Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn cái tôi tác giả trong nhật ký đặng thùy trâm và mãi mãi tuổi 20 của ngu...

Tài liệu Luận văn cái tôi tác giả trong nhật ký đặng thùy trâm và mãi mãi tuổi 20 của nguyễn văn thạc

.PDF
95
105
114

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ HOA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI 20 CỦA NGUYỄN VĂN THẠC LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Giáo sƣ Phong Lê Thái Nguyên – 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: Cái tôi tác giả trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hoa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn : - Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại họctrƣờng Đại học Sƣ Phạm - Đại học Thái Nguyên. - Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, trƣờng Đại học Sƣ phạm I Hà Nội,trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, trƣờng Đại học Sƣ Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Giáo sƣ Phong Lê, ngƣời đã động viên, chỉ bảo và giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hoa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………………….. i LỜI CẢM ƠN …………………………………………………………………ii MỤC LỤC……………………………………………………………………..iii PHẦN 1 .........................................................................................................................1 MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề.............................................................................................. 5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................... 8 3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 8 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 8 4.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 8 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 9 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 9 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 9 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 10 PHẦN 2: NỘI DUNG ............................................................................................... 11 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN. KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ VÀ LƢỢC KỂ VỀ HÀNH TRÌNH CỦA HAI CUỐN NHẬT KÝ TRONG HƠN 30 NĂM 11 1.1. Tác giả và cái tôi tác giả trong văn học .................................................. 11 1.1.1 Tác giả văn học ..................................................................................... 11 1.1.2. Cái tôi tác giả trong văn học ................................................................ 12 1.2. Giá trị văn học của hai cuốn nhật ký ...................................................... 16 1.3. Khái quát về hai tác giả, lƣợc kể hành trình hai cuốn nhật ký trong hơn 30 năm ........................................................................................................... 18 1.3.1. Khái quát về hai tác giả ....................................................................... 18 1.3.2. Lƣợc kể về hành trình hai cuốn nhật ký .............................................. 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iv CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC ... 27 2.1. Cái nhìn yêu đời, lạc quan ...................................................................... 27 2.2. Niềm khao khát lý tƣởng, ƣớc mơ thực hiện lý tƣởng và sự suy tƣ về đất nƣớc và con ngƣời ......................................................................................... 37 2.3. Những suy tƣ trăn trở đời thƣờng ........................................................... 48 2.4. Bức chân dung tinh thần trung thực và toàn diện về một thế hệ trẻ của Việt Nam trong chiến tranh ........................................................................... 53 CHƢƠNG 3: BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC ... 59 3.1. Nhân vật .................................................................................................. 59 3.1.1. Một nữ trí thức tiêu biểu trong tƣ duy và hành động .......................... 60 3.1.2. Một thanh niên khao khát lý tƣởng và có hoài bão văn chƣơng ......... 63 3.2. Giọng điệu .............................................................................................. 66 3.2.1. Giọng thƣơng cảm ............................................................................... 67 3.2.2. Giọng thức tỉnh .................................................................................... 69 3.2.3. Giọng triết lý ........................................................................................ 72 3.2.4. Giọng trữ tình ...................................................................................... 78 3.2.5. Giọng trăng trối ................................................................................... 81 KẾT LUẬN................................................................................................................ 84 THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ v PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Năm 2015 là một năm đặc biệt, kỷ niệm 40 năm đại thắng mùa xuân 1975. Chúng ta vẫn luôn tự hào khi nhắc đến ngày độc lập,nhắc đến chiến thắng kẻ thù hung hãn đế quốc Mỹ. Chiến tranh đã lùi vào quá vãng mấy chục năm nay nhƣng sức hủy diệt, tàn phá cũng nhƣ ấn tƣợng khủng khiếp mà nó gây ra vẫn còn đọng mãi. Nhắc đến mùa xuân năm 1975 là nhắc đến thắng lợi vẻ vang của dân tộc nhƣng đằng sau những vinh quang, thắng lợi ấy chúng ta đã phải trả một giá rất đắt đó là sự hi sinh của một thế hệ những ngƣời con ƣu tú của dân tộc. Họ đã ra đi “không tiếc đời mình” để chiến đấubảo vệ Tổ quốc. Đƣợc sống trong hòa bình, độc lập, đƣợc kế thừa thành quả mà các thế hệ trƣớc để lại, chúng ta hãy nhớđến sự hi sinh lớn lao đó của những ngƣời anh hùng dân tộc đã ngã xuống cho chúng ta có cuộc sống nhƣ ngày hôm nay. Nhƣ một sự biết ơn sâu sắc góp phần vào việc tƣởng nhớ đến những ngƣời anh hùng ấy nhân dịp kỷ niệm 40 năm đại thắng mùa xuân năm 1975 chúng tôi chọn tiếp cận những trang nhật ký viết trong chiến tranh của những ngƣời lính đã từng tham gia trên chiến trƣờng những ngày ác liệt đó làNhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc. 1.2. Hai cuốn nhật ký đều ghi lại tƣơng đối rõ nét cuộc sống, con ngƣời trong một giai đoạn lịch sử, giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc chiến đấu từ góc nhìn của những ngƣời trẻ tuổi trong năm tháng chiến tranh đang diễn ra hết sức ác liệt. Những giá trị tinh thần, vẻ đẹp tâm hồn tƣởng chừng nhƣ đã bị nhạt nhòa trong nhịp sống hối hả của con ngƣời hiện đại ngày nay, nhƣng dƣờng nhƣ nó vẫn luôn tồn tại, và đƣợc xã hội tôn vinh nhiều đến nhƣ thế. Mãi mãi tuổi 20 và Nhật ký Đặng Thùy Trâm không chỉ cuốn hút những thế hệ từng mặc áo lính, cấm súng ra mặt trận để chiến đấu và bảo vệ tổ quốc mà nó còn thu hút 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ rất nhiều những ngƣời trẻ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, chƣa từng nếm trải trận mạc, máu và lửa, mất mát và hi sinh. Lý giải cho sức lan truyền kỳ diệu và mạnh mẽ của những cuốn sách không gì khác đó là sự chân thật tự nhiên nhƣ cuộc sống vốn có, sự chân thật vốn có đó đã đƣợc thể hiện thành công trong những trang viết đầy chất lý tƣởng và tình ngƣời. 1.3.Thêm vào đó, có thể thấy rằng, từ đầu thế kỷ XX đến nay văn học Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng theo hƣớng đa dạng hóa. Thể ký nhờ đó mà cũng dần không còn xa lạ với bạn đọc. Trong dòng chảy văn học ấy, với thể loại ký, đặc biệt là nhật ký trong và sau chiến tranh, chúng tôi đặc biệt chú ý đến hai cuốn nhật ký, đó là Nhật ký Đặng Thùy Trâm của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Hai cuốn nhật ký đều đƣợc viết bởi những ngƣời lính tham gia trong chiến tranh những năm chống Mỹ ác liệt. Mặc dù đƣợc viết trong chiến tranh, phản ánh chân thực về chiến tranh chống Mỹ nhƣng nó không xuất hiện ngay trong thời điểm đó mà lại trải qua hành trình hơn 30 năm sau khi chiến tranh kết thúc mới xuất hiện và trở thành một hiện tƣợng đặc biệt. Nhật ký Đặng Thùy Trâm (NXB Hội nhà văn, 2005) là cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đƣợc chị viết trong 3 năm (từ 8/4/1968 đến 20/6/1970). Cuốn nhật ký đã theo chị khắp những năm tháng mƣa bom lửa đạn ấy, ngay cả trong phút giây cuối cùng của cuộc đời mình trên chiến trƣờng Đức Phổ - Quảng Ngãi năm 1970. Cuốn nhật ký này đã đƣợc một sĩ quan quân báo của Mỹ tên là Frederic Whitehurst (thƣờng gọi là Fred) trân trọng lƣu giữ suốt 35 năm tại gia đình trƣớc khi công bố tại hội thảo thƣờng niên về chiến tranh Việt Nam đƣợc tổ chức tại trung tâm Việt Nam của trƣờng đại học Texas vào trung tuần tháng 3 năm 2005. Thực chất Fred và anh trai của mình Robert Whitehurst mong muốn thông qua cuộc hội thảo này để tìm đƣợc gia đình bác sĩ Đặng Thùy Trâm để trao lại cuốn nhật ký cho gia đình chị. Vì nghĩ không còn hi vọng tìm đƣợc gia đình bác sĩ Đặng Thùy Trâm nên hai anh em Fred đã 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ trao lại cuốn nhật ký cho viện lƣu trữ Việt Nam Lubbock của trƣờng đại học Texas để giữ gìn. Nhƣng những nỗ lực tìm kiếm của hai anh em đã đƣợc đền đáp. Sau cuộc hội thảo đó, cuốn nhật ký đã tìm đƣợc đƣờng về với quê hƣơng xứ sở, với nơi nó đƣợc phôi thai và cần phải tồn tại. Trong bức thƣ gửi cô em gái của Đặng Thùy Trâm ngày 29/4/2005 Fred đã viết: “Sau bao năm tìm kiếm, điều này giống nhƣ một giấc mơ về việc tìm ra gia đình cô khiến tôi bật khóc. Một ngƣời mẹ phải đƣợc biết về những ngày tháng của con gái mình. Một đất nƣớc phải đƣợc biết về một ngƣời anh hùng nhƣ bác sĩ Đặng”[45,tr. 20]. “Tất cả những ai đã từng đƣợc chúng tôi cho đọc cuốn nhật ký đều xúc động trƣớc những điều chị cô viết. Chúng tôi nghĩ chị không chỉ là một anh hùng của riêng ai – nghĩa là mặc dù những ký ức của chị rất quí giá với cô cũng nhƣ đối với chúng tôi, nhƣng sự nghiệp của chị ấy còn rất ý nghĩa vớimọi ngƣời. Những dòng chữ của chị có một sức kêu gọi tuyệt vời. Mặc dù chị ở bên kia chiến tuyến trong cuộc chiến tranh giữa chúng ta, nhƣng ngay từ đầu những năm 1970, Fred và tôi đã cảm thấy chị cô vô cùng đáng ngƣỡng mộ, đáng tôn kính và là một ngƣời tốt... theo một nghĩa nào đó chị là của riêng gia đình cô, nhƣng theo một nghĩa rất quan trọng, chị là của tất cả chúng ta”[26,tr. 24]. Trong thƣ Robert, anh trai Fred, gửi mẹ của Đặng thùy Trâm ngày 2/5/2005 có đoạn: “Và có thật chị ấy đã tốt nghiệp về chính trị cũng nhƣ đã tốt nghiệp về y khoa? Chị ấy lấy đâu ra khả năng để cảm thụ cái đẹp?... Chúng tôi muốn biết vì sao Thùy có thể kiên định đến thế, vì sao chị lại trở thành dũng cảm đến thế, bao nhiêu năm rồi chúng tôi chứ đƣợc hỏi bà những câu hỏi ấy, đó là những bài học cho tất cả chúng tôi”. Còn cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi cũng là một cuốn nhật ký đƣợc viết trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam do Nguyễn Văn Thạc, sinh viên xuất sắc của khoa Toán-Cơ trƣờng Đại học Tổng hợp Hà 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Nội,viết. Anh đã từng đạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn lớp 10 toàn miền Bắc năm học 1969-1970. Theo chủ trƣơng chung, ngƣời thanh niên Hà thành đã từ giã trƣờng Đại học với tƣơng lai đầy hứa hẹn để lên đƣờng làm nhiệm vụ của một ngƣời con đối với Tổ quốc. Anh nhập ngũ cuối năm 1971 và chỉ với chƣa đầy 20 tuổi đời, 10 tháng tuổi quân, Nguyễn Văn Thạc đã anh dũng hi sinh trên chiến trƣờng Thành Cổ - Quảng Trị. Trong những tháng ngày hành quân ra chiến trƣờng, mặc dù gian khổ vất vả nhƣng anh đã ghi chép đƣợc những điều tai nghe mắt thấy, những cảm nhận về con ngƣời, cuộc sống, chiến tranh và đặc biệt là những dự cảm về ngày 30/4/1975 trong cuốn sổ tay nhỏ của mình mang tên Chuyện đời mà sau này xuất bản có tên Mãi mãi tuổi hai mƣơi. Tƣởng rằng cuốn nhật ký sẽ mãi là những kỷ niệm trên đƣờng hành quân của Thạc mà chỉ có riêng anh biết. Nhƣng chiến tranh lùi xa 30 năm, gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đọc lại những dòng nhật ký ấy và thấy rằng nó có thể góp phần phản ánh chân thực cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân ta, đồng thời thấy đƣợc chân dung tinh thần của một thế hệ thanh niên giác ngộ lí tƣởng Cách mạng, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc cho nên đã gửi bản thảo cuốn nhật ký cho Nhà xuất bản Thanh Niên để in nhân dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam. Khi hai cuốn nhật ký đƣợc xuất bản, đến tay công chúng, nó đã trở thành một hiện tƣợng văn học đặc biệt năm 2005. Không chỉ độc giả Việt Nam mà rất nhiều độc giả trên thế giới biết đến, trân trọng và ngợi ca. Điều gì trong cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm khiến cho những ngƣời bên kia chiến tuyến nâng niu, gìn giữ suốt 35 năm? Điều gì đã khiến hai anh em Fred đau đáu muốn tìm cho bằng đƣợc gia đình bác sĩ Đặng Thùy Trâm để trao lại cuốn nhật ký nhƣ một hành động chuộc lỗi? Và điều gì khiến Mãi mãi tuổi hai mƣơithu hút, hấp dẫn độc giả trở thành một cuốn sách làm trăn trở thế hệ trẻ Việt Nam? 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu hai cuốn nhật ký này dƣới danh nghĩa những tác phẩm văn học thuộc thể ký, loại nhật ký. Thông qua đó, chúng tôi sẽ phân tích những giá trị còn mãi của chúng để trả lời cho những câu hỏi chúng tôi đã nêu ra ở trên. Nghiên cứu Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi không chỉ là nghiên cứu hai hiện tƣợng riêng biệt của văn học mà thực chất, chúng tôi hi vọng có thể tái hiện lại đƣợc không khí sống, chiến đấu, lao động của thời kỳ một đi không trở lại ấy; đồng thời hiểu về lối viết của thể ký, mà cụ thể ở đây là nhật ký trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Từ đó, chúng tôi hi vọng sẽ đặt nền móng cho con đƣờng nghiên cứu văn học kháng chiến chống Mỹ sau này của chính mình. 2. Lịch sử vấn đề Nhƣ đã đề cập trong phần lý do chọn đề tài, khoảng hơn 30 năm sau thời gian tạo tác, hai cuốn nhật ký này mới đƣợc giới thiệu ra công chúng. Năm 2005 khi xuất hiện lần đầu tiên, nó đã trở thành tâm điểm chú ý của tất cả những ai yêu thích văn học. Có rất nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này. Cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâmlần đầu tiên đƣợc xuất hiện trƣớc công chúng là trong bài nói ởhội thảo thƣờng niên về chiến tranh Việt Nam đƣợc tổ chức tại Trung tâm Việt Nam của trƣờng đại học Texas – Mỹdo hai anh em Fred và Rob cung cấp. Họ đã lƣu giữ cuốn nhật ký suốt hơn 30 năm để rồi những gì viết trong cuốn nhật ký thôi thúc họ, cảm hóa họ và làm cho hai anh em Fred trân trọng lƣu giữ và mong muốn trả nó trở về với ngƣời chủ của cuốn nhật ký. Còn Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc, là nhờ vào ngƣời anh trai của liệt sỹ lần ngƣời anh trai của liệt sĩ- ông Nguyễn Văn Thục-thấy rằng cuốn nhật ký có thể góp phần phản ánh thực tế chiến tranh thời kỳ chống Mỹ đồng thời góp phần làm cho thế hệ trẻ hôm nay có một cái nhìn chân thực về chiến tranh để từ đó trân trọng,nên rất cần đƣợc in ra 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Chúng tôi cũng thấy một số bài phê bình nghiên cứu viết về hai cuốn nhật ký trên các bài báo và một số cuốn sách. Trong bài Sống mãi những trang nhật ký sau khoảng lặng 30 năm in trong cuốn Cảm thức tân xuân – Giáo sƣ Phong Lê viết: “Đây là hai cuốn nhật ký ngƣời viết chỉ viết cho riêng mình, và giá có một mong mỏi xa xôi nếu mình còn sống hoặc nếu cuốn nhật ký còn lƣu giữ đƣợc thì cũng chỉ là cho ngƣời thân của mình. Nhƣ vậy là nó đƣợc viết với sự trung thực tuyệt đối với bản thân, và tuyệt không bị chi phối bởi bất cứ áp lực nào khác – áp lực của sự in ra, sự phổ biến...”[18,tr.179].Giáo sƣ Phong Lê cũng đã nhắc tới việc cuốn nhật ký đƣợc viết ra chân thực, không bị sự gò bó nào trong cách viết. Trong lời cuối cuốn 35 năm và 7 ngàynhà văn Lê Minh Khuê nhận xét cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm xuất hiện đã gây nên một hiện tƣợng xã hội đặc biệt: “... Sau hơn 30 năm chiến tranh kết thúc, việc công bố nhật ký của các liệt sĩ lại gây nên một cơn sốt đọc sách, gây nên trong tâm hồn mỗi ngƣời, nhất là thế hệ trẻ sự xáo trộn theo chiều hƣớng tốt đẹp”[27,tr. 183]. Đặng Kim Trâm, em gái nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm trong Bí mật cuộc đời ngƣời Mỹ làm “sống lại” Đặng Thùy Trâmcũng nhắc đến sự xuất hiện của cuốn nhật ký:“Trung tuần tháng 3 năm 2005, một cuộc hội thảo thƣờng niên về chiến tranh Việt Nam đƣợc tổ chức tại Trung tâm Việt Nam – Đại học Texas – Mỹ. Rất nhiều ngƣời đến dự. Tại hội thảo, ngƣời ta thảo luận về chiến tranh Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau. Frederic Whiterhurst và Robert Whiterhurst đã đến với bài nói về nhật ký của một nữ bác sĩ Việt Cộng mà Frederic nhận đƣợc khi tham gia chiến tranh Việt Nam”[46,tr. 105-106]. Khi viết lời tựa cho cuốn Mãi mãi tuổi 20 nhà thơ Đặng Vƣơng Hƣng đã nhận xét về cuốn sách này: “Âm hƣởng chung của tập nhật ký là tinh thần lạc quan, sẵn sàng ra trận, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc của một thanh niên trí thức. Nhƣng không thể không nhắc đến điều này: Nếu ta đặt cƣơng vị mình vào Nguyễn Văn Thạc – một thủkhoa của cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ mới thấy sức ép tâm lí luôn đè nặng và ghê gớm tới mức nào! Không chỉ một lần anh lo lắng tự hỏi “Liệu mình có thể làm đƣợc gì cho văn học chống Mỹ hay không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con đƣờng nào? Làm sao có đƣợc một bàn tay dẫn dắt của ngƣời trí thức?”[41, tr. 17]. Nhà thơ Phạm Tiến Duật trong lời cuối cuốn sách cũng có những dòng tâm sự về Thạc:“Trái tim Nguyễn Văn Thạc là trái tim của một nhà thơ, trƣớc ngƣời yêu có thể rất mềm yếu đến ủy mị nhƣng trƣớc cái việc to lớn của đất nƣớc, của nhân dân lại là ngƣời cả quyết, nồng nàn. Tôi muốn các bạn trẻ bây giờ đọc và nhớ đến anh. Tôi muốn các cây bút trẻ bây giờ đọc và nhớ đến anh. Có đƣợc điều đó, trái tim và ngòi bút của tuổi trẻ bây giờ sẽ dằm thắm hơn, tha thiết hơn và cƣơng nghị hơn trƣớc cuộc sống mà Nguyễn Văn Thạc và đồng đội đánh đổi tính mạng để giành lấy cho đời nay và mai sau”[41, tr. 316 – 317]. Báo chí những năm 2005 lấy hiện tƣợng này làm đề tài, có rất nhiều tờ báo, bài báo nói về sự xuất hiện của hai cuốn sách. Trên báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh ra ngày 21/5/2005:“Bạn sẽ đọc vào trang sách và bạn thấy mình đang đọc một trái tim, đọc một tâm hồn...Một tình yêu lí tƣởng tiêu biểu của thanh niên thời chiến tranh ấy. Chàng trai ra trận, cô gái đi học xa, tình yêu vƣợt không gian và thời gian chín lên trong tình cảm nhớ thƣơng mong ngóng đợi chờ hi vọng của hai ngƣời...” Sự xuất hiện của hai cuốn nhật ký đã gây chú ý cho rất nhiều độc giả trong và ngoài nƣớc, ở Việt Nam nó đã gây ra một cơn sốt đọc sách. Nhƣ đã nói, có rất nhiều bài báo, bài phê bình viết về hiện tƣợng văn học này. Và có lẽ công chúng văn học không rời mắt khỏi hai cuốn nhật ký kể từ năm 2005 đến nay. Không chỉ là đề tài để các nhà phê bình nghiên cứu văn học tìm hiểu, mà hai cuốn nhật ký cùng với số phận khá đặc biệt của nó tạo sức hút lớn đối vói độc giả và khi nó đƣợc chuyển thể thành phim thì sức hấp dẫn còn tăng lên gấp bội. Hai cuốn nhật ký đã khơi nguồn cảm hứng cho các đạo diễn để rồi hai bộ 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ phim đƣợc chuyển thể từ nội dung hai cuốn nhật ký ấy đã ra đời. Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã rất thành công khi dàn dựng bộ phim Đừng đốt dựa trên cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm, sau khi công chiếu đã thu hút hàng vạn lƣợt khán giả theo dõi. Còn Mãi mãi tuổi hai mƣơi có nhắc nhiều đến Hoàng Nhuận Cầm và chính nhà thơ đã dàn dựng thành công bộ phim Mùi cỏ cháy dựa trên những ghi chép chân thực của Nguyễn Văn Thạc. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi mới tìm đƣợc những đánh giá, nhận xét, những bài phê bình riêng lẻ về hai cuốn nhật ký này. Điểm chung của các ý kiến là họ đều đi sâu vào khẳng định chất thực của chúng; rằng hai cuốn nhật ký dù đƣợc chúng tôi coi là những văn bản tác phẩm văn học, song đƣợc viết không nhằm mục đích sáng tạo nghệ thuật, công bố rộng rãi. Chính vì thế, giá trị của nó đƣợc khẳng định chủ yếu về nội dung hơn là nghệ thuật; về giá trị tƣ tƣởng hơn là về kỹ thuật viết. Với luận văn này, chúng tôi đồng thuận với quan điểm đó song còn muốn đi sâu phân tích để trầm tích văn hóa, nghệ thuật bên dƣới lớp ngôn từ ấy để thấy đƣợc tính chất nghệ thuật của chúng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này cứu là “cái tôi tác giả” trong hai cuốn nhật ký: Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi 20của Nguyễn Văn Thạc. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Với đối tƣợng là cái tôi tác giả, luận văn sẽ sử dụng cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm Nhà xuất bản Hội nhà văn năm 2005,khổ 13*20,5cm; Mãi mãi tuổi hai mƣơi, Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2005, khổ 13*19cm. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1.Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cái tôi tác giả trong hai cuốn nhật ký, chúng tôi hƣớng tới việc hiểu về tâm hồn của một thế hệ những chiến sĩ tham gia cuộc chiến tranh 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ chống Mỹ ác liệt của thế kỷ XX, đồng thời cũng khám phá những giá trị nghệ thuật ẩn chứa trong hai cuốn nhật ký. Hai cuốn nhật ký viết chân thực về chiến tranh Việt Nam những năm tháng chống Mỹ. Nó lại xuất hiện rất đặc biệt, 30 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Cho nên nghiên cứu hai cuốn nhật ký cũng hƣớng tới việc nhìn nhận, kiểm chứng văn học trong chiến tranh của Việt Nam. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của cái tôi tác giả trong hai cuốn nhật ký ở những phƣơng diện nhƣ: Cái nhìn yêu đời, lạc quan; Niềm khao khát lý tƣởng, ƣớc mơ thực hiện lý tƣởng, sự suy tƣ về đất nƣớc và con ngƣời; Những suy tƣ trăn trở đời thƣờng. Dựa trên cơ sở lý luận về cái tôi tác giả luận văn mong góp phần làm sáng tỏ hơn những biểu hiện của cái tôi tác giả qua một số những yếu tố, tín hiệu nghệ thuật của hai cuốn nhật ký nhƣ nhân vật, giọng điệu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi có sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau: Phƣơng pháp lịch sử - xã hội Phƣơng pháp tiểu sử Phƣơng pháptiếp cận thi pháp học Phƣơng pháp hệ thống Phƣơng pháp thống kê, khảo sát Phƣơng pháp phân tích tổng hợp Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh 6. Đóng góp của luận văn Nhật ký chiến tranh là một thể loại khá mới mẻ. Cũng vì lẽ đó mà những đóng góp của nó với dòng văn học viết về đề tài chiến tranh còn chƣa đƣợc đánh giá đúng mực. Nghiêncứu hai cuốn nhật ký này, luận văn mong 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ muốnmang lại sự mới mẻ và những đóng góp của nhật ký trong đời sống văn học Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, luận văn có cấu trúc gồm 3 chƣơng: CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN. KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ VÀ LƢỢC KỂ VỀ HÀNH TRÌNH CỦA HAI CUỐN NHẬT KÝ TRONG HƠN 30 NĂM CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC CHƢƠNG 3: BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ PHẦN 2: NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN. KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ VÀ LƢỢC KỂ VỀ HÀNH TRÌNH CỦA HAI CUỐN NHẬT KÝ TRONG HƠN 30 NĂM 1.1. Tác giả và cái tôi tác giả trong văn học 1.1.1 Tác giả văn học Nếu nhà văn là thuật ngữ có chức năng xác định nghề nghiệp thì tác giả là khái niệm xác định vai trò của chủ thể gắn liền với cá tính sáng tạo, với phong cách của nhà văn trong mỗi tác phẩm cụ thể. Phạm trù tác giả không chỉ dùng để xác định danh tính mà còn có ý nghĩa đánh giá chất lƣợng của sự sáng tạo. Nó gắn liền với ý thức về chủ thể sáng tạo, với phong cách cá nhân và sự độc đáo của cái thế giới nghệ thuật mà tác phẩm tạo ra trong sự cảm thụ của ngƣời đọc. Tác giả là một khái niệm cơ bản đƣợc sử dụng trong nghiên cứu và phê bình văn học. Tác giả thƣờng đƣợc hiểu là ngƣời sáng tạo ra tác phẩm văn học. Đó có thể là một cá nhân hoặc một tập thể sáng tạo nhằm thể hiện tâm tƣ, tình cảm, thái độ của mình trƣớc thực tại. Trong Từ điển thuật ngữ văn họcđã định nghĩa tác giả:“Nhìn bề ngoài, tác giả là những ngƣời làm ra văn bản ngôn từ, bài thơ, bài báo, tác phẩm văn học. Về thực chất, tác giả văn học là ngƣời làm ra cái mới, ngƣời sáng tạo ra các giá trị văn học mới. Sự bắt chƣớc, mô phỏng, theo đuổi thời thƣợng hoặc sáng tác không có bản sắc không làm nên tác giả văn học đích thực”[8, tr 190]. Tác giả văn học nhƣ vậy phải là những ngƣời có tƣ cách, có tài năng và có ý thức đầy đủ, sâu sắc về nghề nghiệp, phải coi sáng tạo nghệ thuật là máu thịt, là tâm huyết của đời mình. Nhƣ vậy tác giả mới thực sự trở thành tác giả của các sáng tác bất hủ, có sức sống không chỉ vói một thời mà với muôn đời. Tác phẩm văn học do quá trình tiếp nhận ở ngƣời đọc, có thể tham gia vào các môi trƣờng xã hội khác nhau, thuộc các giai đoạn lịch sử khác nhau. 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Cũng từ đó tác phẩm nghệ thuật có sinh mệnh và có một đời sống lịch sử riêng. Hệ quả tất yếu của điều đó là: đời sống lịch sử của tác phẩm văn học là sự vận động, chảy trôi không ngừng trong cảm quan của mỗi thế hệ bạn đọc cũng nhƣ trong sự thăng trầm của lịch sử. Tác phẩm nghệ thuật đó khi đến tay ngƣời đọc cũng có nghĩa là nó đƣợc trả về với đời sống hiện thực, chịu sự kiểm nghiệm của công luận và thời gian. Một tác phẩm văn học thực sự có sức sống khi nó đƣợc tiếp nhận ở nhiều bình diện khác nhau. Một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là tấm gƣơng phản ánh đời sống và nhận thức cuộc sống thông qua lăng kính chủ quan của ngƣời nghệ sĩ. Việc tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác giả, đến quá trình sáng tạo của họ là việc cần thiết. Mỗi nhà văn đều có một xuất thân riêng, một hoàn cảnh riêng, chịu ảnh hƣởng của một nền giáo dục riêng. Thực tế sáng tác của các nhà văn đã cho thấy điều đó. Tất cả những vấn đề trên không ít thì nhiều cũng đều ảnh hƣởng, tác động đến quá trình lao động nghệ thuật của tác giả, nó thể hiện trong tƣ tƣởng của mỗi nhà văn trong tác phẩm của họ. Với những tác phẩm đƣợc sáng tạo trong những hoàn cảnh lịch sử văn hóa đặc biệt, rất cần thiết phải tìm hiểu thái độ và phản ứng của tác giả trƣớc những biến cố lớn lao, những thăng trầm của lịch sử. Mỗi giai đoạn đều có những biến cố về lịch sử, chính trị, văn hóa, tƣ tƣởng buộc ngƣời viết phải bày tỏ thái độ của mình bằng hành động cụ thể hoặc thông qua lao động sáng tạo nghệ thuật. 1.1.2. Cái tôi tác giả trong văn học Cái tôi tác giả hay còn gọi là hình tƣợng tác giả, theo lý thuyết thi pháp học hiện đại là sự nhập thân của ý thức ngƣời sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật. Mọi loại hình nghệ thuật trong đó có văn học là sản phẩm trực tiếp của tƣ duy, của ý thức, và đƣơng nhiên nó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” (Lê nin). Tác phẩm văn học mặt khác, là một đơn vị sáng tác của nhà văn, là đối tƣợng tiếp nhận của ngƣời đọc, là chỉnh thể trung tâm của hoạt động 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ văn học. Nó là sự kết tinh quá trình tƣ duy nghệ thuật của tác giả, biến những hiện thực chủ quan trong tƣ duy và tâm hồn nhà văn thành những biểu hiện nghệ thuật cụ thể trên trang giấy. Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của mỗi ngƣời cầm bút. Chúng đƣợc phôi thai, phát sinh, phát triển nhờ sự lao động miệt mài của mỗi ngƣời tạo tác. Chính vì thế, vô hình chung, dù vô tình hay cố ý thì dấu ấn của chủ thể sáng tạo sẽ đƣợc phản ánh dù ít dù nhiều trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Sáng tác văn chƣơng là sản phẩm mang tính chủ quan cao độ. Thực tế đƣợc phản ánh qua cái nhìn chủ quan của tác giả. Tƣ tƣởng, cảm xúc, cảm quan về thế giới thực tại, trí tƣởng tƣợng, năng lực hƣ cấu, sự lựa chọn đề tài, chủ đề, sự vận dụng thủ pháp nghệ thuật, cách sử dụng ngôn từ... đều đƣợm màu sắc chủ quan của ngƣời sáng tạo ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Dấu ấn của chủ thể sáng tạo để lại trong tác phẩm thể hiện rõ nét trong cái tôi tác giả. Tác phẩm văn chƣơng – chỉnh thể nghệ thuật – trong sự vận động của nó đã biểu lộ sự nhìn nhận đánh giá cuộc sống của ngƣời nghệ sĩ. Sự nhìn nhận, đánh giá đó đối với hiện thực thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả. Cái tôi tác giả trong tác phẩm văn học tồn tại với tƣ cách là một trong những yếu tố quyết định của phong cách cá nhân nhà văn, của phong cách tác phẩm nghệ thuật. Qua sự tự thể hiện mình trong tác phẩm văn học, các nhà văn đã khẳng định phong cách nghệ thuật của mình. Dĩ nhiên khi xác định con đƣờng đi theo nghệ thuật, các nhà văn không bao giờ muốn sáng tạo ra những tác phẩm nghèo nàn nhạt nhẽo bởi “Cái bình thƣờng là cái chết của nghệ thuật” (Victo Huygo). Trong nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, cá tính riêng biệt bao giờ cũng đƣợc đề cao. Không ai muốn mình giống ngƣời khác và cũng không ai muốn ngƣời khác giống mình. Nhà văn chân chính thực sự sẽ tìm mọi cách, bằng tài năng của mình, để tạo cho mình một phong cách cá nhân riêng biệt mà không thể tìm thấy ở bất kỳ một ngòi bút nào khác. 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Nhà văn Nga thế kỷ XIX Lep Tônxtoi trong Toàn tập tác phẩm đã nói: “...Khi chúng ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả mới thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là nhƣ sau... “Nào anh ta là con ngƣời nhƣ thế nào đây? Anh có gì khác với tất cả những ngƣời mà tôi biết, và anh có thể nói cho tôi một điều gì mới về việc cần phải nhìn cuộc sống của chúng ta nhƣ thế nào?”(...) Nếu nhƣ đó là một nhà văn cũ đã quen thuộc thì câu hỏi không phải là “Anh là ngƣời nhƣ thế nào?” mà sẽ là “Nào, anh có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới? Bây giờ anh sẽ lí giải cuộc sống cho tôi từ khía cạnh nào?”[15, tr. 201]. Lep Tônxxtoi còn nói: Khi đọc tác phẩm văn học, hứng thú chủ yếu chính là tính cách của tác giả thể hiện trong đó. Qua tác phẩm văn học của mình các nhà văn đã góp “tiếng nói của mình”(Turghenev) vào kho tàng văn học dân tộc. Ý niệm về tiếng nói của mình, theo nhà văn Acmeni Đêrênik Đêmirchian trong bài Suy nghĩ về văn học đăng trên báo Văn học(số 2/2/1957) thì: “Cái của riêng mình dù nó là nhỏ bé nhƣng là của riêng mình – đó chính là cái có giá trị lớn trong văn học và đem lại sự thích thú cho độc giả” [15, tr. 91]. Nếu một nhà văn trong suốt quãng đƣờng lao động nghệ thuật mà không tạo ra cái riêng, cái mới gây ấn tƣợng với độc giả, với thời đại thì đó không phải là một tác giả đáng chú ý cho dù anh ta có sáng tác bao nhiêu đi chăng nữa. Cho nên mỗi tác giả văn học đều để lại dấu ấn riêng thể hiện cái tôi cá nhân của mình từ đó đọng lại trong tâm trí bạn đọc. Tác giả L. Ghindơbua nghiên cứu tác giả trong thơ trữ tình đã chú ý đến cái “Tôi” trữ tình và nhận thấy trong thơ trữ tình, nhà thơ thƣờng xuyên hình dung về mình, tự giới thiệu về mình. Quan điểm của L. Ghindơbua gặp gỡ với ý kiến của Hêghen khi cho rằng: Đối tƣợng cơ bản của thơ trữ tình là thế giới nội tâm của anh ta. Trong các thể loại văn học, thơ là thể loại mà cái tôi tác giả thể hiện rõ nhất. Còn Bonexkaia thấy tác giả biểu hiện qua nhân vật. Nhà lý luận văn học Mỹ W. Buxơ nhấn mạnh trong các tác phẩm khác nhau có thể gặp 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ những “tác giả hàm ẩn”khác nhau. Vấn đề then chốt nghiên cứu “tác giả hàm ẩn” là xác định khoảng cách giữa nó và ngƣời trần thuật. Ở các thể loại khác nhƣ kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, ngƣời đọc muốn biết thái độ tác giả phải xuyên qua hệ thống nhân vật, đặc biệt là nhân vật trung tâm thì đối với ký, ngƣời đọc nắm bắt một cách trực tiếp. Chủ thể của lời nói nghệ thuật trong tác phẩm ký chính là bản thân ngƣời viết. Chính vì lẽ đó ngƣời kể chuyện trong ký thƣờng lộ diện trực tiếp trong hình thức ngƣời kể chuyện xƣng “tôi”. Với đặc trƣng riêng của thể loại, ký bộc lộ trực tiếp cái tôi tác giả. Nếu cái tôi của nhà tiểu thuyết đƣợc ẩn vào trong những hình tƣợng nhân vật, vào cách đánh giá, cách nhìn đối với cuộc sống, đƣợc toát ra từ sự tƣơng quan giữa nhiều cái nhìn, nhiều quan niệm, từ sự phức điệu đa thanh đặc trƣng cho tiểu thuyết, và ở thơ cái tôi tác giả phải bộc lộ qua thao tác chuyển hóa thế giới nội tâm vào nhân vật trữ tình thì ở ký cái tôi tác giả là cái tôi tự biểu hiện. Bằng cái tôi đó, tác giả đã trình bày những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống thực của họ – những gì mà nhà văn đã sống, đã trải qua, đã thấy, đã cảm bằng đôi mắt, bằng trái tim, bằng sự suy nghiệm của chính bản thân mình. Không thể phủ nhận hƣ cấu nghệ thuật trong ký song xét cho cùng, những vấn đề chứa đựng trong tác phẩm ký phải giống nhƣ một thƣớc phim tƣ liệu tạo ra khoái cảm đặc biệt đối với ngƣời đọc bằng những thông tin thực sự chính xác. Cái tôi trong tác phẩm ký văn học chính là cái tôi thẩm mỹ. Cái tôi ấy gắn liền với thế giới quan thẩm mỹ của tác giả. Ở đó mỗi con số, mỗi sự kiện, mỗi chi tiết, mỗi nhân vật tự bản thân nó đã bộc lộ cái nhìn, sự đánh giá và luận giải của tác giả về thế giới thực tại bởi nó đã qua sự chọn lọc, nó đƣợc mài giũa bằng giác quan nghệ thuật tinh tế của tác giả. Trong thể ký, cái tôi là hình thức trực tiếp của hình tƣợng tác giả, đồng thời vừa nhƣ một phƣơng thức trần thuật quan trọng với tƣ cách chức năng nghệ thuật cái tôi đi – nghe – kể – tả – suy ngẫm – ngợi ca – phê phán – đề 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan