Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ luận văn Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn ...

Tài liệu luận văn Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Thành Phố Đà Nẵng

.PDF
91
339
63

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ LAN PHƯƠNG BIỆN PHÁP ĐƯA NGƯỜI NGHIỆN VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, NĂM 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ LAN PHƯƠNG BIỆN PHÁP ĐƯA NGƯỜI NGHIỆN VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN TUẤN KHANH HÀ NỘI, NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận là hoàn toàn trung thực và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này! Tác giả luận văn Lê Thị Lan Phương MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VIỆC ĐƯA NGƯỜI NGHIỆN VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................. 11 Khái niệm, đặc điểm người nghiện và cơ sở cai nghiện bắt buộc ........... 11 Quan niệm, đặc điểm của các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................... 20 Đối tượng, thời hiệu, thẩm quyền, trình tự thủ tục áp dụng các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................ 23 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ......................................................................... 31 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP ĐƯA NGƯỜI NGHIỆN VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................. 36 Khái quát chung về tình hình người nghiện ma túy và việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TP Đà Nẵng ................................... 36 Thực tiễn thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ năm 2015 đến nay ........................................................................ 40 Đánh giá chung về thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................... 48 CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ VIỆC THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP ĐƯA NGƯỜI NGHIỆN VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................................................ 59 Quan điểm về việc thực hiện các biện pháp............................................. 59 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................... 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCA : Bộ công an BLĐTB-XH : Bộ lao động thương binh – xã hội MTTH : Ma túy tổng hợp PCMT : Phòng chống ma túy PCI : Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial Competitiveness Index). QĐ : Quyết định TA : Tòa án nhân dân TP : Thành Phố DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Thống kê số liệu quyết định áp dụng biện pháp 2.1. đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của TAND 46 các quận, huyện Tp Đà Nẵng năm 2015 Thống kê số liệu quyết định áp dụng biện pháp 2.2. đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của TAND các quận, huyện Tp Đà Nẵng năm 2016. 47 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên hình hình 2.1. Thống kê lập hồ sơ cai nghiện công an TP. Đà Nẵng Trang 41 Thống kê người nghiện được đề nghị áp dụng 2.2. cai nghiện từ ngành Lao động-Thương binhXã hội TP Đà Nẵng 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ma túy luôn là mối hiểm họa không chỉ riêng mỗi quốc gia mà còn ảnh hưởng đến toàn thế giới. Nó đã và đang reo rắc hàng triệu cái chết trắng mỗi năm, đe dọa đến nền kinh tế và tình hình an ninh xã hội của các nước. Ở Việt Nam, cuộc chiến chống ma túy đã được tiến hành trong nhiều năm, nhất là sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Các chiến dịch xóa bỏ diện tích trồng cây thuốc phiện đã được tiến hành rộng khắp ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây nguyên. Cho đến những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ XX về cơ bản Việt Nam đã xóa bỏ được những diện tích lớn trồng cây thuốc phiện ở vùng núi và ngăn chặn tương đối có hiệu quả việc buôn bán vận chuyển ma túy vào nước ta. Ngày nay, bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đạt được vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế trong đời sống xã hội. Một trong những mặt hạn chế đó là lối sống lệch lạc,ăn chơi xa đọa, vi phạm thuần phong mĩ tục…Đáng báo động nhất là kể đến tình trạng nghiện ma túy trong đó một bộ phận lớn là thanh thiếu niên. Ma túy tồn tại dưới nhiều dạng mà tác hại của nó là khôn lường và để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Tình hình số người nghiện trong những năm qua không ngừng tăng cao và diễn biến khá phức tạp, rất khó kiểm soát. Trước tình hình như vậy Đảng ta đã xác định tệ nạn ma tuý đang là hiểm hoạ của quốc gia, dân tộc; là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS. Để hạn chế những hậu quả, tác hại do tệ nạn ma tuý gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế, xã hội và an ninh trật tự của đất nước, thì những đối tượng nghiện ma túy sau khi cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà vẫn tiếp tục tái nghiện sẽ được đưa vào các trung tâm cai nghiện bắt buộc tại địa phương. Những đối tượng này sau 1 khi đưa vào cơ sở sẽ được chữa bệnh, sinh hoạt, học nghề và cải tạo theo quy định của pháp luật để sau này tái hòa nhập cộng đồng, họ có thể tự nuôi sống bản thân bằng cái nghề mà họ đã được học khi đi cai. Theo thống kê, trên cả nước có khoảng 123 trung tâm cai nghiện bắt buộc (Tháng 8/2016) và con số này sẽ tăng dần trong vài năm tiếp theo. Tuy nhiên, vấn đề đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc trong các tỉnh, thành trên cả nước còn gặp nhiều vướng mắc và thiếu sót. Một mặt các văn bản hướng dẫn còn nhiều bất cập, chưa sát thực với tình hình của địa phương, mặt khác tình hình người nghiện và đặc thù của mỗi địa phương là khác nhau nên chưa có sự áp dụng đồng nhất theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, mỗi địa phương cần phải chủ động, linh hoạt trong việc áp dụng đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phù hợp với điều kiện và đặc thù của mình để đảm bảo trật tự an ninh-xã hội và các vấn đề khác trên địa bàn. Đà Nẵng là đơn vị đi đầu trong cả nước thí điểm thành công đưa người nghiện đi cai bắt buộc và là địa phương đầu tiên chủ động, linh hoạt tháo gỡ những bất cập trong các văn bản hướng dẫn thi hành việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện, phù hợp với tình hình của địa phương mà không vi phạm pháp luật. Trong những năm qua, TP đã nổ lực không ngừng trong việc truy quét, xác định và bắt tạm giam các đối tượng bị nghiện nhằm mục đích cai nghiện và giữ vững nền trị an trên địa bàn. Ban đầu, công tác này còn gặp nhiều khó khăn do vướng mắc về luật, các đối tượng thường xuyên di chuyển địa điểm và không xác định được nơi cư trú. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các cơ quan chức năng đã chủ động xử lý nhằm ngăn chặn các đối tượng bị nghiện lẫn trốn sang địa phương khác và hạn chế tối đa tệ nạn lây lan. Hầu hết các đối tượng bị nghiện đã được cai nghiện tại cộng đồng, gia đình hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Một số ít khi cai nghiện thành công vẫn tái nghiện do tâm lý không vững bị kích động, rủ rê bởi một số thành phần xấu. Mặc dù việc đưa 2 người đi cai nghiện có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Tỉ lệ người cai nghiện tại cộng đồng tái nghiện trở lại chiếm tỉ lệ cao hơn so với cai nghiện tại cơ sở. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến gia đình và địa phương. Trong khi đó, với tâm lý hoang mang, ngại cai nghiện nên không ít gia đình đã che giấu hành nghiện ma túy của con em mình dẫn đến tình trạng tệ nạn ngày càng mở rộng và trở nên nghiêm trọng. Việc đưa người nghiện vào trung tâm cai nghiện bắt buộc cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan chức năng. Dù là ở vị trí nào thì mỗi cơ quan đều thực hiện tốt nhiệm vụ của mình và từng bước đẩy lùi tỉ lệ người nghiện trên địa bàn đến mức thấp nhất. Quan trọng hơn, với chính sách tốt dành cho học viên cai nghiện, với cơ sở đáp ứng nhu cầu tối thiểu nên trong những năm qua, TP Đà Nẵng chưa có trường hợp người cai nghiện có hành vi quấy rối, đập phá và trốn trại ra ngoài như một số tỉnh thành trên cả nước. Để đạt được như vậy là nhờ vào sự quan tâm kịp thời của ban lãnh đạo TP cũng như sự cố gắng của đội ngũ cán bộ các cơ quan chức năng để đảm bảo xây dựng một TP 5 KHÔNG, TP đáng sống. Đà Nẵng hiện nay có Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 với diện tích hơn 37 ha. Đây là trung tâm cai nghiện tập trung của địa phương được xây dựng và đầu tư cơ sở vật chất khang trang. Bên cạnh đó, những đối tượng chưa xác định được nơi cư trú ổn định sẽ được đưa vào trại xã hội Bầu Bàng, cơ sở này nằm trong khu vực của trung tâm 05-06. Tuy đã được được mở rộng gấp đôi nhưng trung tâm 05-06 vẫn không đủ chỗ cho các học viên cai nghiện. Mặc dù pháp luật còn một số vướng mắc trong thực tiễn nhưng TP đã kịp thời ban hành QĐ 28/2014/QĐ-UBND, chỉ thị số 37-CT/TU chủ động tháo gỡ và “phá rào” để việc thực hiện đưa người vào cơ sở cai nghiện được diễn ra nhanh chóng không mất nhiều thời gian, không phải chờ đợi văn bản hướng dẫn từ cấp trên…tránh tình trạng người nghiện lẫn trốn hoặc gây ra những hành vi đe dọa đến an ninh trật tự trên địa bàn. Cơ quan Công an, ngành Lao động-Thương 3 binh- Xã hội và Tòa án đã cùng nhau phối hợp thực hiện kiểm ra, rà soát, lập hồ sơ, đề nghị cai nghiện và đưa ra quyết định áp dụng các biện pháp đối với người nghiện. Công việc này được thực hiện đúng quy trình, thủ tục theo luật định mà không có sự đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan với nhau. Hơn nữa, các cán bộ thực hiện luôn ý thức được nhiệm vụ, trách nhiệm mình cần phải làm trên tinh thần làm việc theo pháp luật, đúng chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Mặc khác việc tập huấn, trao đổi, kiến nghị thường xuyên thực hiện giữa các ngành có liên quan trong TP, năng lực chuyên môn được nâng cao qua thực tiễn áp dụng; điều này đã thúc đẩy công tác phòng chống tệ nạn ma túy cũng như đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc được thực hiện nhanh và hiệu quả. Với tinh thần cai nghiện để trở thành người bình thường, giảm bớt gánh nặng cho gia đình, xã hội người nghiện đã ý thức được cai nghiện là điều nên làm. Thêm vào đó, sự quan tâm kịp thời của ban lãnh đạo TP, trung tâm cai nghiện và các cơ sở được đầu tư cơ sở vật chất đàng hoàng, chỉnh chu, chính sách, chế độ đảm bảo được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của các học viên trong quá trình điều trị chữa bệnh; để sau khi trở về cộng đồng, các học viên ý thức được tác hại, hậu quả của việc sử dụng ma túy, có tâm lý vững vàng không bị thành phần xấu lôi kéo dụ dỗ… Làm được điều này,không chỉ các cơ quan liên quan cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ, không chỉ học viên ý thức được việc cai nghiện là bắt buộc, cần thiết; mà cần có sự trợ giúp của cộng đồng. Tức là cộng đồng xã hội phải thay đổi tư duy tiêu cực theo lối mòn về người nghiện, thay đổi thái độ, cách nhìn nhận…để những người nghiện không bị mặc cảm, áp lực mà tự tin bắt đầu lại cuộc sống của mình sau khi tái hòa nhập cộng đồng. Dự báo trong thời gian tới, với những diễn biến tình hình phức tạp và những hạn chế về tình hình kinh tế-xã hội, việc lập hồ sơ đưa người nghiện vào các trung tâm cai nghiện khó khăn; xã hội chưa đủ các điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí cho cai nghiện tại cộng đồng, điều trị cai nghiện ma túy bằng 4 Methadone; MTTH đang được giới trẻ truyên truyền ca tụng, xu hướng sẽ có gia tăng đột biến ở Việt Nam, là những điều kiện, mầm mống cho tệ nạn ma túy gia tăng, số lượng người nghiện trên cả nước nói chung và TP Đà Nẵng nói riêng sẽ diễn biến phức tạp hơn nữa, không ngừng gia tăng đến mức báo động. Điều đó đòi hỏi phải chú trọng nâng công tác phòng chống ma túy, xây dựng hệ thống pháp luật có tính tiên đoán tương lai, đào tạo nâng cao nghiệp vụ bài bản, linh hoạt đối phó với những tình huống bất ngờ xảy ra…để giảm thiểu phần nào sự gia tăng của những đối tượng nghiện ma túy sau này. Trong đó, một vấn đề quan trọng là cần phải nghiên cứu những kinh nghiệm tốt để tiếp tục phát huy cũng như hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để kịp thời tháo gỡ. Chính vì vậy mà học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài luận văn “Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Thành Phố Đà Nẵng”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, đặc biệt là từ khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, vấn đề thực hiện pháp luật về việc đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc đang được đặt ra là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân. Tuy nhiên, việc xem xét thực hiện pháp luật và hiệu quả thực hiện pháp luật là một vấn đề phức tạp và mới mẻ cho nên số lượng số lượng nghiên cứu khoa học về đề tài này còn quá ít. Các đề tài liên quan đến lĩnh vực này chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ là những bài tổng kết thường niên, hoặc những bài viết mang tính chất tham khảo, rút kinh nghiệm…mà chưa đi vào thực tiễn ngọn nguồn của vấn đề. Hiện nay, chưa có một đề tài nào nghiên cứu toàn diện và quy mô về việc “đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc”. Qua quá trình đọc tài liệu, tham khảo, tác giả thấy rằng hầu hết các công trình nghiên cứu, các bài viết, bài báo…chỉ dừng lại ở mức độ trao đổi, bình luận về lĩnh vực ma túy và người nghiện ở các khía cạnh khác nhau. Nếu có thì phải chăng những bài viết 5 đó chỉ mang tính chất cộng đồng, tức là bàn luận về những vấn đề nổi trội hoặc là trình bày những vấn đề thời sự liên quan đến người nghiện, biện pháp cai nghiện với mục đích là thống kê và dự đoán, cảnh báo mức độ nghiêm trọng chứ chưa nghiên cứu sâu để bàn luận và đưa ra giải pháp áp dụng thực tiễn. Liên quan đến lĩnh vực này, đã có một số công trình nghiên cứu phải kể đến như: Luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” (năm 2014) của tác giả Phạm Tiến Thành bảo vệ thành công tại khoa luật- Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn này đã chỉ ra được những biện pháp xử lý hành chính dựa trên quy định của pháp luật, nhưng lại chưa nêu rõ việc xử lý hành chính đó có phù hợp hay không, trong trường hợp nào cần phải đưa vào cơ sở cai nghiện, trường hợp nào không? Phần lý luận còn mang tính pháp lý, chưa nêu được điểm nổi trội và áp dụng vào thực tiễn. Luận văn thạc sĩ “Đảm bảo quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt buộc qua thực tiễn thành phố Hải Phòng” (năm 2016) của tác giả Nguyễn Quốc Hiệu bảo vệ thành công tại khoa luật-Đại học quốc gia Hà Nội. Đây là đề tài nêu cao tinh thần bảo vệ quyền con người mà trước đó chưa có một công trình nghiện cứu nào đề cập đến. Tính nhân văn, nhân đạo được đề cao và tôn trọng. Quyền con người là yếu tố quan trọng trong luận văn, nhưng tác giả chưa đi sâu vào phân tích, chưa luận giải được lý do tại sao đưa đi cai nghiện bắt buộc thì quyền con người bị hạn chế; để đảm bảo được quyền con người thì cần phải làm gì?. Bên cạnh đó, việc lý giải vấn đề về quyền con người trong việc đưa người nghiện đi cai tại cơ sở bắt buộc vẫn chưa đủ thuyết phục cao. Việc vi phạm quyền con người trong các trại cai nghiện hiện nay vẫn chưa được đề cập đến. Bài viết “Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong dự thảo luật xử lý vi phạm hành chính” của tác giả Đào Thị Thu An được đăng trong Tạp chí nghiên 6 cứu lập pháp số 20/2011. Ở bài viết này, tác giả Thu An đề cập đến những điểm mới trong việc đưa người vào cơ sở chữa bệnh, chỉ ra được ưu điểm cả các biện pháp được đưa ra trong dự thảo. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại ở góc độ đánh giá dựa trên ý chí chủ quan mà chưa đưa ra được nhận xét tổng thể về biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong dự thảo luật xử lý vi phạm hành chính. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp “Các biện pháp XLHC khác và việc bảo đảm quyền con người” do Thạc sĩ Đặng Thanh Sơn làm chủ nhiệm đề tài cũng nhóm nghiên cứu Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố “Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai” của Tiến sĩ Nguyễn Thành Công, Hà Nội 2003. Việc nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai được tác giả nêu lên cụ thể, các giải pháp được đề ra có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiện cứu các gải pháp phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành mà chưa đưa ra được định hướng giải pháp về lâu dài để áp dụng vào thực tiễn. “Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi giai đoạn 2001-2010”, Uỷ ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tế nạn ma túy, mại dâm, Hà Nội, 2002. Báo cáo“ sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của thủ tướng chính phủ về cai nghiện-phục hồi”, Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, Hà Nội, 2004 Tài liệu “Giới thiệu và hướng dẫn áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu quả, Cục phòng chống tệ nạn xã hội”, Hà Nội 2007. Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách tiếp cận khác nhau. Như vậy, có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu, tài liệu đã được liệt kê trên chỉ mới đề cập rất ít tới vấn đề người nghiện và cai nghiện mà chưa có đề tài nào nghiên cứu tổng thể về lý luận và thực tiễn về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đặc biệt là trong phạm vi thực tiễn tại TP 7 Đà Nẵng. Tuy vậy, trong quá nghiên cứu các công trình đã được công bố đó, tác giả đã tham khảo được nhiều các vấn đề về lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề đã được nêu ra trong các công trình khoa học đó. Do đó, tác giả hy vọng rằng, với đề tài này, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đây sẽ là luận văn có tính khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn cũng như góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TP Đà Nẵng nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy và hạn chế thấp nhất số người nghiện còn tồn tại ở ngoài cộng đồng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích nghiên cứu : Luận văn nghiên cứu những vẫn đề lý luận, pháp luật về biện pháp đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn tại TP Đà Nẵng, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung và TP Đà Nẵng nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Quan niệm, đặc điểm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các bảo đảm thực hiện các biện pháp…. Đánh giá đúng đắn thực trạng pháp luật và việc thực hiện các quy định của pháp luật về các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TP Đà Nẵng, chỉ ra được các ưu điểm cũng như những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế vướng mắc đó. Đưa ra quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt 8 buộc cho các tỉnh, thành phố nói chug và TP Đà Nẵng nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện các Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 4.2. Phạm vi nghiên cứu Không gian: Nghiên cứu biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TP Đà Nẵng Thời gian: Từ năm 2015 đến nay 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam về hoàn thiện pháp luật với vấn đề cai nghiện bắt buộc. Đề tài được thực hiện dựa trên góc độ tiếp cận lý luận và thực tiễn để từ đó hoàn thiện hệ thống pháp luận trong việc áp dụng đối với các đối tượng bị nghiện hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp khoa học xã hội, bao gồm phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp hệ thống, phương pháp liệt kê, phương pháp phân tích và tổng hợp để nghiên cứu cơ sở lý luận khoa học, hoàn thiện hệ thống lý luận pháp lý. Các phương pháp được sử dụng linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và tính thuyết phục của việc nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Làm rõ khái niệm, nội dung về các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn TP Đà Nẵng. Từ đó liên hệ dẫn chứng đến các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề này. 9 Hệ thống khái quát các quy định pháp luật về việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để đánh giá cụ thể, chi tiết có cơ sở thực tiễn góp phần hoàn thiện hệ thống khoa học pháp lý chuyên ngành, cung cấp luận cứ cho khoa học cho việc tham khảo để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật nói chung. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn : Những luận điểm trên là cơ sở khoa học để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện sách pháp luật và nâng cao hiệu quả chính sách, pháp luật về thực hiện các biện đưa đi cai nghiện bắt buộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Luận văn có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật ở bậc cao đẳng, đại học hoặc sau đại học về nội dung đưa người đi cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương sau: Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng. Chương 2. Thực trạng thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng. Chương 3. Quan điểm, giải pháp về việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại các tỉnh, thành phố. 10 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VIỆC ĐƯA NGƯỜI NGHIỆN VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Khái niệm, đặc điểm người nghiện và cơ sở cai nghiện bắt buộc Quan niệm chung về ma túy và người nghiện ma túy 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ma túy Ma túy, nghiện ma túy là những khái niệm quen thuộc và được sử dụng khá rộng rãi ở Việt Nam. Đại đa số người dân đều hiểu và gắn ma túy với một số chất gây nghiện nguy hiểm như: thuốc phiện, cần sa và đặc biệt là heroine.Tuy nhiên, ma túy hiểu theo nghĩa rộng còn bao gồm cả những chất gây nghiện được sử dụng hợp pháp khác như: rượu bia, thuốc lá, cà phê, thuốc an thần… Vậy cần phải hiểu một cách đầy đủ và chính xác về khái niệm “Ma túy”. Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích mà sử dụng nhiều lần có thể gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Trên thực tế, chưa có một định nghĩa chung thống nhất nào về khái niệm như thế nào là ma túy và ở mỗi góc độ tiếp cận, ma túy lại được hiểu theo những cách khác nhau. Dưới góc nhìn khoa học: Ma túy là các chất có khả năng tác động lên hệ thần kinh trung ương, có tác dụng giảm đau, gây cảm giác hưng phấn, dễ chịu; dùng nhiều lần sẽ đưa đến tình trạng lệ thuộc vào ma túy.[29] Theo định nghĩa của Tổ chức Liên Hợp Quốc, ma tuý được hiểu là “Các chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ làm thay đổi trạng thái tâm sinh lý của người sử dụng”. Tổ chức Y tế thế giới cũng đưa ra khái niệm như sau: “Ma túy là các chất độc, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng”. Bộ luật Hình sự Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 21/12/1999 và 11 có hiệu lực thi hành từ 1/6/2000 quy định về ma tuý theo hướng liệt kê như sau: Ma tuý bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, lá, hoa, quả cây cần sa, quả thuốc phiện khô, quả thuốc phiện tươi, heroine, cocaine, các chất ma tuý khác ở thể lỏng hay thể rắn. Luật Phòng, Chống ma tuý của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 9/12/2000, sửa đổi bổ sung năm 2008, tại điều 2 khoản 1 khoản 2 khoản 3 cũng góp phần làm rõ khái niệm ma túy thông qua định nghĩa về chất ma túy: - Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. - Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. - Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Từ những định nghĩa được đưa ra trên đây, ta có thể khái quát một cách chung nhất rằng: Ma túy dùng để chỉ các chất gây nghiện thuộc loại nguy hiểm nhất: thuốc phiện, morphine, heroin, cocain, cần sa và một số thuốc tổng hợp có tác dụng tương tự morphine được sử dụng trong điều trị y tế. Như vậy, ma túy là chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi đưa vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng tâm-sinh lý của cơ thể. Sử dụng ma túy nhiều lần sẽ bị lệ thuộc cả về thể chất lẫn tâm lý, gây hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân, gia đình và xã hội. Từ những tác hại mà nó gây ra cho cơ thể và sức khỏe của con người, các chất ma túy được phân chia thành nhiều loại dựa theo những căn cứ khác nhau như: nguồn gốc, mục đích sử dụng, mức độ tác động lên hệ thần kinh… Tuy nhiên, việc phân loại này cũng chỉ mang tính chất tương đối trong bối cảnh việc sử dụng các chất ma túy luôn luôn biến đổi khôn lường. Có thể liệt kê ra đây những cách phân loại chính như sau: 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan