VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH THỊ CHIÊN
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN
CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
HÀ NỘI - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH THỊ CHIÊN
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN
CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN
Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 8.76.01.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân
tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn này là trung thực, khách quan.
Những kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Học viên
Trịnh Thị Chiên
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được đề tài “Công tác xã hội đối với thúc đẩy bình
đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn”, tôi
xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Học viện Khoa học xã hội đã chu
đáo trong quá trình giảng dạy, truyền đạt kiến thức; xin cảm ơn Phòng Đào tạo
và Khoa Công tác xã hội của Học viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận
lợi cho học viên trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập tại Học viện; xin cảm
ơn Lãnh đạo Học viện Dân tộc, nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện về thời
gian để tôi có thể tham gia và hoàn thành khóa học.
Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn
Hữu Minh, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và
hoàn thành luận văn cao học này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Trịnh Thị Chiên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẨNG GIỚI VÀ
CÔNG TÁC XÃ HỘI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN
TỘC THIỂU SỐ.........................................................................................................14
1.1. Một số khái niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số
..........................................................................................................................14
1.2. Lý luận về Công tác xã hội trong lĩnh vực bình đẳng giới.......................18
1.3. Các lý thuyết ứng dụng trong công tác xã hội.......................................... 21
Chương 2: THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI HUYỆN CAO LỘC............................................................................................24
2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu......................................... 24
2.2. Các hoạt động CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới đối với gia đình dân
tộc thiểu số ở huyện Cao Lộc.......................................................................... 45
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới đối với gia đình
DTTS tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn...................................................................... 48
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI
THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC HỘ GIA ĐÌNH DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở HUYỆN CAO LỘC............................................................................52
3.1. Một số vấn đề đặt ra trong thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân
tộc thiểu số huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.................................................... 52
3.2. Giải pháp giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình DTTS
tại huyện Cao Lộc........................................................................................... 55
3.3. Các giải pháp tăng cường công tác xã hội thúc đẩy bình đẳng giới trong
gia đình dân tộc thiểu số huyện Cao lộc.......................................................... 60
KẾT LUẬN............................................................................................................ 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 71
PHỤ LỤC............................................................................................................... 74
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Nội dung
BĐG
Bình đẳng giới
CTXH
Công tác xã hội
DTTS
Dân tộc thiểu số
HĐND
Hội đồng nhân dân
KT-XH
Kinh tế - xã hội
NXB
Nhà xuất bản
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC HỘP, BẢNG BIỂU
Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát chia theo dân tộc và địa bàn cấp xã của
huyện Cao Lộc.......................................................................................12
Bảng 2.1: Tỷ lệ người chủ thực tế trong hộ gia đình chia theo dân tộc ***. . .33
Bảng 2.2: Tỷ lệ người có quyền sở hữu nhà ở, đất ở ghi trong sổ đỏ chia
theo dân tộc***.....................................................................................34
Bảng 2.3: Dự định của cha mẹ đối với bậc học của con cái**........................35
Bảng 2.4: Quan niệm về người thích hợp tạo ra thu nhập của hộ gia đình **...36
Bảng 2.5: Thực tế người làm ra thu nhập chủ yếu của hộ gia đình**.............37
Bảng 2.7: So sánh thu nhập bình quân/tháng giữa vợ và chồng***...............38
Bảng 2.8: Thực tế phân công người quản lý chi tiêu hàng ngày trong
gia đình***............................................................................................39
Bảng 2.9: Thực tế đăng ký kết hôn trước khi cưới ở các dân tộc***..............40
Bảng 2.10: Lý do không đăng ký kết hôn.......................................................41
Bảng 2.11: Thực trạng hành vi bạo lực gia đình trong 12 tháng qua giữa
vợ/ chồng đối với người trả lời..............................................................42
Bảng 2.12: Dân số 2 xã Công Sơn và Gia Cát chia theo dân tộc (2019).........44
Hộp 1: Các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới...............................................32
Hộp 2: Thực hiện bình đẳng giới ở xã Gia Cát...............................................43
Hộp 3: Bình đẳng giới tại huyện Cao Lộc.......................................................49
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của đất nước,
vùng dân tộc thiểu số cũng có sự thay đổi và phát triển lớn. Nhưng nhìn chung so
với vùng nông thôn, đô thị thì vùng dân tộc thiểu số vẫn chậm phát triển. Cuộc
sống của người dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn, nhiều vấn đề xã hội
cần được giải quyết trong đó vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình dân tộc
thiểu số là vấn đề nổi cộm cần được quan tâm.
Việt Nam là quốc gia thứ 6 trên thế giới tham gia Công ước Xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với Phụ nữ (CEDAW) và đã có những nỗ lực đáng kể
để thực hiện cam kết của mình trong công tác thúc đẩy bình đẳng giới. Nhiều văn
bản luật pháp và chính sách liên quan đến bình đẳng giới đã được ra đời như
Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Chăm sóc và bảo
vệ trẻ em, Luật Người cao tuổi….
Luật Bình đẳng giới ra đời năm 2006 là một trong những cơ sở luật pháp
quan trọng để thực hiện bình đẳng giới ở nước ta. Điều 7 của Luật quy định rõ,
chính sách nhà nước về bình đẳng giới cần phải đảm bảo bình đẳng giới trong
mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều
kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá
trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển; hỗ trợ hoạt động bình
đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS và vùng có điều kiện KTXH đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển
giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn
mức trung bình của cả nước. Bình đẳng giới cần được quan tâm trong tất cả các
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, văn hóa, y tế và bình
đẳng giới trong gia đình.
Triển khai các hoạt động nhằm thúc đẩy toàn xã hội thay đổi hành vi thực
hiện bình đẳng giới, mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
1
giai đoạn 2011 - 2020 xác định phải tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn
xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giới và nâng vị thế của phụ nữ trong một
số lĩnh vực còn bất bình đẳng hoặc nguy cơ bất bình đẳng giới cao. Nghị định số
48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo
đảm bình đẳng giới. Tại điều 14 quy định các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới,
chính sách hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số nhằm đạt tới sự bảo đảm bình đẳng giới thực chất trên các
phương diện tham gia, thụ hưởng trong các lĩnh vực xã hội của phụ nữ và trong
gia đình.
Với những nỗ lực lớn của Chính phủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế và
phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, những văn bản luật pháp, chính
sách về bình đẳng giới đã ra đời khá đồng bộ và căn bản. Tuy nhiên, trên thực tế,
các kết quả của nỗ lực hỗ trợ bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và vùng dân
tộc thiểu số chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình hội nhập. Đánh giá 10
năm thi hành Luật Bình đẳng giới của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho
thấy, tiến bộ về bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn chậm chạp, thậm chí còn thụt
lùi ở một số lĩnh vực, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi; tình trạng
bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái đang là vấn đề nhức nhối của xã hội; định
kiến về vai trò của nam và nữ trong gia đình và xã hội tạo gánh nặng cho cả phụ
nữ và nam giới; tâm lý ưa thích con trai dẫn đến tình trạng gia tăng tỷ lệ mất cân
bằng giới tính khi sinh và tình trạng nạo phá thai lựa chọn giới tính (Bộ
LĐ,TB&XH, 2019)..
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW dưới góc độ
bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ cho thấy, khoảng cách giới trong các
nhóm DTTS và giữa các nhóm DTTS với dân tộc Kinh còn lớn và tồn tại dai
dẳng ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống KT-XH, nhất là trong đời sống gia
đình. Bạo lực trong gia đình DTTS diễn ra khá phổ biến, đặc biệt ở những dân
tộc phụ hệ. Có tới 58,6% phụ nữ DTTS từ 15-49 tuổi tin rằng chồng có quyền
đánh vợ vì bất kỳ lý do gì như: vợ ra ngoài mà không xin phép, vợ bỏ bê con cái,
vợ cãi lại chồng, vợ từ chối quan hệ tình dục..., trong khi tỷ lệ này ở người Kinh,
Hoa chỉ khoảng 28%. Phụ nữ DTTS không có nhiều cơ hội ra quyết định và
tham gia vào quá trình ra quyết định. Định kiến về vai trò giới khiến họ khó có
thể phát huy được năng lực nội tại và tính tự quyết của mình trong hộ gia đình
và cộng đồng (Đảng đoàn Hội LHPNVN, 2019).
Có thể thấy, mặc dù đã có sự nỗ lực trong nhiều năm qua của Chính phủ,
mục tiêu bình đẳng giới ở vùng DTTS hiện nay vẫn còn rất nhiều thách thức.
Nhiều trở ngại đối với phụ nữ DTTS trong tiếp cận tham gia chính trị, phát triển
kinh tế hộ gia đình, nhiều trở ngại trong phong tục tập quán liên quan đến tình
trạng mù chữ, nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết cao; nhiều phụ nữ DTTS chưa
được tiếp cận một cách đầy đủ với các dịch vụ y tế hiện đại. Chính vì vậy, trên
thực tế đang diễn ra những bất bình đẳng về cơ hội và thụ hưởng các chính sách
xã hội, đặc biệt là đối với phụ nữ DTTS.
Huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn là một trong những huyện thuộc vùng dân
tộc thiểu số có nhiều xã, thôn đặc biệt khó khăn với dân số phần lớn là người
DTTS. Trong gia đình của một số DTTS tại huyện Cao Lộc vẫn còn nhiều yếu tố
cản trở bình đẳng giới. Nhiều tập tục văn hóa, thói quen, định kiến xã hội đang là
ràng buộc ngăn cản sự phát triển cho phụ nữ...
Để thúc đẩy bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số nói chung, bình đẳng
giới trong gia đình DTTS ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn nói riêng cần có sự
quan tâm vào cuộc của các cấp, các ngành với nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó
không thể thiếu vai trò của CTXH. Công tác xã hội có chức năng phòng ngừa
những vấn đề xã hội của cộng đồng, gia đình hay cá nhân; chức năng can thiệp
nhằm trợ giúp cộng đồng, gia đình, cá nhân giải quyết vấn đề đang gặp phải;
chức năng phục hồi đó là giúp cộng đồng, gia đình, cá nhân khôi phục lại chức
năng xã hội đã bị suy giảm trở lại mức ban đầu và hòa nhập cuộc sống xã hội;
chức năng phát triển nhằm tăng năng lực, tăng khả năng
ứng phó với các tình huống có vấn đề của cộng đồng, gia đình, cá nhân. Hiện nay
phụ nữ đang phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới, đối với phụ nữ DTTS họ
chịu bất bình đẳng kép cả về dân tộc và về giới, họ đang phải đối mặt với với rất
nhiều phân biệt đối xử, là đối tượng yếu thế hơn trong gia đình, cộng đồng và xã
hội, họ chính là đối tượng trợ giúp của CTXH; Tuy nhiên vai trò của CTXH
trong hỗ trợ phụ nữ DTTS có hoàn cảnh đặc biệt còn rất mờ nhạt, chủ yếu lồng
ghép trong một số hoạt động của các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, đoàn
thanh niên…. Chính vì vậy, việc lựa chọn vấn đề “Công tác xã hội đối với thúc
đẩy bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số tại huyện Cao Lộc, tỉnh
Lạng Sơn” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Công tác xã hội sẽ có ý
nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ
góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong các gia đình dân tộc thiểu số, đem lại
công bằng, bình đẳng và khẳng định vị thế, vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số
trong gia đình và xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu về bình đẳng giới và bình đẳng giới ở vùng dân
tộc thiểu số
Thúc đẩy bình đẳng giới trên cả nước nói chung và bình đẳng giới trong
các gia đình DTTS nói riêng đang là một vấn đề vừa cấp bách, vừa mang tính lâu
dài. Trong những năm gần đây, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các
học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
tới vấn đề bình đẳng giới ở vùng DTTS, có thể thấy như:
Sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam, nhất là trong
hệ thống chính trị các cấp đã có những thay đổi nhất định trong những năm qua,
tuy nhiên tỷ lệ nữ tham gia chính trị ở các cấp không cao và chưa đạt được chỉ
tiêu đề ra. Đặc biệt, phụ nữ DTTS vẫn chiếm một tỷ lệ rất thấp trong các cấp
quản lý và đang bị tụt hậu về cơ hội, khả năng tiếp cận và thụ hưởng các quyền
của họ (UN Women, 2015).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào đội ngũ cán bộ của
hệ thống chính trị các cấp, nhất là cấp xã, cấp huyện còn rất hạn chế do họ gặp rất
nhiều trở ngại từ trình độ học vấn, nhận thức và các rào cản văn hoá. Một số nghiên
cứu cho rằng, gần 30 DTTS không có đại diện là nữ trong hệ thống cơ quan quản
lý Nhà nước về công tác dân tộc, ví dụ như dân tộc Mảng, La Hủ, Cống, Cờ lao,
La Ha, Pà Thẻn, Lự, Chứt, SiLa, Brâu, Rơ măm…. (UN Women, 2015; Nguyễn
Thị Hà, 2014). Một số nguyên nhân khiến phụ nữ bị hạn chế cơ hội thăng tiến
hơn so với nam được nêu lên là do trình độ chuyên môn/kỹ năng thấp hơn so với
nam giới (Lê Thị Kim Lan, 2012; Ngân hàng Thế giới, 2011; PyD, 2011); phụ
nữ gặp nhiều rào cản khi được đề cử tham gia đào tạo/tập huấn hơn nam giới như
bị định kiến về tính cách “thiếu quyết đoán, an phận, chưa tự tin, ham muốn
quyền lực kém hơn nam giới” và đặc điểm này thể hiện rõ ở nhóm phụ nữ nông
thôn, dân tộc thiểu số (Nguyễn Thanh Lân, 2014; Trần Thị Minh Đức, 2012).
Mặt khác, một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra những hạn chế trong các văn
bản pháp luật và chính sách liên quan đến hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới ở vùng
DTTS. Nghiên cứu về phát triển nguồn lực DTTS đến năm 2020 của Uỷ ban Dân
tộc cũng đã chỉ rõ, số lượng, cơ cấu và phân bổ nguồn lực DTTS còn nhiều bất
cập. Thể lực và trí lực của người DTTS đang có khoảng cách thấp hơn rất nhiều
so với mặt bằng chung của cả nước. Điều này thể hiện rõ chính sách đối với vùng
DTTS đang có những khoảng trống, chưa có những chỉ tiêu cụ thể cho từng mục
tiêu phát triển đối với vùng DTTS. Những nút thắt về cơ chế và chính sách để có
thể can thiệp và thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ ở vùng DTTS, trong đó có
mục tiêu về tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ DTTS
(Ngô Văn Hải, 2014, Nguyễn Cao Thịnh và cộng sự, 2015).
Dưới góc độ giáo dục, phụ nữ DTTS thuộc gia đình nghèo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn gặp nhiều trở ngại trong tiếp cận giáo dục.
Phụ nữ và trẻ em gái vẫn chiếm số đông trong số người ở độ tuổi từ 15 đến 40
trong dân số không biết đọc, biết viết (Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 2013). Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, chỉ số bình đẳng giới (tỷ lệ đi học đúng tuổi đã điều chỉnh của nữ/ tỷ lệ đi học đúng tuổi - đã điều chỉnh của nam) của nhóm
dân tộc thiểu số đã có chuyển biến từ hướng có nhiều trẻ em trai hơn ở cấp trung
học sang hướng có nhiều em gái hơn ở cấp trung học. Xu hướng tỷ lệ đi học của
trẻ em gái luôn cao hơn so với trẻ em trai ở tất cả các dân tộc, trừ dân tộc Mông
(UN Women và Ủy ban Dân tộc, 2015). Tuy nhiên, so sánh với trình độ học vấn
của phụ nữ người Kinh thì rõ ràng, trình độ học vấn của phụ nữ DTTS luôn thấp
hơn so với nhóm dân tộc Kinh. Có 20% số phụ nữ dân tộc Kinh cho biết trình độ
giáo dục của họ dưới mức tiểu học, trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ DTTS dao động
từ 41,9% đến 75% (41,9% ở phụ nữ dân tộc theo dòng phụ hệ, 58,9% ở phụ nữ
dân tộc theo dòng mẫu hệ và 75% ở các nhóm song hệ), cao hơn 2-3 lần so với
phụ nữ dân tộc Kinh. Năm 2014, tỷ lệ đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của
lao động nữ DTTS chỉ là 7,2% so với lao động nữ Kinh-Hoa là 17,6%. Trình độ
của phụ nữ Hmông thấp nhất trong các DTTS, chỉ có 1,4% đã qua đào tạo
chuyên môn kỹ thuật (trích lại từ UNWomen và Ủy ban Dân tộc, 2015).
Về tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe, một số nghiên cứu đã cho
thấy, sự chênh lệch giữa tỷ lệ khám thai ít nhất 4 lần của nhóm phụ nữ dân tộc
Kinh và DTTS năm 2014 là 49,4 điểm phần trăm, cao hơn so với sự chênh lệch
giữa hai nhóm dân tộc năm 2010. Ngoài các yếu tố hạn chế hơn về trình độ học
vấn, mức sống, cơ hội tiếp cận với các dịch vụ y tế, tâm lý xấu hổ, những khó
khăn trong sử dụng tiếng Kinh cũng là yếu tố khiến phụ nữ DTTS ngại đi khám
thai (UNFPA, 2008). Sinh đẻ ở nhà vẫn được một số nhóm phụ nữ DTTS lựa
chọn với 30,7% phụ nữ DTTS sinh con ở nhà so với 0.5% phụ nữ dân tộc Kinh
(Tổng cục Thống kê, 2015). Theo số liệu khảo sát
của Ủy ban Dân tộc năm 2016, tỷ lệ cán bộ, nhân viên y tế là nữ người DTTS
chiếm 30,4% tổng số cán bộ, nhân viên y tế ở các vùng dân tộc và miền núi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ DTTS có nhiều thiệt thòi và trở ngại
trong việc mua bảo hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản, và tiếp cận
dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh và cộng sự tại 5
tỉnh Tây Nguyên năm 2014 cho biết ngay cả khi các chính sách bình đẳng giới
và đầu tư phát triển cho đồng bào người dân tộc được chú trọng, nhưng nguy cơ
người phụ nữ DTTS vẫn bị loại trừ xã hội là rất lớn (Đặng Nguyên Anh và cộng
sự, 2015). Đánh giá về các chính sách thúc đẩy bình đẳng giới vùng DTTS, có ý
kiến cho rằng các chương trình can thiệp hỗ trợ phụ nữ tại vùng sâu, vùng xa
cũng được quan tâm và ban hành đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Tuy nhiên,
một số thách thức được đề cập đến trong quá trình thực hiện các nội dung về
bình đẳng giới là sự tồn tại dai dẳng của những hủ tục lạc hậu, khả năng tiếp cận
với các phương tiện thông tin đại chúng còn hạn chế, kinh tế phát triển chậm…
đặc biệt việc thiếu cán bộ có trình độ, năng lực đáp ứng nhu cầu đã và đang là
một rào cản lớn cho tiến trình bình đẳng giới nói riêng và phát triển KT-XH nói
chung tại vùng sâu, vùng xa (Phạm Ngọc Tiến, 2015).
Xét trên các chiều cạnh giới, sự tách biệt xã hội về chăm sóc sức khỏe ở
Việt Nam thể hiện rõ xu hướng phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ DTTS luôn bị thiệt
thòi trong chăm sóc sức khỏe. Mức độ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng DTTS vẫn còn hạn chế và mức giảm tỷ
suất chết mẹ ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số trong 10 năm qua còn
chậm. Phụ nữ trẻ dân tộc thiểu số và phụ nữ di cư gặp nhiều khó khăn trong việc
tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, bao gồm cả dịch vụ kế
hoạch hóa gia đình (UNFPA, 2017). Nhận thức của trẻ em gái dân tộc thiểu số về
sức khỏe sinh sản và tình dục cũng như thực hành vệ sinh còn rất hạn chế, đặc
biệt những em sống ở các trường nội trú. Vấn đề đặt
ra là phải có một đánh giá tổng hợp về vấn đề này, tìm ra các giải pháp có tính
khả thi để giải quyết vấn đề bình đẳng giới hiện nay ở vùng DTTS.
Trong lĩnh vực lao động việc làm, một số nghiên cứu đã có những đánh
giá khá cụ thể về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn,
chính sách dạy nghề đối với học sinh DTTS, nội trú và chính sách dạy nghề cho
người tàn tật. Kết quả cho thấy, người nghèo và phụ nữ ở vùng sâu vùng xa,
vùng DTTS khó có thể theo học được các khóa dạy nghề theo cơ chế hiện hành,
vì khi tham gia khóa học họ phải bỏ công việc gia đình, làm ảnh hưởng tới nguồn
thu nhập của gia đình. Một số ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với thực tiễn thị
trường lao động ở địa phương. Ngoài ra, vốn hỗ trợ cho chị em phụ nữ làm kinh
tế từ chương trình MTQG giảm nghèo còn rất hạn chế so với nhu cầu vốn vay.
Danh mục nghề đào tạo của quốc gia và nghề đào tạo của các cơ sở dạy nghề còn
ít và chưa có nhiều nghề “hấp dẫn” với lao động nữ, trong khi đó; phương pháp
đào tạo, hình thức tổ chức các khoá học nghề chưa “nhạy cảm giới”, chưa quan
tâm đến nhu cầu thực tế của các nhóm lao động nữ nghèo, nông thôn, DTTS
(trích lại từ Ủy ban dân tộc, UN Women, 2015).
Các chính sách hướng tới giảm thiểu bất bình đẳng giới nói chung và bất
bình đẳng giới đối với các nhóm tách biệt xã hội, cần mang tính toàn diện và
đảm bảo những người thuộc nhóm yếu thế phải được hòa nhập và tiếp cận một
cách bình đẳng đối với các cơ hội và thành quả của sự phát triển. Theo Sacaceno
(2001), các chính sách cần phải đảm bảo cả phụ nữ và nam giới thuộc các nhóm
xã hội khác nhau phải được tiếp cận bình đẳng về thị trường lao động, về giáo
dục, về chăm sóc sức khỏe, về hệ thống tư pháp và các quyền liên quan tới việc
ra quyết định và sự tham gia xã hội (Dẫn theo Johoel-Gijsbers, 2007).
Dưới góc độ văn hóa tộc người, một số nghiên cứu cụ thể đã có những
phân tích khá rõ nét về vai trò giới trong gia đình một số tộc người miền núi
phía Bắc (Đỗ Thị Bình, 2001), vị thế của người phụ nữ Hmông trong gia đình và
xã hội (Đặng Thị Hoa, 2001), thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở một số
tộc người như Ê đê (Nguyễn Minh Tuấn, 2012). Đáng chú ý là một nghiên cứu
đánh giá khá chi tiết và sâu sắc về hiện trạng bất bình đẳng giới trong cộng đồng
DTTS do tổ chức Isee, Oxfarm và ActionAid thực hiện năm 2010. Nghiên cứu
này đã chỉ rõ những bất bình đẳng trong phân công lao động, việc làm, giáo dục,
y tế và vị thế của người phụ nữ dân tộc Gia rai và Chăm ở tỉnh Gia Lai và An
Giang.
Đáng chú ý là nghiên cứu của Vũ Hồng Anh (2010) “Báo cáo hiện
trạng bất bình đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số”, đã đánh
giá vai trò, vị trí và tiếng nói của nam và nữ giới DTTS do ảnh hưởng của các
thể chế khác nhau. Nghiên cứu về “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc
thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay” của Nguyễn Lệ Thu (2012) đã
làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với vấn đề bình đẳng giới trong gia
đình DTTS ở vùng Đông Bắc nước ta, đồng thời đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm khắc phục sự bất bình đẳng về giới, nâng cao vị thế người phụ nữ
trong gia đình, góp phần xây dựng gia đình văn hóa và phát triển KT-XH.
Luận văn thạc sĩ Xã hội học về “Thực hiện bình đẳng giới ở các tỉnh miền núi
nước ta hiện nay”, khảo sát tại Yên Bái và Hà Giang; Luận án tiến sĩ Triết
học về “Quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt
Nam hiện nay” (Nguyễn Thị Hà, 2012), v.v. Các nghiên cứu này đã đề cập
trực tiếp đến vấn đề bình đẳng giới ở vùng DTTS dưới các góc độ triết học,
tâm lý học hay xã hội học.
2.2. Tình hình nghiên cứu về bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số từ góc
độ công tác xã hội
Dưới góc độ công tác xã hội, một số nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu về
vai trò của nhân viên CTXH ở vùng DTTS. Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội đã ban hành cuốn tài liệu về CTXH với các DTTS năm 2017, bộ tài
liệu dùng cho cán bộ cấp xã với các nội dung hướng dẫn về đặc trưng văn hóa
tộc người, vấn đề nghèo đói, vấn đề văn hóa và lối sống, chăm sóc sức khỏe,…
cho người DTTS. Đây là bộ tài liệu cẩm nang rất hữu ích đối với cán bộ làm
CTXH ở vùng DTTS. Cũng trong chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho đồng bào
DTTS, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức hội thảo về CTXH trong
phát triển nông thôn - miền núi ở Việt Nam năm 2016. Tại Hội thảo, các nhà
nghiên cứu, hoạch định chính sách đã phân tích và làm rõ vai trò của CTXH đối
với người nghèo DTTS là giúp họ học cách đáp ứng và tiếp cận với nhu cầu phát
triển, từ đó vươn lên giảm nghèo.
Một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu trực tiếp về CTXH đối với
DTTS. Ngô Tấn Khoa đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ tại Học viện
Khoa học xã hội với đề tài “Công tác xã hội đối với người nghèo dân tộc
thiểu số từ thực tiễn huyện Đắk Hà, tỉnh Kon Tum”. Tác giả Lê Kim Thắng đã
hoàn thành luận văn về “Công tác xã hội với vấn đề giảm nghèo ở người dân
tộc thiểu số tại xã Ianan, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai”.
Ngoài ra, đã có nhiều khá nhiều luận văn nghiên cứu về nghề CTXH, trong
đó ít nhiều có đề cập đến CTXH ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số
và miền núi.
Như vậy, từ tổng quan tài liệu cho thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu,
phân tích về tình trạng bất bình đẳng giới đang diễn ra ở vùng DTTS sâu sắc hơn
bình diện chung của cả nước đặc biệt ở một số lĩnh vực cơ bản như việc làm,
giáo dục, y tế, đời sống gia đình,… Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu
nào tiếp cận từ góc độ CTXH thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình DTTS ở
huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vì vậy, nghiên cứu này vừa có tính kế thừa, vừa
có tính mới và không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới tại các gia đình
DTTS ở huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, từ đó đề xuất các giải pháp và khuyến
nghị nhằm tăng cường hoạt động CTXH thúc đẩy bình đẳng giới
trong gia đình DTTS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Thứ nhất, hệ thống hóa lý luận CTXH về bình đẳng giới.
- Thứ hai, mô tả, đánh giá thực trạng CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới
tại các gia đình DTTS ở một số xã huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
- Thứ ba, đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường hoạt động
CTXH nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong các hộ gia đình DTTS ở một số xã
tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động CTXH ở vùng DTTS về
bình đẳng giới.
Khách thể khảo sát bao gồm: Cán bộ ban ngành huyện Cao Lộc, cán bộ
chủ chốt cấp xã, cán bộ làm công tác xã hội hoặc quản lý nhà nước về công tác
dân tộc; chủ hộ, thành viên các hộ gia đình DTTS tại một số xã thuộc huyện Cao
Lộc.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về không gian: Tại hai xã Gia Cát và Công Sơn của huyện
Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu các vấn đề từ năm 2017 đến nay
- Phạm vi nội dung: CTXH trong thúc đẩy bình đẳng giới trong quan hệ
gia đình dân tộc thiểu số
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, về công tác dân
tộc và chính sách dân tộc, về đảm bảo bình đẳng giới và chính sách thúc đẩy
bình đẳng giới đối với đồng bào DTTS ở Việt Nam đã được thể hiện tại
Quyết định số 1898/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án “Hỗ
trợ hoạt động bình đẳng giới vùng DTTS giai đoạn 2018-2025” với mục tiêu
tổng quát là “Tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hiện bình đẳng giới và nâng
cao vị thế của phụ nữ ở vùng DTTS, góp phần thúc đẩy thực hiện thành công các
mục tiêu của Chiến lược quốc gia bình đẳng giới”.
5.2.Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập dữ liệu, thông tin:
Phỏng vấn trực tiếp, thảo luận nhóm; Thu thập phân tích tài liệu, văn bản,
các công trình đã công bố về bình đẳng giới ở vùng DTTS.
Luận văn đã sử dụng phần số liệu khảo sát tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn
của đề tài cấp quốc gia: “Một số vấn đề cơ bản về bình đẳng giới ở vùng dân tộc
thiểu số nước ta”, mã số: CTDT.21.17/16-20 (2017-2020) với sự đồng ý của GS.
Nguyễn Hữu Minh, chủ nhiệm đề tài. Với bộ phiếu hỏi hộ gia đình, luận văn đã
phân tích 521 phiếu điều tra để làm rõ những mối liên hệ giữa các yếu tố như dân
tộc, giới tính, tuổi, thu nhập,… với quyền ra quyết định trong gia đình, quyền sở hữu
nhà đất, tài sản, phân công lao động, bạo lực gia đình...
Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát chia theo dân tộc và địa bàn cấp xã
của huyện Cao Lộc
Dân tộc
Tày
Dao
Nùng
Tổng cộng
Số lượng/tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Xã
Công Sơn
0
0,0
200
100,0
0
0,0
200
38,4
Gia Cát
150
100,0
0
0,0
171
100,0
321
61,6
Tổng cộng
150
100,0
200
100,0
171
100,0
521
100,0
Về đặc điểm giới tính, trong tổng số mẫu 521 người được khảo sát, có 285
nam giới (chiếm 54,7%) và 236 nữ giới (chiếm 45,3%). Như vậy có thể đảm bảo
được sự cân bằng giới tính trong tổng số mẫu khảo sát.
- Phương pháp xử lý số liệu thống kê có sẵn: Dựa trên nguồn số liệu có
sẵn từ các cuộc điều tra, nghiên cứu về dân tộc, về bình đẳng giới.
- Phương pháp định tính: Phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm với cán bộ
quản lý nhà nước cấp xã, chủ tịch hội phụ nữ và một số hội trưởng hội phụ nữ
xã các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới trong gia đình, qua đợt khảo sát
thực tế tại huyện Cao Lộc của tác giả trong thời gian thực địa từ ngày 6/11
đến ngày 14 tháng 11 năm 2019 .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về lý luận:
Đề tài sẽ góp phần quan trọng trong việc bổ sung, củng cố cơ sở lý luận và
thực tiễn về bình đẳng giới và vai trò của CTXH đối với bình đẳng giới trong
DTTS.
* Về thực tiễn:
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hạn chế tình trạng bất bình
đẳng giới trong các hộ gia đình DTTS huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn từ góc
nhìn của CTXH.
- Là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu có liên quan, phục
vụ nghiên cứu, giảng dạy tại Ủy ban Dân tộc, Học viện Dân tộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về bình đẳng giới và công tác xã hội
thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình Dân tộc thiểu số;
Chương 2: Thực trạng bình đẳng giới và công tác xã hội đối với thúc đẩy
bình đẳng giới trong gia đình Dân tộc thiểu số huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn:
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động Công tác xã hội thúc đẩy bình
đẳng giới trong các hộ gia đình Dân tộc thiểu số ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn.
- Xem thêm -