Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường đại học sư phạm hà nộ...

Tài liệu Luận văn bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường đại học sư phạm hà nội 2 hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh​

.PDF
50
94
111

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ =====o0o===== NGUYỄN THỊ TRANG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh HÀ NỘI, 2019 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ =====o0o===== NGUYỄN THỊ TRANG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thúy Vân HÀ NỘI, 2019 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Thị Thúy Vân đã tận tình hướng dẫn, dặn dò, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này. Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô khoa Giáo dục chính trị trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu khóa luận. Cuối cùng, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn ở bên động viên, khích lệ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khóa luận. Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Trang LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là nghiên cứu do tôi trực tiếp thực hiện cùng với sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Thúy Vân. Tôi xin cam đoan rằng các số liệu, thông tin, trích dẫn của luận văn được chỉ dẫn nguồn gốc và nghiên cứu đầy đủ. Nếu có bất kì sự gian lận nào tôi xin hoàn chịu trách nhiệm hoàn toàn. Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Trang MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY .. 6 1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 6 1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy ..................... 14 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 25 Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY TRONG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY.............................. 26 2.1. Sự cần thiết phải bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .............. 26 2.2. Thực trạng bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân ..... 29 2.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh ................................................................................................ 35 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 41 KẾT LUẬN .................................................................................................... 42 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 44 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục….không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa” [14, tr. 345]. Nghề dạy học là một nghề cao quý trong những nghề cao quý, những người thầy luôn được tôn vinh và kính trọng trong xã hội từ trước đến nay, Người đã nói: “Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang” [18, tr. 402 403]. Sự nghiệp trồng người là sự nghiệp chung của toàn Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng những người trực tiếp tham gia vào quá trình đó là những nhà giáo. Bởi vì các thầy, cô giáo là những người mang trên mình những trọng trách to lớn là những người chiến sĩ văn hóa truyền bá cho thế hệ trẻ tương lai của đất nước, truyền bá các giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc và thời đại, góp phần xây dựng nhân cách con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nói chung và xây dựng đội ngũ người thầy nói riêng, Người cũng là một người thầy vẻ vang, nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã có quan niệm về vai trò, nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức, chuyên môn và phương pháp giảng dạy của người thầy; Người đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức của người thầy. Công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục ở Việt Nam đã phổ cập rộng rãi trong cả nước từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy nghề đến cao đẳng, đại học. Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục này, đội ngũ giáo viên mà các sinh viên sư phạm ở nước ta chính là nền tảng, lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng đến sự thành công của công cuộc đổi mới giáo dục. Đội ngũ sinh viên sư phạm chính là những thế hệ thầy, cô giáo tương lai của đất nước, vì 1 vậy, để công cuộc đổi mới giáo dục thành công cần đặc biệt quan tâm giáo dục sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm trên cả nước đảm bảo về năng lực, chuyên môn, phương pháp giảng dạy, đặc biệt là giáo dục đạo đức người thầy. Một trong hệ thống các trường Sư phạm ở nước ta là trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 - là một cơ sở đào tạo thế hệ thầy cô giáo tương lai, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục, cán bộ khoa học trình độ đại học và sau đại học ở nước ta hiện nay với quy mô là 10000 sinh viên, trường được coi là một trong bảy trường đại học sư phạm chủ chốt của cả nước ta. Hiện nay đa số sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 có lối sống đạo đức tốt đẹp, có lòng yêu quê hương, đất nước, có lối sống lành mạnh, tương thân, tương ái, đoàn kết với nhau, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhưng bên cạnh đó, một bộ phận sinh viên của trường hiện nay còn có những biểu hiện lệch lạc về đạo đức, sai lầm trong nhận thức, chạy theo lối sống thực dụng, lười biếng, thiếu hoài bão để lập thân, lập nghiệp vì tương lai của đất nước, chạy theo những phong trào, học không phải vì muốn trau dồi kiến thức mà chỉ chạy theo điểm số dẫn đến những biểu hiện tiêu cực như quay cóp trong giờ thi, nghỉ học thường xuyên..v..v.đây là những vấn đề đáng lo ngại về sinh viên trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Vì vậy để công tác giáo dục đạo đức trong trường đạt hiệu quả cao, cần phải phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực hiện nay, tăng cường công tác giáo dục toàn diện, đặc biệt là đạo đức cho sinh viên ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 theo tư tưởng Hồ Chí Minh để đảm bảo chất lượng giáo dục nhằm đào tạo thế hệ thầy cô giáo tương lai có phẩm chất chính trị, đạo đức, có kiến thức, năng lực thực hành nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại 2 học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên các trường Đại học Sư phạm theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề được nhiều người quan tâm đến trong nghiên cứu khoa học. Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên các trường Đại học Sư phạm theo tư tưởng Hồ Chí Minh như: -“Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội” - Thành Duy (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Đinh Xuân Dũng,“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Giáo dục,”Hà Nội. -“Phạm Thị Thúy Vân (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người thầy giáo và vấn đề nâng cao đạo đức người thầy cho đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học sinh viên và cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc năm 2016, Nxb Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,”tr.383 - 391. - Phạm Thị Thúy Vân (2017),“Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đề tài Khoa học công nghệ cấp cơ sở,”Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, mã số: C2016.20. Nhìn chung, hiện nay ở mỗi khía cạnh khác nhau, nghiên cứu đạo đức của sinh viên sư phạm“đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tuy nhiên nghiên cứu tập trung vào bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến nay chưa có công 3 trình nào nghiên cứu. Chính vì vậy, dựa trên cơ sở những vấn đề mà các nhà khoa học đã nghiên cứu, tôi đã lựa chọn đề tài”“Bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là hệ thống những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy; từ đó, vận dụng vào việc bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.” 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu,“làm rõ nội dung cơ bản tư tưởng của Hồ Chí Minh”về đạo đức người thầy. - Chỉ ra thực trạng bồi dưỡng đạo đức người thầy“cho sinh viên ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.” -“Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.” 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài Khóa luận tập trung nghiên cứu“tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.” 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy và vấn đề bồi dưỡng các chuẩn mực trên cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay, từ năm 2012 đến năm”2019. 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Trong suốt quá trình“nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa”Mác - Lênin, cụ thể là: -“Phương pháp lịch sử cụ thể” -“Phương pháp lịch sử” - Phương pháp luận duy vật biện chứng Ngoài ra còn kết hợp các phương pháp khác như:“phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp quan sát, phương pháp thu thập tài liệu nhằm làm rõ nội dung của đề tài”đã đặt ra. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, khóa luận gồm 2 chương,”5 tiết. 5 Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI THẦY 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm “đạo đức” Thuật ngữ “đạo đức” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là mos (moris) có nghĩa là“lề thói (moralis nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa). Đạo đức còn có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, đạo đức là những gì liên quan đến những thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử giữa con người với con người trong cộng đồng và xã hội. Như vậy, ta thấy đạo đức của con người đã được các nhà triết gia nghiên cứu và bàn luận từ khá sớm.” -“Quan điểm của một số nhà triết học phương Đông:” +“Theo các học thuyết của người Trung Quốc cổ đại về đạo đức, đạo nghĩa là đường đi, con đường, đường sống của con người trong xã hội. Đức có”ngĩa là nhân đức, đức tính, là biểu hiện của đạo là nguyên tắc của đạo lý. Như vậy, đạo đức là những nguyên tắc, yêu cầu mà“cuộc sống đặt ra và con người phải”thực hiện theo. +“Theo Khổng Tử (thế kỉ VI TCN) đã đưa ra tư tưởng “tiên học lễ, hậu học văn”, với mong muốn phát triển xã hội ổn định, gia đình hạnh phúc, mọi người giữ được đạo lý trong cuộc sống. Để hiện thực hóa tư tưởng này, Khổng Tử đã đề ra nguyên tắc vua tôi, ông bà, cha mẹ, con cháu đều phải thực hiện theo luật nước, phép nhà. Như vậy, theo ông, đạo đức là ý thức đối với bản thân và đối với xã hội trong các mối quan hệ của con người trong cuộc sống hàng ngày, cách xử sự và hành vi của con người, phẩm chất con người, hạnh phúc con”người. + Tư tưởng“triết học Phật giáo do Thích Ca Mâu Ni sáng lập đã nêu ra các vấn đề về đạo đức, trong đó, nội dung cơ bản nhất trong đạo đức của Phật 6 giáo là khuyên nhủ con người ta sống”thiện, tránh làm điều ác, biết yêu thương, giúp đỡ nhau. - Quan điểm của một số nhà triết học phương Tây: +“Vấn đề đạo đức được nhiều sự quan tâm, bàn luận của những nhà tư tưởng ở phương Tây. Từ trước đến giờ, mọi người vẫn coi Socrates (469 399 TCN) là người đặt nền móng cho khoa học về đạo đức học, còn Aristoteles (384 - 322 TCN) đã viết 10 cuốn về đạo đức học, trong đó thì ông đặt biệt quan tâm tới phẩm hạnh của con”người. + Theo quan điểm của Mác - Ph.Ăng-ghen“cho rằng, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh quy luật phát triển của xã hội dưới hình thức giá trị - giá trị đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, bên cạnh những chuẩn mực giá trị đạo đức chung của con người, còn có chuẩn mực đạo đức phản ánh lợi ích, vị trí và vai trò của mỗi giai cấp. Như vậy, từ cơ sở trên, quan điểm Mác xít khẳng định: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức.” -“Quan điểm đạo đức học ở Việt Nam:” + Theo“giáo trình Đạo đức học của tác giả Trần Đăng Sinh - Nguyễn Thị Thọ, tác giả đã đưa ra định nghĩa đạo đức như”sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thông và sức mạnh của dư luận xã hội” [20, tr. 6]. + Trong sách giáo khoa“Giáo dục công dân lớp 10 - Nxb Giáo dục cũng đã đưa ra định nghĩa về đạo đức”như sau: “Đạo đức là hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, xã hội” [2, tr. 63]. + Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là cái “gốc” của người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có 7 nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [9, tr. 252 - 253] hay “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” [9, tr. 255]. Theo Người, có ba tiêu chuẩn“để đánh giá đạo đức của con người là ở hành động, ở việc làm và ở cách đối nhân xử thế. Người cho rằng đạo đức phải được đánh giá trong ba mối quan hệ cơ bản: mình đối với mình, mình đối với người và mình đối với”việc. Thứ nhất,“đối với mình chớ tự kiêu, tự đại. Tự kiêu, tự đại là khờ dại. Nếu mình hay, mình giỏi thì còn nhiều người hay, giỏi hơn mình. Tự kiêu, tự đại tức là thoái bộ, phải luôn luôn cầu tiến bộ vì không tiến bộ thì là dừng lại. Trong khi mình dừng lại thì người ta cứ tiến bộ, phát triển. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu, thụt lùi. Phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời nói, những việc làm để khắc phục những điều xấu, sửa chữa những khuyết điểm, phát triển điều hay, điều tốt của bản thân mình. Đồng thời cũng phải hoan nghênh người khác phê bình”mình. Thứ hai,“đối với người: không nịnh hót người trên, không khinh thường người dưới. Có thái độ thật thà, chân thành, đoàn kết, khiêm tốn. Phải học tập những điều hay, điều tốt của người khác và giúp người khác cùng tiến bộ. Thực hành chữ bác - ái.” Thứ ba,“đối với việc: phải đặt công việc nước lên trên, lên trước việc riêng, việc nhà. Đã phụ trách, nhận làm việc gì thì phải cố gắng làm cho kì được, không sợ khó khăn, không sợ nguy hiểm, phải làm cho đến nơi đến chốn. Bất kì là việc to hay việc nhỏ, phải có sáng kiến, lập ra kế hoạch, tiến hành làm cẩn thận, phải cố gắng, quyết tâm làm thành công. Việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng”tránh. 8 Tóm lại, trong những quan điểm của“Hồ Chí Minh, đạo đức không chỉ là những lí tưởng cao xa mà còn là những hành động, những việc”làm, những thái độ của mọi người trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động”hàng ngày, Bác Hồ đã nói: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [9, tr. 255]. Mặt khác, Bác còn cho rằng “đạo đức đời thường và đạo đức cách mạng là thống nhất với nhau, không có đạo đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường và cũng không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng”. Do đó,“không thể ngụy biện cho khuyết điểm của bản thân mình. Đạo đức chính là cái riêng mà phù hợp với cái chung (của Đảng, của cách mạng, của Tổ quốc, của nhân dân). Cái riêng mà đi ngược lại với cái chung là”vi phạm đạo đức hay nói cách khác là chủ nghĩa cá nhân. Như vậy, dựa trên kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì tác giả khóa luận“đưa ra khái niệm về đạo đức như sau: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức; là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm giúp con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của xã hội.” 1.1.2. Khái niệm “Đạo đức người thầy” Trong trước đến nay, người thầy luôn giữ“vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội, được mọi người tôn vinh và quý trọng. Người thầy là người không chỉ truyền đạt những tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm cho người học mà người thầy còn giáo dục, truyền đạt cho học sinh của mình những đạo đức, lẽ sống, đạo làm người. Như vậy, những người thầy chính là những tấm gương sáng để học sinh noi theo. Người thầy từ xưa đến nay luôn nhận thức được vai trò “người dẫn đường” của mình và họ đã luôn tuân theo những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để có thể hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của một nhà giáo 9 dục.”Đó là đạo đức của người thầy - những quy tắc“về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác phong của nhà giáo.” Đạo đức người thầy được nhìn nhận, phân tích dựa trên những nội dung cơ bản như sau: - Thứ nhất, về phẩm chất chính trị: + Gương mẫu trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, tích cực, chủ động, hăng hái tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. +“Chấp hành đúng các chính sách, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật. Ra sức trau dồi kiến thức, học tập, để rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, chính trị để từ đó áp dụng vào quá trình giáo dục, giảng dạy và đáp ứng được những yêu cầu của nhiệm vụ được giao.” +“Có ý thức kỉ luật, nghiêm túc thực hành mọi sự điều động, phân công của đơn vị; luôn ý thức trong tập thể, không ngừng phấn đấu làm việc vì lợi ích”của cộng đồng. - Thứ hai, về đạo đức nghề nghiệp: + Tận tuỵ và tâm huyết“với công việc; thực hiện đúng những quy định, quy chế, điều lệ nội quy của đơn vị, tổ chức, nhà trường, của ngành.” +“Tâm huyết với nghề, luôn có ý thức giữ gìn danh dự, có lương tâm người thầy; có tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ đồng nghiệp trong công tác và trong cuộc sống hàng ngày; có lòng bao dung, độ lượng, nhân ái, đối xử hoà nhã với người học và đồng nghiệp của mình; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người học, của đồng nghiệp và của cộng đồng”xã hội. + Thường xuyên“thực hiện phê bình và tự phê bình nghiêm túc; có ý thức học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học thường xuyên để hoàn thành”xuất sắc những công việc được giao, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. 10 + Thực hiện công bằng“trong quá trình giáo dục và giảng dạy, nhận xét, đánh giá đúng năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, kiên quyết đấu tranh chống lại tham nhũng, chống lại” bệnh thành tích. - Thứ ba, về lối sống, tác phong: +“Sống có lí tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí”Minh. +“Có tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong những mối quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo, phù hợp với nghề dạy học, chú ý không gây phản cảm và phân tán đến sự chú ý của người học.” +“Sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện, việc làm của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện, việc làm của lối sống lạc hậu, ích”kỉ. +“Xây dựng gia đình văn hoá, trong gia đình và ngoài xã hội thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công”cộng. +“Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao, giúp đỡ học sinh học tập tốt; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm các quy định nghề nghiệp. Có những quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp”luật, trái với đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục. - Thứ tư, về giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo: +“Không được tổ chức các hoạt động dạy thêm và học thêm trái với quy định”của pháp luật. +“Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất tinh thần đoàn kết 11 trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng”đồng. +“Không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện những hành vi trái pháp luật, những quy chế, những quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học, đồng nghiệp và nhân”dân. +“Không được chèn ép, trù dập và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, có thành kiến đối với người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong học tập, giảng dạy, rèn luyện của người học và đồng”nghiệp. +“Không được xâm phạm, xâm hại đến thân thể, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp và những người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của người học, đồng nghiệp và người”khác. +“Không được uống rượu, bia, hút thuốc lá, trong khu vực công sở, trong trường học và những nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.” +“Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với những quan điểm, chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước.” +“Không trốn tránh trách nhiệm, trốn tránh nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không được đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ tiết dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm những quy chế về chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỉ cương, nội quy, nề nếp của nhà trường.” + Không được sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi. +“Không được thiếu trung thực, gian lận trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện những nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.” +“Không tổ chức, tham gia những hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy, mại dâm, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá những văn hoá phẩm đồi truỵ, độc hại.” 12 Tóm lại, có thể hiểu đạo đức người thầy là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực“về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác phong của nhà giáo”nhằm giúp người thầy giáo điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với nghề giáo, với lợi ích của cộng đồng, xã hội. 1.1.3. Khái niệm “Bồi dưỡng đạo đức người thầy” Theo định nghĩa trong“từ điển Tiếng Việt: Bồi dưỡng là làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất.” “Theo các tài liệu của UNESCO, bồi dưỡng được định nghĩa như sau: Bồi dưỡng là một quá trình bổ sung, cập nhật thêm kiến thức, kĩ năng, thái độ để nhằm nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất của người lao động về một lĩnh vực hoạt động mà trong đó người học đã có một năng lực chuyên môn nhất định qua một hình thức đào tạo nào đó”từ trước. Do đó, chủ thể của quá trình bồi dưỡng đã được có hoặc đã được đào tạo chuyên môn từ trước; thực chất“của quá trình đào tạo đó là quá trình trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kĩ năng, truyền đạt thêm, bổ túc thêm một lượng kiến thức nhất định cho một đối tượng học tập cụ thể nhưng trong quá trình truyền đạt này phải là một quy trình khép kín cùng với những chuẩn mực và những pháp cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định;”và mục đích của quá trình bồi dưỡng là nâng cao phẩm chất hoặc năng lực chuyên môn để người học có cơ hội củng cố, trang bị, nâng cao những phẩm chất, những kĩ năng hoặc những tri thức đã có sẵn để giúp công việc đạt hiểu quả tốt hơn. Như vậy,“bồi dưỡng đạo đức người thầy là một quá trình trang bị, làm tăng thêm những phẩm chất đạo đức của người thầy về phẩm chất chính trị; về đạo đức nghề nghiệp; về lối sống, tác phong; về việc giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo cho đối tượng học tập cụ thể (ở đây là sinh viên sư phạm) để nhằm mục đích nâng cao những phẩm chất đạo đức của người thầy 13 để người học có những phẩm chất đầy đủ, toàn diện để đáp ứng được công việc sau này của”mình. Vì vậy, người thầy cần phải quan tâm, chú trọng thường xuyên bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức đáng quý của nhà giáo, thậm chí đó là việc cần phải bồi dưỡng suốt đời. 1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức ngƣời thầy 1.2.1. Các chuẩn mực đạo đức của người thầy 1.2.1.1. Phục vụ Tổ quốc gắn liền với phục vụ nhân dân Trong cuộc sống hàng ngày, con người bao gồm có nhiều mối quan hệ, nhưng quan hệ với Tổ quốc, quan hệ với nhân dân là rõ nhất, bao trùm nhất, mà Tổ quốc là của nhân dân, do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy phẩm chất đạo đức của người thầy là phục vụ Tổ quốc gắn liền với phục vụ nhân dân là quan trọng nhất. Trong buổi nói chuyện với thầy cô giáo lớp nghiên cứu chính trị khóa 1, trường Đại học Nhân dân, Người căn dặn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý” [14, tr. 378]. Giải thích về tính thiện cho các thầy giáo, cô giáo, Người nói: “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân” [14, tr. 453]. Thứ nhất, theo quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy, phục vụ Tổ quốc của người thầy gồm có những nội dung cơ bản sau: Người thầy giáo phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Trong Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục (tháng 6-1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Mà lợi ích của Đảng không có gì riêng tức là lợi ích của giai cấp, của dân tộc” [14, tr. 594]. Trong bất kỳ tình huống nào, người thầy cũng phải thực hiện tốt những đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước đưa ra là đào tạo con em của nhân 14 dân thành những người công dân có ích cho Tổ quốc, đưa nền giáo dục của nước nhà đạt đến trình độ tiên tiến của thời đại, đồng thời giải quyết tốt được những vấn đề thực tiễn của Việt Nam. Người thầy giáo phải“gương mẫu thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,”Bác nói: “Các cô, các chú đều là cán bộ, thì phải thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ để phục vụ nhân dân” [16, tr. 267]. Thứ hai, theo“quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy, phục vụ nhân dân của người thầy gồm có những nội dung cơ bản”sau: “Kính trọng nhân dân, tin vào sức mạnh của nhân dân. Theo quan niệm đạo đức cũ coi người dân phụ thuộc vào giai cấp cầm quyền thì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh người dân được đặt ở vị trí quan trọng nhất. Trong lớp nghiên cứu chính trị khóa 2, Trường Đại học Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh”giải thích: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [14, tr. 453]. Người thầy giáo phải học hỏi nhân dân, tin ở sức mạnh nhân dân, để đi đến phục vụ lợi ích của nhân dân. Theo Bác Hồ, được“phục vụ nhân dân là lẽ sống cao đẹp của người thầy giáo. Nhiệm vụ của thầy là xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, thực hiện giải phóng con người, phát triển con người toàn diện về thể chất và tinh thần, gắn liền lí luận với thực tiễn, đem”những tri thức của trường học áp dụng vào thực tiễn, làm phát triển kinh tế, xã hội nhằm mục đích nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân. Người thầy giáo phải học hỏi ở“nhân dân. Quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử, là những người làm ra của cải vật chất và sáng tạo ra giá trị tinh”thần; còn “Về cách dạy thì quần chúng công nhân, nông dân, trí thức có nhiều kinh nghiệm” [16, tr.269], thầy giáo, cô giáo phải học ở quần chúng nhân dân, “Không học nhân dân là một thiếu sót lớn” [10, tr.356]. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan