò của công nghệ thông tin 1.3 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm công nghệ thông tin - Khái niệm công nghệ thông tin Công nghệ thông tin là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình xứ 1ý thông tin( gồm tri thức, sự kiện, số liệu âm thanh, hình ảnh ..). Theo quan niệm này thì công nghệ thông tin là hệ thống các phương pháp khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá.. của con người. CNTT và truyền thông (ICT) bao gồm 4 trụ cột cấu thành : ứng dụng ICT, nguồn nhân lực ICT, công nghiệp ICT và cơ sở hạ tầng ICT . Những lĩnh vực ứng dụng ICT gồm: kinh tế, xã hội, quản lý và những kết quả ứng dụng: chính phủ điện tử, giáo dục điện tử, truyền thông và giải trí điện tử ... Công nghiệp ICT gồm CNPM, CNPC, Công nghiệp điện tử cùng các nhân tố hỗ trợ: tri thức, thông tin, dữ liệu ... CNPC gồm: CNPC máy tính, công nghiệp điện tử, công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông. Khi nói về sự phát triển của bất kỳ ngành công nghiệp nào, người ta cũng nói tới sự cần thiết của cơ sở hạ tầng, phần cứng máy tính cũng chính là một phần cơ bản của cơ sở hạ tầng CNTT . CNPM là một ngành kinh tế nhằm nghiên cứu, xây dựng, phát triển, sản xuất và phân phối các sản phẩm phần mềm, cung cấp các dịch vụ đào tạo, huấn luyện, tư vấn các giải pháp, hỗ trợ kỹ thuật, bảo trì cho người tiêu dùng ...Phát triển CNPM đòi hỏi phát triển 3 lĩnh vực chủ yếu: tạo sản phẩm , dịch vụ và đào tạo. Nguồn nhân lực ICT gồm: người lãnh đạo, người sử dụng, DN và chuyên gia. Cơ sở hạ tầng ICT gồm: điện thoại di động, cố định, Internet, băng thông, cước. Bốn thành phần này có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ tạo nên sức mạnh ICT, được thúc đẩy và phát triển bởi 3 chủ thể là người sử dụng, DN và Chính phủ . Người sử dụng là người dân, DN, cơ quan Chính phủ, các tổ chức cá nhân trong 10 và ngoài nước đầu tư và thúc đẩy phát triển thông qua thị trường, tham gia thúc đẩy các DN đổi mới, tham gia với Chính phủ trong việc xây dựng, thực hiện, giám sát, kiểm tra, đánh giá kết quả và tác động của các chính sách phát triển CNTT. Doanh nghiệp tham gia sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ, cùng người sử dụng tham gia phát triển thị trường, tham gia với Chính phủ trong các hoạt động xây dựng, điều chỉnh và thực hiện các chính sách phát triển CNTT. Chính phủ đóng vai trò tạo môi trường pháp lý, thể chế, chính sách, điều hành phối hợp và hợp tác quốc tế, thúc đẩy và hỗ trợ cho CNTT phát triển . - Đặc điểm công nghệ thông tin CNTT có các đặc điểm là: khả năng truyền tải lượng thông tin nhanh, nhiều và rộng theo mạng làm cho việc gián tiếp từ xa được thực hiện gần như tức thì; khả năng lưu trữ dữ liệu ngày càng lớn về mặt dung lượng, trên những loại vật mang ngày càng nhỏ bé về kích thước; thời gian truy cập ngày càng ngắn, phần tỷ giây cho phép xử lý những đối tượng có tầm vóc thông tin khổng lồ. CNTT có khả năng áp dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực: từ khoa học tới kinh tế – xã hội. CNTT là 1 công nghệ có nhiều “tầng lớp ”: ở tất cả các khâu đoạn sản xuất CNTT. Tầng 1: chương trình ứng dụng cho từng cơ quan, xí nghiệp, có thể được thành lập bởi 1 ngôn ngữ lập trình dựa trên những hệ quản trị dữ liệu, thường được viết tại chỗ hay gia công bên ngoài. Tầng 2: Chương trình ứng dụng và hệ mềm cơ bản: đây là khâu phức tạp nhất và giàu có nhất, là sản phẩm của các công ty chuyên viết phần mềm. Tầng 3 gồm những “ khả dụng ”về phần mềm, làm cho các chương trình ứng dụng tổng quát hay đặc biệt hoạt động được, chủ yếu là hệ điều hành và hệ điều hành mạng. Tầng 4 gồm các hệ máy và mạng đang hoạt động trên thế giới. Việc sản xuất các máy này bắt đầu từ việc làm ra các bìa in trong đó có gắn kết các linh kiện điện tử, rồi lắp ráp với phần điện, cơ khí, thiết bị ngoại vi ... thành một máy tính hoàn hảo. Tầng 5: bao gồm việc sản xuất linh kiện điện tử. CNTT là 1 công nghệ biến chuyển rất nhanh: sự biến chuyển thường xuyên của các máy tính, thiết bị ngoại vi, về phần mềm cơ bản và thiết kế hệ thống ... CNTT có đặc điểm là sở hữu trí tuệ đóng vai trò tối quan trọng. Do hàm lượng tri thức cao nên việc bảo vệ tri thức giữ vị trí quan trọng trong chính sách phát 11 triển CNTT. Các sản phẩm CNTT, nhất là các sản phẩm phần mềm, các dịch vụ giá trị gia tăng, việc sao chép và chuyển giao rất đơn giản, nhanh chóng nên việc bảo vệ sở hữu trí tuệ là điều kiện then chốt để phát triển CNTT. CNTT là một ngành mũi nhọn: là kết quả tổng hợp của toán học, hoá học, quang học, cơ khí chính xác cũng như công nghệ làm mạch tổng hợp nhưng ở mức độ tinh vi hơn nhiều. CNTT luôn luôn nặng về tri thức. Đây là yếu tố then chốt để phát triển ngành công nghiệp này và để nắm bắt nó cần có 1 cơ sở vững vàng về khoa học. Điều này lý giải vì sao, để phát triển CNTT chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực . 1.1.2 Vai trò của công nghệ thông tin Sự bùng nổ của cuộc Cách mạng CNTT đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử văn minh nhân loại. CNTT đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội và an ninh quốc phòng. CNTT đang đưa thế giới bước vào 1 thời đại kinh tế số - Kinh tế tri thức, lấy công nghệ cao làm lực lượng sản xuất, lấy trí lực - nguồn tài nguyên vô tận làm nền tảngđể phát triển; Khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. CNTT đang tạo ra khả năng và phương thức tiếp cận mới cho phát triển quốc gia, tạo ra những tiềm năng và cơ hội giúp các nước đang phát triển vượt qua những rào cản lạc hậu, thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược quốc gia, đẩy nhanh và rút ngắn quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Thứ nhất, ứng dụng CNTT làm giảm chi phí sản xuất và tạo giá trị gia tăng cao Là ngành có hàm lượng tri thức kỹ thuật cao, CNTT có vai trò vô cùng quan trọng đối với nâng cao năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế. CNTT phát triển đã cung cấp những biện pháp nhanh nhạy cho việc khai thác, sử dụng đầy đủ nguồn tài nguyên thông tin. Năng lực xử lý và tốc độ tính toán nhanh của máy tính giúp chu kỳ nghiên cứu triển khai sản xuất ngắn lại. Nhịp độ sản xuất được đẩy nhanh, giảm hao phí về tài nguyên, năng lượng. Thông tin thông suốt làm giảm các chi phí điều tra nghiên cứu thị trường, tiếp thị sản xuất ..., hạ giá thành sản phẩm, năng suất lao động tăng mạnh mẽ. Lượng thông tin ngày một gia tăng mạnh mẽ: cứ 5 năm, lượng thông tin của 12 thế giới lại tăng gấp đôi. Nhờ có CNTT, nhất là Internet, thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé, thông tin không biên giới đã hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và mang tính toàn cầu. Vốn, sản xuất, hàng hoá, sức lao động, thông tin và công nghệ được trao đổi, sử dụng và điều phối xuyên quốc gia đã là phổ biến. Quan hệ hợp tác và cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, công nghệ giữa các quốc gia, giữa các DN ngày càng mạnh mẽ. Việc truyền tải nhanh chóng thông tin làm cho nhịp độ sản xuất kinh doanh ngày càng nhanh hơn, chu kỳ tồn tại của kỹ thuật và sản phẩm ngày càng ngắn lại. Các khâu sản xuất, cung ứng và tiêu thụ đều phải thay đổi, chuyển từ sản xuất quy mô lớn sang sản xuất theo đơn “đặt hàng ”qua Internet, thu hẹp khoảng cách giữa người sản xuất và tiêu dùng. Người sản xuất có thể hiểu được nhu cầu của khách hàng, nắm được thông tin thị trường một cách nhanh nhất, có thể xây dựng được chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Người tiêu dùng có thể tham gia quá trình sản xuất: lựa chọn , thiết kế những sản phẩm thích hợp nhất. Sự phát triển của CNTT không chỉ mở rộng thị trường hiện có mà còn tạo ra các cơ hội và lĩnh vực kinh doanh mới, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mới như hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới, trọng tài cho giới kinh doanh, tiêu thụ, hình thành các siêu thị ảo. Điều này giúp giảm được chi phí văn phòng, tiếp thị, chi phí đi lại ...và tăng cường phản hồi. Trên Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng. Các câu hỏi của khách hàng có thể được gửi lên trang Web hoặc gửi vào hộp thư điện tử của DN. DN có thể trả lời trực tuyến cho khách hàng mà không phải tốn chi phí đi lại. Các DN và người tiêu dùng có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau. Các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới mẻ được phát hiện nhanh chóng trên toàn quốc, toàn khu vực và toàn thế giới. CNTT phát triển giúp các DN nắm bắt được một cách nhanh nhất các công nghệ mới, có thể mua các công nghệ đó với giá rẻ nhất, không qua trung gian.Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ứng dụng CNTT tốt sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh, nắm bắt thông tin, tiếp cận thị trường, mở rộng quan hệ với khu vực và thế giới. Điều này sẽ vô cùng có ích cho hoạt động sản xuất kinh 13 doanh, nâng cao năng suất lao động lên gấp nhiều lần và tăng tính cạnh tranh. Phát triển CNTT sẽ đem lại nhiều sự thuận tiện, tiết kiệm thời gian, tăng khả năng lựa chọn cho người tiêu dùng. Chỉ cần ngồi ở nhà truy cập vào các trang web siêu thị hay chỉ cần vài phút gọi điện thoại, người tiêu dùng có thể khảo hàng, đối chiếu giá cả hàng hoá, dịch vụ và mua hàng một cách dễ dàng. Ví dụ trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, nhờ CNTT, việc thu thập, xử lý, lưu trữ số lượng hồ sơ khách hàng phải tốn công sức của hàng trăm lao động, phải có kho để lưu trữ cực lớn ...và độ chính xác sẽ không cao. CNTT đã giúp tăng năng suất lao động lên hàng ngàn lần, đảm bảo thông tin nhanh nhạy, chính xác kịp thời và giảm chi phí để hạ giá thành. CNTT đã giúp các tổ chức tín dụng, các chi nhánh ngân hàng nhà nước ở vùng sâu vùng xa có được thông tin kịp thời thông qua trang Web đã không còn trở ngại về khoảng cách và thời gian . - Thứ hai, phát triển CNTT cho phép phát triển giáo dục từ xa, góp phần thúc đẩy quá trình đào tạo liên tục và nâng cao dân trí . Dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng thông tin 1, 2 thập kỷ qua, nền kinh tế thế giới có những chuyển biến sâu sắc. Thông tin - tri thức là nguồn tài nguyên số một, là cơ sở của sự giàu có. Sự sáng tạo và đổi mới thường xuyên là động lực thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn vài năm thậm chí vài tháng. Đầu tư cho giáo dục chính là quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia. Mô hình giáo dục truyền thống: đào tạo - làm việc không còn phù hợp, cần một mô hình mới: đào tạo - làm việc - đào tạo. Mạng thông tin giúp mọi người tiếp nhận nhanh kiến thức, chủ động theo kịp sự đổi mới, phát triển trí sáng tạo. Giáo dục, đào tạo từ xa giúp nâng cao chất lượng các chương trình giảng dạy và học tập. Người đi học ở khắp mọi nơi có thể thông qua mạng để đăng ký và tham gia học tập. Điều này đã hạ thấp chi phí học tập và tiết kiệm thời gian cho người học. Ví dụ, một sinh viên Việt Nam muốn tham gia khoá học ở một trường Đại học của nước ngoài, nếu anh ta sang tận nước đó du học thì tốn kém tiền bạc và thời gian hơn nhiều so với việc anh ta học qua mạng mà vẫn được cấp bằng của Đại học đó. Với sự hỗ trợ của CNTT, học sinh sẽ được tiếp thu phương pháp học tập mới, gây nhiều hứng thú cho người học và người dạy, tăng tính tự chủ, sáng tạo cho 14 người học, góp phần đắc lực vào việc nâng cao hiệu quả học tập và giảng dạy. Việc tăng cường thêm các hoạt cảnh, các hình ảnh sinh động mang tính ngụ ý, các đoạn âm thanh diễn cảm...bằng máy tính trong các môn kinh tế, quản lý, luật, khoa học xã hội và nhân văn ...làm cho người học dễ nhớ, dễ hiểu bài, thấy vui hơn, hấp dẫn hơn. Người học chủ yếu là tự học, thông qua giáo trình, tài liệu, sách báo điện tử và phim, ảnh điện tử lồng ghép một cách tinh vi.... Nhờ có thành tựu to lớn của CNTT và viễn thông hiện đại, các nước kinh tế phát triển đã thành lập các trường "Đại học ảo - Universite Virtuelle ”- "mô hình Giáo dục đại học và cao đẳng phi vật chất", vì không còn tồn tại cơ sở vật chất cho một trường Đại học và Cao đẳng như giảng đường, lớp học, trang thiết bị dạy và học truyền thống, thay vào đó là kỹ thuật số và các Campus điện tử. Người học sẽ tiếp cận kiến thức thông qua máy tính, Internet và các công cụ điện tử viễn thông khác. Giảng viên giữ vai trò trung gian, hướng dẫn học là chính. Một "Đại học ảo" gồm 4 lĩnh vực chính: Đào tạo, Nghiên cứu, Thông tin khoa học và các dịch vụ phục vụ người sử dụng, nhưng việc tổ chức, thực hiện không theo kiểu truyền thống. “Đại học ảo” mở ra cơ hội cho mọi người và không ràng buộc về thời gian, địa điểm, người học không còn bị động trong việc tiếp thu kiến thức, phát huy được tài năng và sự năng động. Mô hình đào tạo này có thể điều chỉnh được sự mất cân đối giữa "cung" và "cầu" của thị trường lao động và đảm bảo được sự công bằng trong việc tiếp cận tri thức khoa học cho mọi người, góp phần giảm bớt sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo . Công tác nâng cao dân trí, giáo dục suốt đời là vô cùng cần thiết. CNTT là công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình này thông qua các khoá học trên mạng, được mở ra liên tục vào mọi thời gian, hoặc có thể bằng chính lượng thông tin vô cùng phong phú và đa dạng ở các trang web hay trên các diễn đàn điện tử . - Thứ ba, phát triển CNTT góp phần rút ngắn tiến trình CNH, HĐH đất nƣớc Để có thể đi tắt, đón đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện, song hiệu nghiệm nhất là cần đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin . Quá trình công nghiệp hoá nước ta sẽ không diễn ra theo lối cũ mà là quá trình 15 gắn với hiện đại hoá, tức là gắn với khoa học và công nghệ phát triển cao, bao gồm công nghệ thông tin. Khi CNTT được ứng dụng thích hợp, chi phí cho quá trình CNH sẽ ít hơn nhiều so với quá trình công nghiệp hoá thông thường - tức là làm giảm đầu tư đáng kể cho quá trình phát triển. CNTT sẽ giúp chúng ta tìm ra những phương án phát triển khác quá trình công nghiệp hoá theo kiểu cũ. ứng dụng và phát triển CNTT đúng đắn sẽ tạo cơ hội rút ngắn thời gian, cho phép chúng ta sử dụng tối ưu nguồn lực, thu hẹp khoảng cách tri thức, thu hẹp khoảng cách xã hội nông thôn - thành phố, nghèo - giàu, truyền thống -hiện đại. Ứng dụng, phát triển CNTT đúng đắn sẽ thúc đẩy quá trình CNH, HĐH diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn về quy mô, tốc độ, tạo khả năng to lớn để có thể đi tắt, đón đầu ở những lĩnh vực không nhất thiết phải phát triển tuần tự, phát huy thế mạnh trí tuệ, truyền thống lịch sử của dân tộc, thực hiện thắng lợi quá trình CNH, HĐH. Cũng cần phải hiểu rằng đi tắt, đón đầu không có nghĩa là đi tắt đến những xã hội phát triển ngày nay mà đi tắt tới xã hội mà ngay cả những nước phát triển nhất cũng chưa hề đạt được. Đó chính là xã hội mà trong đó con người biết sống và tiêu dùng vật chất với trình độ văn minh cao, luôn vươn tới trí tuệ và sáng tạo, con người phát triển hài hoà với khoa học công nghệ và tự nhiên, lấy trí tuệ, sáng tạo và văn minh làm thước đo giá trị của mỗi con người. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với các tiêu chí “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên, dựa vào công nghệ thông tin với tư cách là đòn bẩy chủ lực để rút ngắn quá trình phát triển từ một xuất phát điểm chung còn rất thấp, đối với nước ta là một thách thức rất lớn, đòi hỏi phải có những bước đi hợp lý và phải tập hợp được sức mạnh, ý chí và trí tuệ tổng hợp của cả dân tộc dưới sự chỉ đạo sáng suốt, khéo léo và quyết đoán của Đảng và Nhà nước, phải tận dụng tối đa những thành tựu khoa học công nghệ. Đó là điều kiện then chốt để đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Thứ tư, CNTT sẽ tạo ra sự phát triển bền vững . Việc phát triển kinh tế xã hội qua việc sử dụng ngày càng nhiều các phương tiện ICT sẽ ngày càng làm cho thế giới thịnh vượng và công bằng hơn. Viễn thông 16 thông tin hiện có và đáng tin cậy có thể được sử dụng một cách hiệu quả như là một trong những công cụ để chỉ ra những vấn đề mang tính toàn cầu. Riêng ICT thì không thể xoá đói giảm nghèo hay giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, nhưng ICT lại là chất xúc tác ngày càng quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. ICT phát triển sản xuất nông nghiệp, đa dạng hoá và phân phối sản phẩm nông nghiệp hiệu quả hơn. ICT tạo ra khả năng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho những người sống ở những vùng khắc nghiệt, khó hoặc không thể tiếp cận được với trung tâm y tế. ICT cũng có thể mang kiến thức đến cho những người ở các vùng xa xôi hẻo lánh. ICT là nhân tố quan trọng đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, làm cho hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và mang tính toàn cầu. Hiện nay, Internet đã liên kết trên 200 quốc gia và khu vực, càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp bị cuốn vào làn sóng toàn cầu hóa kinh tế. Tiếp cận CNTT có thể làm bùng nổ việc thành lập các công ty nhỏ, các nhóm thợ thủ công ở những vùng nghèo và hẻo lánh nhất, giúp họ tham gia vào thị trường trong nước và toàn cầu. CNTT có thể tạo ra những bước phát triển nhảy vọt của những hạ tầng cơ sở nghèo nàn, xoá đi khoảng cách địa lý giữa các thị trường và các kênh phân phối trên thị trường nghèo nàn sẽ không còn. CNTT đem lại tiếng nói cho những người sống ở nơi hẻo lánh, những người khiếm thính, khiếm thị, cho phép họ nói lên những suy nghĩ, ý kiến của mình. Với việc mang đến các quyền năng to lớn để nâng cao đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá, CNTT truyền thông phải là hạt nhân của mọi chiến lược phát triển. - Thứ năm, phát triển CNTT tạo điều kiện để hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức Kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất mới, là xu thế phát triển tất yếu, bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ đi theo. Phát triển kinh tế tri thức là nắm bắt, vận dụng những tri thức mới về khoa học - công nghệ, về tổ chức quản lý , sản xuất kinh doanh ... đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, vận dụng kinh tế tri thức để tạo ra những bứt phá lớn có ý nghĩa. Sự lớn mạnh nhanh chóng của nền CNTT sẽ là một trong những yếu tố thúc đẩy sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức. Quá trình tự động hoá nền sản xuất công nghiệp và tin học hoá nền kinh tế 17 diễn ra nhanh chóng làm cho khu vực thông tin tăng trưởng nhanh chóng. Xu thế chung của nền kinh tế phát triển là khu vực thông tin ngày càng chiếm vị trí chủ đạo, thế giới đang thực hiện một sự chuyển biến từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mới dựa chủ yếu vào nguồn tài nguyên thông tin và trí tuệ. Trong nền kinh tế đó, khai thác các nguồn tài nguyên thông tin, các ý tưởng sáng tạo, các nguồn tri thức là những yếu tố chủ chốt để tạo ra của cải, sự giàu có. Không sử dụng CNTT thì khó đạt hiệu quả hành chính, khó thực hiện công khai, minh bạch, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, khó đẩy lùi tham nhũng tiêu cực, phiền nhiễu dân...Không có lĩnh vực nào có thể đổi mới phát triển nhanh nếu không sử dụng CNTT. Không ngừng phát triển CNTT là một trong những giải pháp đột phá cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức . 1.4 Nguồn nhân lực CNTT và đào tạo nguồn nhân lực CNTT 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của nhân lực công nghệ thông tin - Khái niệm nhân viên công nghệ thông tin Nhân viên công nghệ thông tin là một bộ phận của nhân lực khoa học - công nghệ. Nhân lực khoa học - công nghệ là một bộ phận của lực lượng lao động xã hội được đào tạo ở những trình độ chuyên môn nhất định và tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các hoạt động khoa học - công nghệ từ nghiên cứu, triển khai đến đào tạo, quản lý và vận hành các hệ thống công nghệ. Đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ. Có nhiều mức trình độ đào tạo cơ bản khác nhua từ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, kỹ thuật viên trung cấp đến đội ngũ kỹ sư, chuyên gia có trình độ đại học và sau đại học . - Các loại hình nhân lực công nghệ thông tin: + Nhân lực khoa học cơ bản: Gồm đội ngũ chuyên gia có trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ cơ bản có liên quan trực tiếp đến quá trình phát triển CNTT như toán, vật lý, hóa học, khoa học vật liệu, tự động hóa... + Nhân lực chuyên ngành CNTT: gồm nhân lực phần mềm( lập trình ) và nhân lực phần cứng( công nghiệp thiết kế, chế tạo, lắp ráp, bảo trì trang thiết bị sản phẩm CNTT) 18 + Nhân lực quản lý công nghệ thông tin: Gồm các chuyên gia quản lý, quản trị các cơ quan quản lý ngành, các cơ sở sản xuất – dịch vụ thông tin. + Nhân lực triển khai ứng dụng CNTT ở các ngành kinh tế - xã hội: gồm các chuyên gia, các nhà khoa học, cán bộ, công nhân kỹ thuật sử dụng các trang thiết bị CNTT (máy tính, hệ thống thiết bị thông tin...) như là công cụ tác nghiệp. - Đặc điểm của nguồn nhân lực công nghệ thông tin + Thứ nhất, bất cứ ai muốn tham gia vào sự phát triển của nền CNTT đều phải là những người đã qua đào tạo, thậm chí rất cần có sự đào tạo chuyên sâu. Dù là công nhân kỹ thuật hay những người ứng dụng CNTT vào trong lĩnh vực chuyên môn của mình đều phải là những người đã qua đào tạo. Trường hợp có một số người không qua đào tạo, mà bằng sự mày mò, sáng tạo của mình vẫn trở thành một người lao động tích cực trong lĩnh vực CNTT là rất hiếm. + Thứ hai, đối với lĩnh vực CNTT, lao động trí óc chiếm tỷ lệ cao. Muốn có được một sản phẩm phần mềm hay một kiểu dáng mới cho 1 sản phẩm hay một dòng sản phẩm phần cứng mới với nhiều tính năng, công dụng nhưng giá thành lại hợp lý hơn đòi hỏi các cá nhân phải nắm bắt được những kỹ thuật nhất định như lập trình, thiết kế bản vẽ ...; tức là phải đầu tư hàm lượng chất xám rất cao. + Thứ ba, lao động trong lĩnh vực CNTT là lao động sáng tạo của từng cá nhân. Đây là loại lao động phức tạp. Lao động càng phức tạp thì đòi hỏi con người càng phải không ngừng sáng tạo. Sự sáng tạo cá nhân với bản sắc, cá tính, phong cách riêng để không thể trộn lẫn, không thể hòa tan. Bên cạnh những kỹ thuật nhất định, lao động CNTT đòi hỏi các cá nhân phải rất nhạy bén, năng động, biết khai thác ra những cái mới. Ví dụ, cùng một sản phẩm phần mềm quản lý nhân viên nhưng sản phẩm của mỗi người sẽ có những đặc trưng và những tính năng riêng để thu hút các đối tượng khách hàng khác nhau. Chính vì vậy, vấn đề bản quyền, vấn đề sở hữu trí tuệ là vô cùng quan trọng. Nhà nước cần có những đạo luật, những chính sách nghiêm ngặt để chống vi phạm bản quyền. + Thứ tư, nhân lực CNTT là những con người cần có nhiều kiến thức, sự hiểu biết về các ngành khoa học khác và hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực trong đời sống 19 xã hội. Một chuyên gia CNTT thuần tuý mà muốn có 1 sản phẩm phần mềm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, bên cạnh những kỹ thuật CNTT nhất định, anh ta sẽ phải tìm hiểu rất nhiều về lĩnh vực tài chính ngân hàng, về thị trường, về marketting, về các ưu, nhược điểm của các phần mềm khác đã có trong lĩnh vực này. Nếu không, sản phẩm của anh ta sẽ lạc hậu hoặc sẽ rất khó sử dụng, sẽ không được các đối tác ngân hàng tin dùng. + Thứ tư, nhân lực CNTT là những người tiếp cận nhanh nhất các luồng thông tin nghề nghiệp ở quy mô thế giới và khu vực, do đó đòi hỏi về giao tiếp, dân chủ và đãi ngộ của họ khá cao. Họ là những người phải làm việc rất nhiều với máy tính, với Internet, với các công nghệ mới. Các thông tin trên Internet là vô cùng cập nhật, nóng hổi. ở trên mạng, họ không chỉ có giao tiếp với những người trong nước mà có thể giao lưu với rất nhiều người trên khắp thế giới. Họ phải là những người luôn cố gắng tạo ra những công nghệ mới, những sản phẩm mới, khác biệt. Do vậy, việc tiếp cận các luồng thông tin mới nhất là vô cùng cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nghề nghiệp của họ. Những đặc điểm trên cho thấy, các biện pháp và chính sách quản lý đối với nguồn nhân lực này phải hết sức khéo léo để họ vừa tuân thủ đúng pháp luật vừa phát huy được cao độ tính sáng tạo của mình. 1.2.3 Vai trò của nhân lực công nghệ thông tin Sự phát triển của ngành CNTT phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nguồn nhân lực CNTT; trang thiết bị nghiên cứu, ứng dụng, vốn đầu tư cho ngành, chính sách của Nhà nước đối với ngành... trong đó đội ngũ nhân lực CNTT có vai trò hết sức quan trọng. Trong thời đại Cách mạng khoa học công nghệ, toàn cầu hóa, khu vực hóa, quá trình công nghiệp hóa luôn gắn với hiện đại hóa, nguồn nhân lực, đặc biệt ở lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin với số lượng đông, chất lượng cao sẽ đóng vai trò trọng yếu đối với sự phát triển của nền kinh tế. Vai trò của nguồn nhân lực CNTT được thể hiện ở những mặt chủ yếu sau: - Thứ nhất, đây là đội ngũ quan trọng trong xây dựng các đường lối, chính 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan