Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn đặc điểm truyện ngắn ma văn kháng thời kỳ đổi mới...

Tài liệu Luận văn đặc điểm truyện ngắn ma văn kháng thời kỳ đổi mới

.PDF
124
134
83

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- Nguyễn Hồng Thắm ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC \ Hà Nội-2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- Nguyễn Hồng Thắm ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Chuyên ngànhVăn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức Hà Nội-2013 2 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................5 1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................5 2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................7 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu .......................................................................11 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................12 5. Đóng góp của luận văn ....................................................................................12 6. Cấu trúc luận văn ............................................................................................12 NỘI DUNG ..............................................................................................................14 Chương 1. Sáng tác của Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn đương đại Việt Nam ............................................................................................14 1.1. Khái quát chung về truyện ngắn đương đại Việt Nam .........................14 1.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng ...............................................15 1.2.1. Cuộc đời .............................................................................................15 1.2.2. Sự nghiệp ............................................................................................18 1.2.3. Truyện ngắn Ma Văn Kháng trong dòng chảy truyện ngắn đương đại Việt Nam ................................................................................................22 Chương 2. Những đặc điểm nội dung trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới .............................................................................................................30 2.1. Cảm hứng thế sự đời tư trong truyện ngắn Ma Văn Kháng ...............30 2.1.1. Vấn đề tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc gia đình ............................31 2.2.2 Vấn đề nhân cách con người .............................................................36 2.2.3. Sự cô đơn trong tâm hồn con người ................................................42 2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng .........................46 2.2.1 Kiểu nhân vật tha hóa ........................................................................48 2.2.2 Nhân vật bi kịch ..................................................................................55 2.2.3 Nhân vật vượt lên số phận .................................................................59 Chương 3. Những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới .....................................................................................................67 3 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................67 3.1.1. Yếu tố ngoại hình, nghề nghiệp........................................................67 3.1.2. Yếu tố tâm linh ..................................................................................76 3.1.3. Yếu tố ngôn ngữ ................................................................................81 3.2. Ngôn ngữ ...................................................................................................85 3.2.1. Ngôn ngữ đời thường, đậm chất khẩu ngữ .....................................85 3.2.2. Ngôn ngữ văn xuôi giàu tính nhạc ...................................................88 3.3. Kết cấu.......................................................................................................94 3.3.1. Kết cấu mở .........................................................................................95 3.3.2. Kết cấu lồng ghép ............................................................................100 3.3.3. Kết cấu tâm lý ..................................................................................104 3.4. Giọng điệu trần thuật ............................................................................106 3.4.1. Giọng điệu xót xa, ngậm ngùi ........................................................107 3.4.2. Giọng triết lý, tranh biện ................................................................109 3.4.3. Giọng ngợi ca ...................................................................................112 KẾT LUẬN ............................................................................................................116 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................120 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng Ma Văn Kháng vẫn rất trẻ trung và đặc biệt vẫn tỏ ra sung sức trong nghề cầm bút. Hơn 50 năm trong nghề, Ma Văn Kháng đã sở hữu một gia tài nghệ thuật khá đồ sộ: 15 cuốn tiểu thuyết, khoảng 200 truyện ngắn và một hồi ký văn học… Trong suốt hành trình lao động nghệ thuật, Ma Văn Kháng luôn ý thức được sứ mệnh là viết để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của con người, của sự sống. Mỗi trang viết của ông không chỉ thấm đẫm những quan niệm nhân sinh thế sự mà dường như soi thấu tâm can, gan ruột con người, mỗi tác phẩm vừa là tiếng nói đồng cảm sẻ chia với nỗi đau khổ của con người vừa đấu tranh quyết liệt cho cái đẹp, cái thiện ở cuộc đời. Thành tựu của Ma Văn Kháng kết tinh ở cả hai thể loại: Tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhiều tiểu thuyết của ông ở thập kỷ 80 đã từng gây xôn xao dư luận và cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc: Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989)… nhưng Ma Văn Kháng thực sự đặc sắc ở truyện ngắn. Truyện ngắn Ma Văn Kháng có vị trí đặc biệt trong văn nghiệp của ông. Người đọc biết đến Ma Văn Kháng qua truyện ngắn Xa phủ (1969), được tặng giải thưởng báo Văn nghệ. Tiếp sau đó người đọc gần gũi hơn với Ma Văn Kháng qua các tập truyện ngắn Bài ca trăng sáng (1972), Cái móng ngựa (1973)… Tuy nhiên, từ 1980 truyện ngắn Ma Văn Kháng mới cất cánh, thăng hoa, vươn tới đỉnh cao mà không mấy ai theo nghiệp bút nghiên lại không mong đạt tới: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn báo văn nghệ với tập truyện Xa phủ; tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Việt Nam 1995, giải thưởng văn học ASEAN 1998 với tập Trăng soi sân nhỏ, giải Cây bút vàng trong cuộc thi viết truyện ngắn do Bộ công an kết hợp với hội nhà văn tổ 5 chức cho truyện ngắn San Cha Chải, giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2012… và còn nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đã được chuyển thể thành kịch bản phim. Cho đến nay Ma Văn Kháng vẫn chung thủy với thể loại truyện ngắn đầy hấp dẫn và hứng thú này. Sáng tác của Ma Văn Kháng chia làm hai giai đoạn: trước và sau đổi mới (1986). Giai đoạn trước chủ yếu viết về cuộc sống, phong tục của ngừoi dân miền núi, giai đoạn sau viết về những đa đoan, phức tạp của đời sống thị thành và nông thôn. Cùng với sự thay đổi về đề tài, sáng tác của Ma Văn Kháng cũng có những sự đổi thay đáng kể, những bước đột phá về tư duy nghệ thuật. Nếu như những trang viết của Ma Văn Kháng trước thập kỉ 80 thể hiện cái nhìn mang hơi hướng sử thi thì ở giai đoạn sau đã chuyển sang cái nhìn thế sự. Cuộc sống hiện lên trong tác phẩm của ông giờ đây không còn đơn tuyến mà đa tuyến, nhiều chiều, cái xấu chen lẫn cái tốt, ma quỷ chen lẫn với thánh thần. Ông quan tâm đến thân phận con người trong nhiều quan hệ, hoàn cảnh khác nhau và cố gắng thể hiện con người một cách đầy đủ nhất trong tính đa dạng toàn vẹn như nó vốn có. Nhìn chung khi bàn về tác phẩm của Ma Văn Kháng giới nghiên cứu phê bình cũng như độc giả đều thống nhất khẳng định sáng tác của nhà văn thành công hơn ở những năm sau Đổi mới (1986). Ma Văn Kháng là cây bút sung sức thời kỳ Đổi mới và tác phẩm của ông đã có nhiều sự đổi thay mới mẻ để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Tìm hiểu truyện ngắn Ma Văn Kháng từ thời kỳ Đổi mới chúng tôi mong muốn khái quát, khẳng định được chiều sâu tư tưởng, giá trị nhân văn và những đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng với nền Văn học Việt Nam hiện đại, thấy được những thành tựu mới của nhà văn thời kỳ này so với thời kỳ trước; qua đó thấy được bước chuyển mình của Văn học Việt Nam nói chung thời kỳ Đổi mới. Nghiên cứu vấn đề nói trên sẽ 6 góp phần bổ sung vào việc đánh giá một cách hoàn chỉnh khái quát những thành tựu nổi bật của truyện ngắn Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi đương đại. 2. Lịch sử vấn đề Ngay từ khi tập truyện ngắn Xa phủ ra đời, giới phê bình văn học đã quan tâm nhiều đến tác phẩm của Ma Văn Kháng. Bài viết sớm nhất là Đọc Xa phủ của tác giả Bùi Văn Nguyên đăng trên báo Nhân dân ngày 5-7-1970. Tính cho đến thời điểm hiện nay việc tìm hiểu và khám phá văn chương của ông thật phong phú và đa dạng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo, nhiều ý kiến đánh giá của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu phê bình, nhà thơ, nhà văn được đăng tải trên các sách báo, tạp chí như: Bùi Hiển, Trần Đăng Suyền, Lã Nguyên, Nguyễn Ngọc Thiện, Bùi Việt Thắng, Trần Bảo Hưng, Trần Cương, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Văn Toại, Ông Văn Tùng… Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn đặc biệt chú ý đến những bài viết về truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Cùng với sự ra đời của những truyện ngắn trước năm 1980, những bài viết phê bình chủ yếu tập trung vào chất miền núi, dân tộc trong tác phẩm của Ma Văn Kháng. Ngày nay đọc những truyện ngắn trước 1980 của ông, ta dễ dàng nhận thấy những điều còn đơn giản, nông cạn – nói như chính tác giả “những truyện tôi viết những năm ấy bị chi phối bởi những cảm quan ấu trĩ, thô thiển, chốc lát, do đó đa phần là kém cỏi. Cho nên cùng với tác phẩm, những bài viết về nó khó giữ nguyên giá trị cho tới ngày hôm nay”. Thời kỳ 1980 – 1985 (trước đổi mới), Ma Văn Kháng tập trung vào viết tiểu thuyết, số lượng truyện ngắn ra đời ít, nên cũng không nhiều bài viết về nó. Đáng chú ý nhất là bài “Đọc các sáng tác về miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ về trách nhiệm của một nhà văn trước một đề tài lớn” của Nguyễn Văn 7 Toại (Tạp chí Văn học, số 5/1983), tác giả vẫn chủ yếu đánh giá nội dung phản ánh cuộc sống mới, con người mới ở miền núi của nhà văn. Một điều đáng lưu ý là tác giả đã phát hiện ra: truyện ngắn Ma Văn Kháng giàu tứ và tình. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay, Ma Văn Kháng cho ra đời hàng chục tập truyện ngắn như: Ngày đẹp trời (1986), Heo may gió lộng (1992), Vòng quay cổ điển (1997), Cỏ dại (2002), Móng vuốt thời gian (2003), Trốn nợ (2009)... Có thể nói sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng thực sự nở rộ từ đây và ngay lập tức gây xôn xao dư luận. Rất nhiều những bài báo, bài phê bình nghiên cứu về truyện ngắn của Ma Văn Kháng xuất hiện, phong phú đa dạng về nội dung. Tác giả Nguyễn Thanh Nguyên trong bài viết “Ngày đẹp trời – tính dự báo về những tình thế xã hội” Báo Văn nghệ số 21 ngày 23/5/1987 khẳng định: “Ma Văn Kháng đã khám phá cuộc sống từ nhiều bình diện khác nhau, ông lách sâu hơn vào ngõ ngách đời sống tinh thần, tìm ra những nguyên nhân và quy luật khắc nghiệt của tồn tại xã hội”. Tác giả Bùi Việt Thắng nhân đọc tập truyện ngắn Ngày đẹp trời đã nhận xét: “Ma Văn Kháng đã khéo léo khai thác những truyện đời thường mà không rơi vào tầm thường vô vị… mỗi truyện ngắn viết ra như một “nhát cắt ngang” sắc gọn làm nổi rõ hình hài đời sống trong những hình thái phong phú phức tạp của nó” (Báo Nhân dân số ra ngày 11/1/1987). Truyện ngắn Ma Văn Kháng “nghiêng về tính dự báo”, để người đọc có thể “nhận thức sâu sắc hơn về con người và cuộc đời”. Là một chuyên gia về truyện ngắn, tác giả bài viết có những nhận xét sâu sắc “truyện ngắn của Ma Văn Kháng thuộc loại truyện có cốt truyện, dễ kể lại dễ nhớ nhưng không lấy cốt truyện làm mục đích, dù nó là điển hình, mà cố nới rộng kích tắc của truyện ngắn tạo nên sức liên 8 tưởng lớn ở người đọc đến những vấn đề thiết thân trong đời sống xã hội và mỗi con người”. Trong bài “Cảm nhận về Đầm sen của Ma Văn Kháng” tác giả Nguyễn Đăng Điệp lại có nhận xét, đó là “thứ văn đầy chất đời, đầy ắp hơi thở của sự sống, sắc sảo biến hóa và tài hoa”. Đặc biệt khi nhận xét về thế giới nhân vật trong sáng tác của Ma Văn Kháng, tác giả cho rằng: “trong cái thế giới biến dạng và quay đảo này, con người rất dễ bị tha hóa biến chất”. Và trong thế giới nhân vật ấy, nhà văn thực sự thành công ở việc xây dựng nhân vật phụ nữ, họ “đời” nhất trong số các nhân vật của ông. Giọng văn của Ma Văn Kháng là một giọng điệu rất riêng, nó “tưng tửng, điềm đạm, khách quan, vượt qua cái vụn vặt theo lối kể lể để chạm đến một vấn đề khác lớn lao hơn” [8]. Khi đọc tập Heo may gió lộng tác giả Trần Bảo Hưng đã có cảm nhận: “Truyện anh viết thường có lớp lang, thứ tự, ít tiểu xảo mà hấp dẫn, ngòi bút anh tỏ ra khách quan, điềm tĩnh nhưng vẫn thấm đượm tình yêu thương con người, vẫn nhoi nhói nỗi đau trần thế. Không ít truyện của anh mang tính chất luận đề và chất triết lý khá rõ nhưng vẫn nhuyễn, vẫn cuốn hút người đọc vì văn của anh đậm đà, giàu hương vị, những chi tiết đời sống phong phú, tiêu biểu và nhiều thuyết phục”. Đáng chú ý là bài viết của tác giả Nguyễn Thị Huệ - “Đổi mới tư duy nghệ thuật sáng tác của Ma Văn Kháng trong những năm 1980”. Tác giả có những nhận xét xác đáng về tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng. Đó là “Ma Văn Kháng đã nhìn thẳng vào sự thật”, và tiếp cận một hiện thực mới “một hiện thực phong phú nhưng ngổn ngang bề bộn, phải trái trắng đen lẫn lộn, xen cài trong biết bao là biến động”. Đồng thời tác giả nhận thấy, Ma Văn Kháng đã chuyển từ cái nhìn “sử thi” sang cái nhìn “tiểu thuyết” nhằm tiếp cận đời sống ở bình diện sinh hoạt thế sự. Về con người, nhà văn đã chuyển 9 sang quan tâm đến con người cá nhân, đặc biệt chú ý đến nhân vật trí thức. Tác giả cho rằng “trong quan niệm hiện thực về con người, Ma Văn Kháng đã bắt đầu có những thể nghiệm mở ra khả năng khám phá con người ở nhiều chiều, nhiều bình diện xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về con người” và “trong hiện thực về con người, Ma Văn Kháng muốn lưu ý chúng ta mối quan hệ giữa con người với tự nhiên” [16, tr. 54]. Từ đó Nguyễn Thị Huệ đi đến khẳng định: Tư duy nghệ thuật mới của Ma Văn Kháng những năm 80 ở hai bình diện “hiện thực là phức tạp, không thể biết trước; con người vẫn còn nhiều bí ẩn cần phải khám phá kiếm tìm”. Gần đây nhà nghiên cứu Lã Nguyên có tiểu luận “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn” đã có cái nhìn toàn diện, tổng quát về truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Xuất phát từ cảm hứng thẩm mỹ, tác giả chia truyện ngắn Ma Văn Kháng thành 3 nhóm: nhóm thứ nhất “là những truyện ngắn thể hiện cái nhức nhối xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã, mông muội của những kẻ chưa thành người và những kẻ không được làm người”, nhóm này gắn với đề tài miền núi trong sáng tác của nhà văn; nhóm thứ hai là những truyện ngắn cất lên tiếng nói “cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay” – nhóm này gắn với đề tài thành thị; nhóm thứ 3 là nhóm thể hiện “cảm hứng trào lộng nghiêm trang trước vẻ đẹp của cuộc đời sinh hóa hồn nhiên” - nhóm này gắn với đề tài tính dục (Tạp chí văn học số 9/1999). Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra một số đặc điểm của truyện ngắn Ma Văn Kháng: tính công khai bộc lộ chủ đề, sự cố ý tô đậm chân dung, tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt truyện, đưa thành ngữ, tực ngữ vào ngôn ngữ nhân vật… Ngoài ra, còn có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khá dày dặn về truyện ngắn Ma Văn Kháng là: Phạm Mai Anh (ĐHSP Hà Nội 1997): Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau 1980 - Luận văn thạc sĩ. 10 Nguyễn Tiến Lịch (2007) - Thi pháp truyện ngắn Ma Văn Kháng Luận văn thạc sĩ – ĐH KHXH&NV, ĐHQG HN. Hà Thị Thu Hà (2003) - Thi pháp truyện ngắn Ma Văn Kháng sau năm 1980 - Luận văn thạc sĩ ĐHSP Hà Nội. Đào Thị Minh Hường (2010) Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay - Luận văn thạc sĩ. Trần Thị Hương Giang (2011) Truyện ngắn về đề tài miền núi của Ma Văn Kháng - ĐHSP Hà Nội. Nhìn chung, những đánh giá, ghi nhận của các học giả, nhà nghiên cứu và công chúng về tác phẩm cũng như chặng đường sáng tác của Ma Văn Kháng là đồng thuận và thống nhất. Ông được cả bạn đọc chuyên nghiệp và không chuyên đón nhận nhiệt thành cũng như dõi theo từng bước cống hiến cho nghệ thuật của nhà văn. Tuy nhiên, chưa thực sự có một công trình mang tính hệ thống hoặc khảo sát một cách kĩ lưỡng về mảng truyện ngắn, đặc biệt là đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng từ đổi mới đến nay. Phần nhiều các nhà nghiên cứu mới đi vào một khía cạnh hoặc nghiêng về đào sâu vào tiểu thuyết. Vì vậy, luận văn này hy vọng sẽ mang lại một cái nhìn toàn diện sâu sắc hơn về đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ thuật mảng truyện ngắn Ma Văn Kháng từ thời kì đổi mới đến nay. Những ý kiến đánh giá nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê bình đi trước là những gợi ý thiết thực giúp chúng tôi quyết định triển khai đề tài này cho công trình nhỏ của mình. 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu Mục đích khoa học của luận văn là khảo sát, tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ sau đổi mới qua đó góp phần khẳng định chiều sâu tư tưởng, giá trị nhân văn và những đóng góp to lớn của nhà văn Ma Văn Kháng đối với nền Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. 11 Với đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới” chúng tôi chọn khảo sát các tập truyện ngắn sau: - Truyện ngắn Ma Văn Kháng tập 1 (NXB Văn hóa thông tin Hà Nội 2001) - Truyện ngắn Ma Văn Kháng tập 2 (NXB Văn hóa thông tin Hà Nội 2001) - 50 truyện ngắn chọn lọc (NXB Văn hóa Sài Gòn 2006) Ngoài ra để phục vụ cho việc so sánh đối chiếu cũng như thấy được sự kế thừa, phát triển, đổi mới của truyện ngắn Ma Văn Kháng ở giai đoạn sau đổi mới, chúng tôi có tìm hiểu một số truyện ngắn sáng tác trước năm 1986. 4. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ những vấn đề liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi thực hiện một số phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, phương pháp khảo sát thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống… để có cái nhìn tổng quan hơn về đối tượng nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận văn Đây là công trình tập trung nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới một cách toàn diện. Luận văn mong chỉ ra được những phương diện tiêu biểu trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ này từ cách tiếp cận hiện thực đời sống, con người đến những thành công đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật, giọng điệu trần thuật, kết cấu, ngôn ngữ… Từ đó khẳng định những đóng góp của Ma Văn Kháng đối với sự phát triển của VHVN hiện đại. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: 12 Chương 1: Sáng tác của Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam đương đại. Chương 2: Những đặc điểm nội dung trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới. Chương 3: Những đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới. 13 NỘI DUNG Chương 1. Sáng tác của Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn đương đại Việt Nam 1.1. Khái quát chung về truyện ngắn đương đại Việt Nam “Xét đến cùng, bất kỳ nền văn nghệ nào cũng hình thành trên một cơ sở hiện thực nhất định… Bất kỳ tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ những vấn đề trong cuộc sống”. Chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975 đã mở ra một chân trời mới cho đất nước Việt Nam, đặc biệt từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986). Cùng với những chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước, nền văn học Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới ngày càng sâu sắc toàn diện. Người ta nói tới một sự đổi mới mạnh mẽ trong đời sống tư tưởng, trong quan niệm về nghệ thuật và con người cũng như sự đổi mới về thi pháp thể hiện. Đáp ứng yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật, nhiều cây bút đã nhìn lại hiện thực của thời kỳ vừa qua, phơi bày nhiều mặt trái còn bị che khuất, lên án những lực lượng, những tư tưởng và thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trên bước đường phát triển của xã hội. Khuynh hướng này thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của những người cầm bút muốn đưa ra cái nhìn hợp lý, toàn diện hơn khi đánh giá lại những sự kiện, con người của quá khứ, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quan niệm của văn học về cuộc đấu tranh mà dân tộc vừa trải qua. Một khuynh hướng khác khá nổi trội bởi số lượng phong phú và ý nghĩa “quan thiết” của nó là khuynh hướng đời tư, thế sự. Những vấn đề của cuộc sống và con người thời hậu chiến, những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp, những mảnh đời riêng tư, những câu chuyện đời thường, trở thành đối tượng của nghệ thuật. Hiện thực cuộc sống được các nhà văn lật xới từ những số phận cá nhân nhỏ bé đến những vấn đề xã hội rộng lớn mang ý nghĩa nhân sinh của một thời đại… Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, 14 Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban… đều là những cây bút khá tiêu biểu cho khuynh hướng này. Ngoài ra cũng cần thấy văn học sau đổi mới còn xuất hiện khuynh hướng triết luận. Chiêm nghiệm, triết lý đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong sáng tác của các nhà văn và không chỉ ở những nhà văn có nhiều từng trải như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu mà còn ở nhiều cây bút thuộc các thế hệ sau như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… Từ đầu những năm 90 xuất hiện dòng hồi kí – tự truyện, Tô Hoài và Nguyễn Khải đã có những tác phẩm thu hút được nhiều sự quan tâm của công chúng rộng rãi. Gần đây người ta lại chú ý đến loại văn xuôi kỳ ảo, cả truyện ngắn và tiểu thuyết, với những thể nghiệm táo bạo để cách tân thể loại. Có thể kể đến truyện ngắn và tiểu thuyết của một số tác giả như: Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương… Nhìn chung thành tựu nổi bật của văn học thời kỳ đổi mới được kết tinh ở truyện ngắn và tiểu thuyết. Tiếp theo lớp nhà văn thành danh như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng…người ta thấy nổi lên những cây bút mới rất sung sức như: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Lê Minh Khuê…Sáng tác của họ đã góp phần tạo nên diện mạo riêng vừa độc đáo, vừa đa dạng của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. 1.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng 1.2.1. Cuộc đời Ma Văn Kháng sinh ngày 1/12/1936, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, quê gốc phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Ông được đánh giá là một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào công cuộc đổi mới của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. 15 Là chàng trai Hà thành chính hiệu nhưng Ma Văn Kháng có một thời gian khá dài sống ở miền núi Tây Bắc. Ông tham gia quân đội từ khi còn là thiếu sinh quân, sau đó được cử đi học ở khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc, rồi được về làm hiệu trưởng trường cấp 2 thị xã Lào Cai. Được ít năm ông quay trở về học Đại học Sư phạm Hà Nội, ra trường ông tiếp tục xung phong lên dạy học ở thị xã Lào Cai, với cương vị Hiệu trưởng trường cấp 3. Về sau ông chuyển sang làm báo và đã từng là Phó tổng biên tập tờ báo của Đảng bộ tỉnh. Mãi đến năm 1976, Ma Văn Kháng mới chuyển về Hà Nội. Suốt hai mươi năm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc, Ma Văn Kháng am hiểu lối sống, phong tục của đồng bào các dân tộc thiểu số. Bút danh Ma Văn Kháng phần nào nói lên tình yêu mà ông dành cho vùng đất giàu tình nghĩa ấy. Ông luôn tâm nguyện rằng, phải sống chan hòa với đồng bào dân tộc, hãy sống hết mình vì nhân dân trước đã, sau đó mới nói đến chuyện làm cái gì đó hợp với sở trường của mình. Từ sâu trong tâm khảm, nhà văn đã coi Tây Bắc là quê hương thứ hai của mình. Tình yêu, sự gắn bó ấy đã thôi thúc ông viết văn, viết báo. Những trang viết đầu tay của ông toát lên cái nhanh nhạy của một cây bút trẻ, hăm hở vào nghề, tự tin, mạnh mẽ và thiết tha. Truyện ngắn Phố cụt được in báo năm 1961 đã mở đầu nghiệp văn của ông. Từ đó ông hăm hở đến các bản Mường, vạch lau lách mà đi, sắn quần mà lội suối, chống gậy mà leo vách đá… để ghi lại từng chi tiết của cuộc sống, để trải nghiệm mà viết. Cứ thế ông cần cù, bền bỉ, chắt chiu từng giọt tinh túy của cuộc sống rồi bày lên tác phẩm. Ông viết, xuất hiện đều đặn trên các mặt báo và nhanh chóng chiếm được cảm tình của độc giả. Thời gian ngồi trên ghế trường Đại học Sư phạm đã giúp ông thấm thía, nhận ra rằng, chỉ lao vào đời sống “cày sâu cuốc bẫm” nó thôi thì vẫn chưa đủ, khó mà vươn xa được, mà phải học thầy cô, bạn bè, học từ sách vở nữa. 16 Khi kiến văn được mở rộng, vốn sống trực tiếp được bổ sung bằng vốn tri thức, thì tác phẩm sẽ trở nên cứng cáp, có sinh lực dồi dào và bền bỉ, sống mãi với thời gian. Với ông, dường như có sự tương hợp giữa thành nhân và đắc đạo văn chương. Viết, trải nghiệm, đau đớn rồi lại viết. Cứ thế các tác phẩm, những đứa con tinh thần của ông ngày càng lớn lên, đồ sộ, lừng lững đứng chung vào hàng ngũ những tác phẩm của các nhà văn gạo cội của nước nhà. Ông nói: Viết văn thì phải đau mới viết được. Đau thì mới thấy thấm thía, mới bật ra được. Và như vậy tác phẩm mới hay, mới đậm chất nhân văn, chứ cứ nhơn nhơn với những thú vui ngoài xã hội thì lấy đâu ra tác phẩm hay. Và ông đã thực sự đau đớn sau những trải nghiệm trên đường đời, để khi quay lại chốn đô thị phồn hoa, ông đã giúp chúng ta nhận diện chính xác cơn biến động của lịch sử, những gương mặt thị dân, bọn trí thức rởm, bọn hợm hĩnh… Ông đã vẽ lên khá đầy đủ bức tranh của sự biến động xã hội, khi những giá trị truyền thống từng ngày bị phá vỡ bởi sự xô đẩy của tiến trình lịch sử; sự tha hóa của đạo lí nhân sinh; sự giằng xé giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái ti tiện và lòng nhân ái… Đối với Ma Văn Kháng, viết văn trước tiên là câu chuyện về số phận con người, sự đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái đẹp, cái thiện. Thấp thoáng trong các trang sách, người đọc có thể nhìn ra nỗi buồn, nỗi đau đời của riêng ông, nhưng trên tất cả đó là những ưu tư của ông trước nhân tình thế thái. Ông thực sự muốn dùng sức mạnh ngòi bút của mình để mang tới những giá trị nhân văn cho con người, vì con người ở nghĩa rộng lớn nhất. Ông quan niệm vì một điều rất đơn giản: “Con người sống không chỉ là để làm đẹp cho cuộc sống, không chỉ để ra nụ ra hoa mà sống còn là để chịu thương tích nữa – đó là quy luật của xã hội. Sống là đấu tranh, tranh đấu sẽ có thương tích. Tôi không muốn một cái đẹp dễ dãi. Cái đẹp ấy phải mang màu sắc bi tráng. Cái đẹp ấy đều trải qua những mất mát, thiệt thòi, thậm chí hi 17 sinh, bị vùi dập đến mức không còn chỗ đứng. Thế nhưng họ vẫn vươn lên khẳng định nhân cách chính mình. Đó chính là cái đẹp rất cơ bản. 77 tuổi đời sống chung với thuốc và những cơn đau tim, ông không còn khỏe về thể chất, song sức viết sức nghĩ của ông thì có lẽ nhiều người trẻ cũng phải chào thua. Gần đây, khi đã qua tuổi 70, nhà văn Ma Văn Kháng vẫn tiếp tục cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết được viết theo phong cách hoàn toàn mới là Bóng đêm và Bến bờ. Với hai tác phẩm ấy, ông muốn chuyên chở những tâm huyết, những vấn đề của số phận con người, những mặt trái, những dòng chảy đang tiềm ẩn phức tạp đến với bạn đọc. Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân nhận xét: “Có thể nói trong số những cây bút cùng thời với anh, có người đã bỏ nghề, cũng có người viết thưa đi… thế nhưng Ma Văn Kháng vẫn cặm cụi tìm tòi và kiên trì viết đều lên, rất đều đặn. Và thật lạ, những tác phẩm của anh đều gây được chú ý. Thành ra Ma Văn Kháng đã thu được một kết quả khả quan về mặt sáng tác.” Một điều có thể nhận thấy dù cho gắn bó với miền núi hay thành thị thì chính Ma Văn Kháng cũng đang tự trải mình với từng nhân vật, từng câu chuyện, từng hoàn cảnh… làm giàu kho tàng ngôn ngữ của mình và để cho đời nhiều tác phẩm hơn nữa. Và giờ đây, khi đã ở cái tuổi xưa nay hiếm Ma Văn Kháng vẫn dành sự tận tâm, lòng say mê nghệ thuật và đau đáu với nghiệp viết, ông đã và đang tiếp tục có những đóng góp đáng kể cho nền văn học đương đại Việt Nam. 1.2.2. Sự nghiệp Ma Văn Kháng có một sự nghiệp văn chương đồ sộ cả về số lượng tác phẩm và thành tựu: 15 tiểu thuyết, 25 tập truyện ngắn và 1 hồi ký, tính ra ông đã viết hàng vạn trang văn trong đời mình. Hàng vạn trang văn ấy chỉ để giữ lại một điều cuối cùng, là con người hãy đến với nhau bằng sự tử tế, bằng tình yêu vô tư và vô điều kiện. Đó cũng là muốn kết tinh từ những tháng năm vất 18 vả khổ sai với con chữ của nhà văn, mà thực tế trải nghiệm là một minh chứng. Ma Văn Kháng thực sự “sống đã rồi hãy viết” – như tâm nguyện của mình. Rời Hà Nội khi tuổi đời còn rất trẻ, ông đã chọn nghề dậy học ở một vùng đất xa lạ với mình về văn hóa, là Lào Cai. Và rồi với trái tim căng mở của người trí thức, với đôi chân ham đi và cặp mắt không ngừng quan sát, ông đã luôn dành chỗ trong tâm hồn cho những bài ca của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc tổ quốc ngân vang, trở thành chất liệu vàng ròng làm nên những tác phẩm văn học nổi tiếng sau này như: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Một mình một ngựa… Ông là nhà văn tiêu biểu viết về miền núi, không chỉ bởi cái bút danh Ma Văn Kháng, mà còn bởi khi viết về một dân tộc, một vùng đất, ông đã không “viết hộ hay viết thuê, mà viết cho chính mình”. Hơn 20 năm làm nghề dạy học ở miền núi, Ma Văn Kháng thực sự đã chọn con đường khó để đi, vì ông hiểu không có những trả giá thật sự trong đời sống, nhà văn không thể có những trang viết hay. Trên vai người thầy Ma Văn Kháng chưa khi nào chỉ là giáo án dạy học, mà còn là những cuốn sổ ghi chép tỉ mỉ những tư liệu về lịch sử, con người, cuộc sống của một vùng đất, những trăn trở, day dứt về số phận dân tộc, số phận con người. Không chỉ dậy học trò vùng cao con chữ mà Ma Văn Kháng còn tự đào tạo mình một cách nghiệt ngã, để trở thành nhà văn. Có thể khẳng định rằng hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng được đánh dấu từ truyện ngắn Phố cụt in trên Báo Văn nghệ 1961. Tuy nhiên truyện ngắn có tính chất ghi dấu ấn sâu sắc đối với Ma Văn Kháng, theo đó, đã ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định đi theo văn nghiệp của ông sau này lại là Xa phủ (1969). Chính nhà văn bộc bạch: “Xa Phủ, cái mốc son trên con đường đi tới văn chương của tôi! Cảm hứng từ truyện ngắn này được nuôi 19 dưỡng, trở thành xung lực mạnh mẽ khiến tôi viết được cả loạt truyện ngắn tiếp theo với nhân vật, cuộc sống là vùng đồng bào các dân tộc, để năm 1969 tôi được nhà xuất bản văn học in cho tập truyện ngắn đầu tay cũng mang tên Xa phủ” [11, tr. 184]; và liền ngay sau đó ông tiếp tục cho ra đời 4 tập truyện ngắn: Mùa mận hậu (1972); Người con trai họ Hạng (1972); Bài ca trăng sáng (1972); Cái móng ngựa (1974). Năm 1974 Ma Văn Kháng trở thành Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Một năm sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Ma Văn Kháng tạm biệt mảnh đất Lào Cai – miền Tây Bắc của tổ quốc để về chính nơi ông được sinh ra: Hà Nội. Có thể nói 22 năm ấy “biết bao là tình” nhưng cũng còn đó không ít “nhọc nhằn”, “nhớ thương”. Có lẽ, khi đã tạm biệt mảnh đất Tây Bắc rồi, nhìn chặng đường đã qua, để bắt đầu đi tới, Ma Văn Kháng đã không thể dự cảm hết được những khó khăn đang chờ ông trước mắt. Về Hà Nội, có thể là cơ hội to lớn mở ra với bao người, song cuộc đời vốn vẫn muốn thách thức ông, một con người luôn cháy ngời lý tưởng đẹp đẽ. Và tình yêu cuộc sống đến không cùng ông đã phải đối mặt với bao nỗi nhọc nhằn mưu sinh, thế sự dường như là quá sức đối với con người. Nhưng chính những giai đoạn đan kết bao khó khăn khắc nghiệt và đáng nhớ nhất này cộng với khoảng thời gian trên 20 năm sống tại Lao Cai đã thôi thúc mạnh mẽ ngòi bút ông ghi lại: đó là những câu chuyện thấm đẫm chất đời, tình người và dư vang của một thời kỳ lịch sử xã hội còn chưa thoát ra khỏi những nỗi đau, sự nhọc nhằn. Chính nhà văn thừa nhận, đại ý: thời kỳ này dù có quá nhiều khó khăn trong cuộc sống đối với tôi, song nhìn lại, tôi thấy đó là một may mắn. May mắn là ở chỗ , tôi được tôi luyện trong một thời kỳ lịch sử quan trọng – đất nước tiến hành đổi mới – giai đoạn mở ra nhiều vấn đề lớn lao cho người sáng tác khơi dòng, cộng với sự trải nghiệm của 20 năm cầm bút và sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong mỹ cảm của nhà nghệ sỹ, hơn thế, khi ấy cộng với độ chín của tuổi nghề đã giúp tôi có sức bật lớn. Vì 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan