Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án tiến sĩ nhà nước kiến tạo phát triển lý luận và triển vọng thực tiễn ở...

Tài liệu Luận án tiến sĩ nhà nước kiến tạo phát triển lý luận và triển vọng thực tiễn ở việt nam

.PDF
201
14
124

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH MAI THỊ HỒNG LIÊN NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VÀ TRIỂN VỌNG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2019 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH MAI THỊ HỒNG LIÊN NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VÀ TRIỂN VỌNG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 62.31.02.01 Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. NGÔ HUY ĐỨC 2. PGS.TS. HỒ TẤN SÁNG HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án với đề tài "Nhà nước kiến tạo phát triển Lý luận và triển vọng thực tiễn ở Việt Nam" là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những tài liệu tham khảo, số liệu, thông tin được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn theo đúng quy định. Tác giả luận án Mai Thị Hồng Liên MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình nghiên cứu về nhà nước và vai trò của nhà nước trong sự phát triển 1.2. Những công trình nghiên cứu về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển và vai trò của nó đối với sự phát triển 1.3. Đánh giá chung về các nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu Chương 2: NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Khái niệm "nhà nước kiến tạo phát triển": nguồn gốc, sự phát triển và các nội dung chính 2.2. Yêu cầu tổng quát và các điều kiện chủ yếu đối với nhà nước kiến tạo phát triển 2.3. Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển từ góc nhìn thực tiễn Chương 3: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG NHẬN ĐỊNH BƯỚC ĐẦU 3.1. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 3.2. Nhà nước kiến tạo phát triển - qua nghiên cứu trường hợp ở thành phố Đà Nẵng 3.3. Những nhận định bước đầu về quá trình xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam Chương 4: NH N DI N NH NG RÀO C N VÀ TRI N V NG TH C TI N C A NHÀ N C KI N T O PHÁT TRI N VI T NAM 4.1. Những rào cản trong việc xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam hiện nay 4.2. Một số vấn đề cần giải quyết góp phần xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Trang 1 7 7 14 33 37 37 44 60 75 75 84 116 128 128 141 149 152 153 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNXH : Chủ nghĩa xã hội CPI : Chỉ số cảm nhận tham nhũng GRDP : Tổng sản phẩm trên địa bàn ICT : Chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin KTTT : Kinh tế thị trường MITI : Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế và sự thần kỳ của Nhật Bản PAPI : Diễn đàn hợp tác châu Á - Thái Bình Dương PCI : Chỉ số năng lực cạnh tranh TBCN : Tư bản chủ nghĩa UBND : Uỷ ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những thập niên qua và nhất là trong những năm gần đây, chính sự sụp đổ của các nền kinh tế mệnh lệnh, kiểm soát của Liên Xô và các nước Đông Âu, sự khủng hoảng tài chính của các nhà nước phúc lợi ở hầu hết các nước công nghiệp phát triển, sự phát triển "thần kỳ" của nền kinh tế ở các nước Đông Á và Đông Nam Á, sự nảy sinh các cuộc xung đột chính trị - xã hội ở một số nước… đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại những vấn đề căn bản của nhà nước - nhà nước có vai trò như thế nào, nhà nước nên làm gì, không nên làm gì và làm như thế nào là tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển; làm thế nào để xây dựng được một nhà nước hợp lý, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường? Đây là vấn đề mà các chính phủ phải cân nhắc, lựa chọn, quyết định. Thuật ngữ "Nhà nước kiến tạo phát triển" ở Việt Nam do người đứng đầu Chính phủ đề cập lần đầu vào năm 2011, và sau đó năm 2016, được khẳng định lại bởi Thủ tướng đương nhiệm. Tại phiên họp thường kỳ đầu tiên của Chính phủ vào tháng 4/2016, trên cơ sở Hiến pháp 2013 (sửa đổi) và Luật Tổ chức Chính phủ, các thành viên Chính phủ đã dành thời gian để thảo luận về phương thức chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong thời gian tới. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tổng kết lại 06 định hướng lớn, trong đó nhấn mạnh: Chính phủ kiến tạo tiếp tục là nội dung trọng tâm của nhiệm kỳ Chính phủ 2016 - 2021. Sau đó, ngày 18/11/2017 khi trả lời chất vấn tại Quốc hội, Thủ tướng cho biết "Chính phủ kiến tạo tức là chủ động thiết kế chính sách, pháp luật để đất nước phát triển". Theo ông, đây là điểm khác biệt cơ bản với mô hình Chính phủ truyền thống, tức "Chính phủ quản lý, điều hành" [79]. Qua đó cho thấy, thuật ngữ "Nhà nước kiến tạo phát triển" hay "Chính phủ kiến tạo phát triển" đều không có hàm ý về một mô hình tổng thể nhà nước mới, mà có hàm ý về vai trò, cũng như cách thức chủ động thúc đẩy phát triển của nhà nước, đặc biệt là của chính phủ trong thời kỳ hiện nay. Như vậy, có thể thấy thuật ngữ "nhà nước kiến tạo phát triển" cũng bao hàm nội dung chủ yếu của các thuật ngữ như "Developmental State", "Capitalist Developmental State", "Coordinated Market Economies" trong các nghiên cứu chính trị học trên thế giới, vì đây đều là các khái niệm chỉ sự chủ động kiến tạo của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Trong sự nhìn nhận đó, các vấn đề lý luận 2 cũng như các vấn đề thực tiễn, các điều kiện và các rào cản đặt ra cho nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam cũng sẽ tương tự như các vấn đề mà các nước khác trên thế giới đã gặp khi áp dụng cách thức chủ động định hướng, kiến tạo sự phát triển mà không thuần túy chạy theo các tín hiệu của thị trường một cách bị động. Thuật ngữ "nhà nước kiến tạo phát triển" (Developmental state) do Chalmers Johnson đưa ra và phát triển một cách có hệ thống khi nghiên cứu các nước đã thành công trong quá trình công nghiệp hóa nhanh (đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v…) thông qua sự định hướng chủ động của nhà nước. Mặc dù cũng là nhà nước tư bản chủ nghĩa (TBCN), song nhà nước kiến tạo phát triển sẽ khác biệt căn bản so với cách nhìn nhận về vai trò nhà nước của chủ nghĩa tự do cổ điển, tức nhà nước điều tiết (Regulatory state) - mô hình nhà nước nhấn mạnh vai trò trung tâm của thị trường, cạnh tranh tự do và cơ chế "bàn tay vô hình" trong phát triển, và cho rằng vai trò của nhà nước chỉ có tính bị động, tức chỉ khi nào thị trường thất bại thì mới cần nhà nước "điều tiết" các thất bại đó. Khác với nhà nước điều tiết, nhà nước kiến tạo phát triển sẽ có tính chủ động, không chỉ là khắc phục các thất bại thị trường, mà tập trung kiến tạo thị trường theo tầm nhìn của cả quốc gia và tận dụng các lợi thế cả về kinh tế và chính trị của nhà nước. Trong đó, tập trung vào việc thiết kế các chủ trương, định hướng cụ thể, và cùng với đó là các chính sách tập trung nguồn lực, tạo dựng cơ chế ưu tiên vào các lĩnh vực trọng tâm, đặc biệt trong các chính sách về công - thương nghiệp. Chẳng hạn như Nhật Bản tập trung vào công nghiệp ô tô trong những năm 1970, hay Malaysia sau này tập trung vào công nghiệp điện tử, Ấn Độ tập trung vào công nghiệp phần mềm, v.v… Tất nhiên, nhà nước kiến tạo phát triển là vấn đề còn phải tranh luận vì chưa có câu trả lời rõ ràng cho việc "nhà nước định hướng" liệu có tốt hơn là "thị trường định hướng"? Hay khi nào thì "nhà nước chủ động kiến tạo, định hướng" sẽ tốt hơn để cho "thị trường chọn lọc, đào thải"? Hoặc nhà nước định hướng ở mức độ nào là hợp lý? Bởi lẽ ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó có Việt Nam đã có thời kỳ định hướng đến từng mặt hàng với số lượng, kế hoạch cụ thể trong nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp và đã thất bại vì không dựa vào các tín hiệu của người dân, của đời sống xã hội, trong khi thị trường là kênh truyển tải thông tin đó tốt nhất. Đây là vấn đề có tính lý thuyết chủ yếu, mà chỉ có thể trả lời thông qua việc 3 nghiên cứu các trường hợp cụ thể, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn vận hành một nhà nước kiến tạo phát triển (ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, v.v… và với mức độ nhất định ở Việt Nam). Chính vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề "Nhà nước kiến tạo phát triển - Lý luận và triển vọng thực tiễn ở Việt Nam" làm đề tài luận án Tiến sĩ Chính trị học của mình. Việc nghiên cứu đề tài luận án nhằm luận giải các câu hỏi sau đây: (1) Nhà nước kiến tạo phát triển là gì - Nguồn gốc, sự phát triển, bản chất và nội hàm của khái niệm? Đây có phải là một kiểu nhà nước hay một loại hình nhà nước mới trong lịch sử phát triển của các thể chế nhà nước? Các mô hình nhà nước kiến tạo phát triển trong thực tiễn? Các tính chất, các yêu cầu, điều kiện cần thiết của một nhà nước kiến tạo phát triển là gì? (2) Đối với Việt Nam, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, liệu mô hình nhà nước kiến tạo phát triển có còn phù hợp hay có thể áp dụng? Nếu có, những đặc điểm, tính đặc thù cũng như những thời cơ, thách thức, những rào cản và triển vọng thực tiễn về một nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam là gì? Cần làm gì để xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở nước ta hiện nay? Đó là những nội dung cơ bản mà luận án tập trung luận giải và bước đầu đi tìm câu trả lời. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu Xây dựng khung lý thuyết về nhà nước kiến tạo phát triển. Trên cơ sở đó, xác định các tính chất, các điều kiện cần thiết, các cản trở và triển vọng thực tiễn về nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ - Hệ thống hóa những kết quả và những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn liên quan đến nhà nước kiến tạo phát triển trên thế giới và ở Việt Nam; - Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nước kiến tạo phát triển; - Khảo cứu, phân tích, nhận diện những đặc điểm, tính chất, những yêu cầu, điều kiện cần thiết của nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam qua khảo sát sâu trường hợp của thành phố Đà Nẵng; - Nhận diện các rào cản và gợi mở một số vấn đề về triển vọng thực tiễn ở Việt Nam. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Các chính sách, biện pháp, hành động mang tính chủ động định hướng, kiến tạo phát triển của nhà nước đối với thị trường và xã hội. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu, xây dựng khung lý thuyết về nhà nước kiến tạo phát triển. Trên cơ sở đó, luận án tập trung khảo cứu nội dung, yêu cầu, đặc điểm và khả năng trở thành hiện thực của nhà nước kiến tạo phát triển qua tổng kết thực tiễn ở Việt Nam và trường hợp cụ thể của thành phố Đà Nẵng (có so sánh, đối chiếu với một số tỉnh thành khác trên cả nước). - Về không gian và thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu các tài liệu, các công trình khoa học đã công bố trên thế giới về nhà nước kiến tạo phát triển ở một số nước (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,...) trong thời kỳ thực hiện chính sách công nghiệp hóa; Thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và chính quyền thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997 đến 2018. 4. Phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước làm cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu. Ngoài ra, do đối tượng nghiên cứu của luận án liên quan đến nghiều ngành khoa học khác nhau, nên ngoài cách tiếp cận chính trị học Mác - Lênin, luận án cũng tiếp cận những lý thuyết về nhà nước kiến tạo phát triển được dựa trên cơ sở lý luận Kinh tế Chính trị học Thể chế thay cho Kinh tế học Tân tự do, có kế thừa, tham khảo các công trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước để làm rõ mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Chính trị học và khoa học liên ngành; một số phương pháp cụ thể như lôgic - lịch sử, diễn giải - quy nạp, phân tích - tổng hợp, so sánh, thu thập dữ liệu, khảo cứu tài liệu... Trong đó, do tính chất 5 mới của vấn đề, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study), vốn thích hợp cho việc phát hiện các vấn đề mới, cũng như cho việc đề xuất các giả thuyết cho các nghiên cứu tiếp theo trên diện rộng hơn. - Phương pháp thu thập dữ liệu và khảo cứu tài liệu được sử dụng để phân tích, đánh giá, tổng kết các công trình đã nghiên cứu, các kinh nghiệm, các dữ liệu thực tiễn liên quan đến đề tài luận án. - Phương pháp lôgic - lịch sử được sử dụng trong khái quát, hệ thống hóa các vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển trên thế giới hiện nay. - Phương pháp quy nạp - diễn dịch được sử dụng để rút ra các nhận định, kết luận từ những minh chứng cụ thể và suy luận, giải thích một cách lôgic những vấn đề liên quan đến đề tài luận án. - Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để phân tích, đánh giá, nhận diện các vấn đề đặt ra và xác định các giải pháp về triển vọng thực tiễn của một nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam. - Phương pháp so sánh được sử dụng khi nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước, đánh giá các chính sách, biện pháp, hành động mang tính định hướng, chủ động kiến tạo phát triển của nhà nước đối với thị trường và xã hội ở các nước, cũng như ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. - Phương pháp nghiên cứu trường hợp được sử dụng để lựa chọn các trường hợp nghiên cứu thể hiện vai trò chủ động định hướng, kiến tạo của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, tìm kiếm, phát hiện ra những vấn đề mới về triển vọng của Nhà nước kiến tạo phát triển hợp lý, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển ở Việt Nam hiện nay. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án đã góp phần phát triển một hướng nghiên cứu về triển vọng của nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam, cụ thể là: - Trình bày các cách tiếp cận để luận giải hệ tiêu chí cơ bản cũng như những yêu cầu, điều kiện của nhà nước kiến tạo phát triển, đó là: (1) Nhà nước kiến tạo phát triển chủ động định hướng, can thiệp nhưng phải phù hợp với các nguyên tắc cạnh tranh của thị trường; (2) nhà nước đó có ý chí chính trị và tầm nhìn phát triển nhất quán, xuyên suốt với các chiến lược, chính sách ưu tiên, đặc thù; (3) có bộ máy 6 quản lý hành chính chuyên nghiệp, hiệu quả, tự chủ, đủ năng lực, đủ thẩm quyền, có quan hệ mật thiết với khu vực tư, không bị thao túng bởi các lợi ích nhóm; (4) đó là nhà nước quản lý xã hội hiệu quả và công bằng, có khả năng thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; và (5) tính chủ động định hướng, can thiệp của nhà nước kiến tạo phát triển đối với thị trường và xã hội được dựa trên cách tiếp cận Kinh tế Chính trị học thể chế thay cho Kinh tế học tân tự do. - Nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt khảo sát sâu trường hợp của thành phố Đà Nẵng, về tính chủ động định hướng, kiến tạo của nhà nước và chính quyền địa phương trong (1) xây dựng tầm nhìn và tư duy phát triển nhất quán với việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển một cách có hiệu quả, hợp lòng dân; (2) vận dụng sáng tạo, hiệu quả các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển; (3) xây dựng cơ chế vận hành của hệ thống chính trị theo hướng kiến tạo, phục vụ, công khai, minh bạch, thực hiện trách nhiệm giải trình, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; (4) làm tốt công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, hiệu quả, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; (5) tập trung nguồn lực cho phát triển các ngành kinh tế trong từng chủ trương, chính sách, đề án; (6) quản lý xã hội hiệu quả, đảm bảo sự phân phối tương đối công bằng các lợi ích cộng đồng, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, môi trường. - Từ việc đánh giá những thành quả đạt được và những khó khăn, vướng mắc, những vấn đề nổi cộm nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển ở thành phố Đà Nẵng, luận án nhận diện những yếu tố thành công và thất bại của nhà nước kiến tạo phát triển, những yếu tố nền tảng, những rào cản và một số gợi mở, khuyến nghị về chính sách, thể chế, các nguồn lực về triển vọng thực tiễn của một nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án sẽ là tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành Chính trị học ở Việt Nam nói chung và là tài liệu nghiên cứu lý luận về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển nói riêng. - Luận án là tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện chính sách và triển vọng xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam. 7. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN Có thể nói, có rất nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến các mô hình thể chế nhà nước cũng như vai trò của nhà nước đối với sự phát triển nói chung và đối với nền kinh tế thị trường (KTTT) nói riêng. Từ thực tiễn hoạt động của các thể chế nhà nước trên thế giới, đã nảy sinh rất nhiều vấn đề mà các học giả, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm như mô hình nhà nước nào là tốt nhất, phù hợp nhất đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay? Hay nhà nước nên làm gì và làm như thế nào để thúc đẩy sự phát triển? Trong mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, nhà nước nên chủ động can thiệp, tác động đến thị trường hay để thị trường tự điều tiết, tự vận động theo các quy luật khách quan của thị trường? Và nếu có can thiệp, thì cách thức và mức độ can thiệp của nhà nước đối với thị trường như thế nào để đạt hiệu quả cao hơn trong sự phát triển? Hoặc là nguyên nhân nào dẫn đến sự thành công cũng như sự thất bại của một số nhà nước trên thế giới? v.v... Để lý giải cho vấn đề này, các tác giả với các công trình khoa học, tuy có sự luận giải khác nhau, nhưng đều có một nhận định thống nhất là cần thiết phải có vai trò của nhân tố chính trị, mà trước hết và cơ bản nhất là vai trò của nhà nước trong sự phát triển của các quốc gia. Sự thành công hay thất bại của một quốc gia, xét đến cùng, là do thể chế (cả về thể chế kinh tế và thể chế chính trị) của quốc gia đó. Một nhà nước có có trách nhiệm cao với thể chế kinh tế - chính trị hợp lý, khoa học, dân chủ sẽ phát huy được mọi nguồn lực, mọi tiềm năng để phát triển. Có thể kể đến một số tác phẩm sau đây: Báo cáo World Development Report, 1997: The State in a Changing World (Báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 1997: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi) của Ngân hàng Thế giới [46] là báo cáo về tình hình phát triển thế giới được xuất bản hàng năm, đã cung cấp cho người đọc một nguồn tư liệu có giá trị. Tập xuất bản này tập trung về nhà nước: nhà nước nên làm gì, nên làm như thế nào để có thể đạt được kết quả tốt hơn trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Cuốn sách đề cập đến những diễn biến và chuyển đổi sâu sắc của thế giới đang đòi hỏi các nhà nước phải tư duy lại vai trò của mình, đưa ra các chủ trương và 8 giải pháp đúng, hoạt động có hiệu quả, đảm bảo ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội bền vững. Thông qua những phân tích và đánh giá một cách khoa học với các nguồn tư liệu phong phú, cuốn sách đã nêu những đặc điểm của tình hình thế giới, những hoạt động thực tiễn của các nhà nước trong một vài thập kỷ gần đây. Trong những năm qua, nhiều quốc gia rút ra bài học rằng, ở đại đa số các nước đang phát triển, các nền kinh tế chuyển đổi đã bắt đầu chuyển hướng theo nền kinh tế thị trường, các chiến lược phát triển do nhà nước đóng vai trò chủ đạo đều đã thất bại. Nhiều người cảm thấy rằng, kết quả lôgic cuối cùng của tất cả các cải cách đó là "nhà nước với vai trò tối thiểu", tức nhà nước sẽ dần mất đi vai trò của mình, khi mà khu vực tư nhân hoạt động tốt hơn chính phủ về mọi mặt. Những người chủ trương nhà nước tối thiểu mong muốn sẽ tạo ra một xã hội mà ở đó quyền cưỡng chế của nhà nước không còn cần thiết nữa. Báo cáo này giải thích tại sao quan điểm cực đoan đó lại trái với những chứng cứ về sự thành công của các nền kinh tế công nghiệp trong thế kỷ XIX của hoặc các câu chuyện thần kỳ về tăng trưởng của các nước Đông Á trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Những quan điểm đó không những không hỗ trợ quan điểm về nhà nước tối thiểu mà còn chứng minh rằng, sự phát triển quốc gia, dân tộc luôn đòi hỏi một nhà nước hiệu quả, một nhà nước đóng vai trò chất xúc tác, khuyến khích và bổ khuyết những hoạt động của các xí nghiệp tư nhân và các cá nhân. Với những ví dụ điển hình về một số nhà nước hoạt động có hiệu quả cũng như một số nhà nước hoạt động kém hiệu quả, Báo cáo nhấn mạnh, những nhà nước có trách nhiệm cao thì thường đem lại những hiệu quả cao hơn và người dân sẽ được hưởng lợi từ những hoạt động của nhà nước đó. Các tác giả cũng gợi ý những việc mà nhà nước phải làm và làm như thế nào trong tình hình thế giới đang có những chuyển đổi sâu sắc. Đặc biệt là, từ sự luận giải và phân tích thực tiễn hoạt động của các thể chế nhà nước, báo cáo này đã chỉ ra rằng, cho dù trong bối cảnh thực tiễn rất đa dạng và phong phú, nhưng các nhà nước hợp lý, hiệu quả đều có những đặc điểm chung. Một là, các chính phủ hiệu quả đã đặt ra các quy tắc cụ thể làm cơ sở, nền tảng cho hoạt động của khu vực tư nhân và rộng hơn là hoạt động của xã hội dân sự. Hai là, bản thân các chính phủ đó cũng tuân thủ các quy tắc và hành động một cách đáng tin cậy, bảo đảm quan hệ công - tư hòa hợp và có cơ chế kiểm soát được tham nhũng. Tác phẩm The Role of the State in Economic Change (Vai trò của nhà nước đối với sự thay đổi kinh tế) của Ha-Joon Chang và Robert Rowthorn [110] đã luận 9 giải rằng, vai trò của nhà nước chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển kinh tế và là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất của các nhà kinh tế hiện đại và kinh tế chính trị. Những năm sau chiến tranh ngay lập tức xuất hiện các lý thuyết kinh tế theo hướng sử dụng quyền lực của nhà nước vào việc kiểm soát các hoạt động kinh tế. Xu hướng này trở nên phổ biến bởi nhu cầu cấp thiết cho việc tái thiết đất nước và phát triển ở các nước tư bản phát triển cũng như các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và châu Á. Trọng tâm của lý thuyết này nhằm đề cao tính hiệu quả của sự can thiệp nhà nước vào việc thúc đẩy sự thay đổi kinh tế. Các tác giả giải thích sự vỡ mộng ngày càng tăng về chủ nghĩa Tự do mới. Tuy nhiên, cuối cùng họ nhận thấy rằng, không phải ở mọi nơi và mọi lúc, trên mọi lĩnh vực, sự can thiệp của nhà nước cũng đều mang lại hiệu quả. Và tương tự, thuyết thị trường tự do cũng vậy, cũng có những hạn chế nhất định. Do đó, việc tìm kiếm các giải pháp tối ưu nên tập trung vào sự kết hợp hợp lý của cả hai phương án trên và tùy thuộc vào từng điều kiện, bối cảnh cụ thể của thời đại cũng như của từng quốc gia, dân tộc. Tiếp nối quan điểm này, Ha-Joon Chang, trong tác phẩm Globalization, Economic Development and the Role of the State (Toàn cầu hóa, phát triển kinh tế và vai trò của nhà nước) [108], đã đánh giá một cách xác đáng về vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế thi trường và sự phát triển. Từ việc phân tích các lý thuyết và sự can thiệp thực tế của các nhà nước đối với sự phát triển trong hơn hai thế kỷ của chủ nghĩa tư bản hiện đại, ông đã phát triển một phương pháp tiếp cận thể chế về vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế thông qua việc phân tích các chiến lược, chính sách công nghiệp, chính sách thương mại, quyền sở hữu trí tuệ, v.v… Đặc biệt là, ông đã kết nối lý thuyết tiếp cận thể chế với các trường hợp lịch sử cụ thể như là những minh chứng cho sự cần thiết phải có vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế. Tác phẩm The Origins of Power, Prosperity, and Poverty - Why Nations fail (Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói - Tại sao các quốc gia thất bại) của Daron Acemoglu và James A. Robinson [13] bàn về vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế. Daron Acemoglu và James Robinson lập luận rằng: Sở dĩ có quốc gia thành công, ngày càng thịnh vượng và có quốc gia thất bại, không cải thiện được đáng kể tình trạng nghèo nàn, là do sự khác biệt chủ yếu về thể chế (cả thể chế kinh tế và thể chế chính trị). Các tác giả cho rằng, về cơ bản có thể chia thể chế kinh tế thành 2 loại khác biệt nhau: Một là, thể chế kinh tế có tính dung hợp (Inclusion economic institution): có đặc điểm là khuyến khích mọi thành phần trong xã hội 10 tham gia vào các hoạt động kinh tế, cho họ cơ hội phát huy tài năng và cống hiến. Quyền lực được chia sẻ rộng rãi. Để làm được như vậy, xã hội cần phải đảm bảo quyền sở hữu, luật pháp không thiên vị và cung cấp các dịch vụ công cho mọi tầng lớp để đảm bảo sự công bằng trong quá trình trao đổi, giao dịch. Ngoài ra, xã hội cũng cần khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp mới và cho mọi người cơ hội lựa chọn ngành nghề của họ. Hai là, thể chế kinh tế có tính chiếm đoạt (Extractive economic institution): tập trung quyền lực vào một số ít người hoặc nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích này nắm phần lớn tài sản quốc gia và khai thác tài nguyên của đất nước. Các nhóm lợi ích trong môi trường thể chế này thường chống lại sự phát triển của các thể chế kinh tế có tính dung hợp vì thể chế đó đe dọa sự tồn tại và lợi ích của họ. Đó cũng là lý do vì sao một khi kiểu thể chế kinh tế có tính chiếm đoạt đã hình thành thì rất khó để thay đổi, bởi lẽ ai cũng muốn bảo vệ lợi ích của mình, nhất là khi lợi ích đó rất lớn. Rõ ràng, thể chế kinh tế và thể chế chính trị dung hợp, mà ở đó có thể phát huy được mọi nguồn lực, tiềm năng sáng tạo cũng như sự tham gia của cộng đồng xã hội vào quá trình phát triển chính là cơ sở, nền tảng để tạo nên sự thành công, sự phát triển của các quốc gia. Cũng nhấn mạnh về vấn đề thể chế và chính sách kinh tế ưu tiên đặc thù, tác phẩm Start-up Nation: The Story of Israel’s Economic Miracle (Quốc gia khởi nghiệp: Câu chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel) của Dan Senor và Saul Singer [100] là câu chuyện viết về sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Israel ngay từ lúc lập quốc cho đến khi trở thành một quốc gia có nền công nghệ hàng đầu thế giới. Quyển sách này có thể là lời giải đáp cho những thắc mắc là làm thế nào một đất nước nhỏ bé lại có thể tồn tại giữa sự thù địch của các quốc gia lân cận, phải đối phó với những cuộc chiến giữ vững bờ cõi nhưng vẫn tạo ra sự sáng tạo vượt bậc trong các lĩnh vực công nghệ, quân sự và dân sự. Với ngòi bút sắc sảo, phong phú cũng như với những lời nhận xét thực tế từ những doanh nhân thành công hàng đầu, cuốn sách đã đem đến cho người đọc những cái nhìn mới mẻ về con người và đất nước Israel, làm sáng tỏ phần nào những thành công tưởng chừng như không tưởng của đất nước nhỏ bé này. Với cá tính quyết liệt, dám thách thức và sáng tạo không ngừng, quyết tâm không cam chịu cuộc sống nghèo khó, những con người Do Thái lưu vong, chạy trốn và sống sót sau những cuộc thảm sát trong Chiến tranh thế giới lần thứ II cùng với những người theo Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đã xây dựng và bảo vệ đất nước Israel bằng chính sức lực của mình, khiến cả thế giới phải kinh 11 ngạc. Ngày nay, Israel là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới và có lĩnh vực công nghệ phát triển không hề thua kém Thung lũng Silicon của Hoa Kỳ. Để đạt được những thành quả trong thực tiễn đó chính là nhờ vào vai trò chủ động định hướng, dẫn dắt, can thiệp tích cực của chính phủ Israel đối với thị trường và xã hội. Chẳng hạn như, ngoài việc tập trung vào phát triển kinh tế nông nghiệp sạch và cơ sở hạ tầng, chính phủ Israel đã đồng hành cùng với các doanh nghiệp tư nhân trong việc ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực công nghệ. Thông qua các chính sách ưu tiên đó, chính phủ đã chia sẻ bớt gánh nặng và rủi ro với khu vực tư nhân, nhờ đó đã kích thích mạnh mẽ làn sóng đầu tư, tạo nên một thị trường, một quốc gia khởi nghiệp lành mạnh và phát triển. Tác phẩm Models of Democracy (Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại) của David Held [14] được viết bằng phương pháp phân tích khoa học, tổng hợp các tư tưởng và thực tiễn để xây dựng nên các mô hình dân chủ điển hình, bao gồm ba phần: Phần 1 trình bày 4 mô hình dân chủ kinh điển như là những thử nghiệm tiêu biểu trước thế kỷ XX cho cách thức quản trị quốc gia mà người dân có quyền tham gia - Dân chủ cổ điển Athens, Dân chủ cộng hòa, Dân chủ tự do, Dân chủ trực tiếp; Phần 2 giới thiệu 04 mô hình biến thể trong thế kỷ XX và 01 mô hình biến thể đang hình thành hiện nay - Dân chủ tinh hoa cạnh tranh, Dân chủ đa nguyên, Dân chủ hợp pháp, Dân chủ tham gia và Dân chủ thảo luận; Đặc biệt là, phần 3 tập trung làm sáng tỏ câu hỏi: Hiện nay dân chủ nên được hiểu như thế nào? Đây được xem như là phần sáng tạo, đóng góp của tác giả trong lĩnh vực lý thuyết về mô hình quản trị nhà nước, mà theo David Held, đó là tự trị dân chủ (democratic autonomy). Nội hàm của khái niệm này vừa thể hiện quyền tự do cá nhân vừa thể hiện quyền và nghĩa vụ ngang nhau của các cá nhân trong việc tổ chức cộng đồng, đó là sự bình đẳng về chính trị. Do vậy, cần có các thiết chế, thể chế không chỉ để giới hạn quyền lực của nhà nước mà còn để đảm bảo cho các cá nhân bình đẳng tham gia vào quá trình tranh luận, thảo luận công khai về các vấn đề cấp bách của xã hội. Đặc biệt là, ý tưởng về tự trị dân chủ không chỉ có thể áp dụng trong phạm vi quốc gia, một nhà nước mà còn có thể mở rộng sang việc xây dựng các thiết chế dân chủ cho phạm vi toàn cầu, nhất là trong bối cảnh thế giới đang chuyển đổi, đang chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu hiện nay. Cũng về vấn đề này, tác phẩm Dân chủ, kinh tế thị trường và phát triển: Từ góc nhìn châu Á của Farrukh Iqbal và Jong-ll You [27] bàn về vai trò của thể chế 12 chính trị - nhà nước dân chủ đối với sự phát triển. Các học giả cho rằng, dân chủ, kinh tế thị trường và phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó thể chế chính trị dân chủ và kinh tế thị trường là "hai bánh xe của một cỗ xe ngựa", phải chuyển động cùng nhau và phụ thuộc vào nhau để cùng phát triển. Điều này có nghĩa là, muốn phát triển cần thiết phải có vai trò của nhà nước và nhà nước đó phải thực hiện quá trình dân chủ hóa đồng thời với phát triển kinh tế thị trường. Nói cách khác, dân chủ về chính trị cần đi đôi với tiến trình dân chủ trong kinh tế. Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-jung đã từng nhận định, nếu ngay từ đầu, Hàn Quốc theo đuổi chính sách phát triển song song cả dân chủ và kinh tế thị trường, thì nước này có thể kiểm soát được mối quan hệ thông đồng giữa chính phủ và giới kinh doanh lớn vốn phát triển ngay trong khu vực tài chính có sự kiểm soát của chính phủ. Thậm chí Hàn Quốc còn có thể tránh được sức mạnh tàn phá của cơn bão khủng hoảng tiền tệ [27, tr.24]. Tác phẩm Phát triển là quyền tự do của Amartya Sen [1], người đoạt giải thưởng Nobel về Kinh tế học, đã phân tích vai trò bảo vệ của thể chế chính trị dân chủ trong việc ngăn chặn nạn đói thông qua những dẫn chứng so sánh thực tiễn giữa cách thức cầm quyền dân chủ ở Botswana, Ấn Độ, Zimbabwe và cách thức cầm quyền độc tài ở khu vực châu Phi cận Sahara như Su Đăng, Sômalia, Êtiôpia, đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, cuộc khủng khoảng kinh tế tài chính, tiền tệ ở khu vực các nước châu Á vừa qua chính là "đòn trừng phạt" đối với một lối cầm quyền phi dân chủ. Đặc biệt là, khi bàn về vai trò của thể chế chính trị dân chủ đối với nền kinh tế thị trường, ông nhận định: Dân chủ có thể giúp thị trường vận hành tốt hơn do tạo động cơ chính trị cho một phương thức cầm quyền tốt" [27, tr.11]. Báo cáo tổng quan, Việt Nam 2035, Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ của nhóm Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch - Đầu tư [48] bao gồm 7 chương, trong đó chương 7 bàn về việc xây dựng thể chế hiện đại và nhà nước hiệu quả. Chương này khẳng định vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế, đánh giá chất lượng thể chế và nhận diện các lực cản thể chế ảnh hưởng đến sự phát triển tại Việt Nam, từ đó đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng một bộ máy hành chính hợp lý, hiệu quả với đội ngũ công chức thực tài, chuyển đổi vai trò của nhà nước từ chỗ can thiệp quá sâu vào nền kinh tế sang điều tiết, hỗ trợ một cách có hiệu quả, xây dựng thể chế chính trị dân chủ hiện đại nhằm thúc đẩy sự phát triển. Tác phẩm Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước của Nguyễn Đăng Dung 13 [15]. Trong tác phẩm này, tác giả cho rằng mọi nhà nước muốn tồn tại đều phải là nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do vậy một cách khách quan, nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Muốn có nhà nước chịu trách nhiệm một cách rõ ràng thì cách thức tổ chức nhà nước phải hết sức giản đơn. Chính sự đơn giản này là lý do buộc phải được tổ chức thành những cơ cấu đơn giản, trong đó mỗi có cấu lại phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Tuy nhiên, tác giả không tập trung trả lời câu hỏi tại sao nhà nước lại phải chịu trách nhiệm trước công dân, mà chủ yếu tập trung phân tích cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước với hàm nghĩa rằng, đó phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt động một cách hiệu quả, có trách nhiệm trước xã hội và bảo đảm quyền lực, lợi ích của nhân dân, xét về bản chất, đó cũng là yêu cầu của một nhà nước kiến tạo phát triển. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước năm 2010, Vai trò của Nhà nước đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong tiến trình đổi mới của Nguyễn Duy Mạnh [51], gồm 3 phần, 8 chương đã luận giải một cách khoa học cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong tiến trình đổi mới. Đề tài cũng đánh giá được các điều kiện đảm bảo, các yếu tố tác động và thực trạng thực hiện vai trò của Nhà nước trên các mặt của đời sống xã hội như phát triển và quản lý nguồn nhân lực, y tế, giáo dục, an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, dân tộc, tôn giáo, v.v…; đồng thời dự đoán được các xu hướng biến động của các vấn đề xã hội, từ đó xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp thiết thực, toàn diện nhằm phát huy vai trò của Nhà nước ta trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Với các luận cứ khoa học, đề tài là một trong những tài liệu có giá trị về vai trò thiết yếu của Nhà nước đối với sự phát triển của nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Luận án tiến sĩ Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của Võ Thị Hoa [30] đã phân tích và luận giải một cách khoa học về vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo công bằng xã hội, đánh giá thực trạng và nêu lên các giải pháp nhằm nâng cao vai trò thực hiện công bằng xã hội của nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Dưới góc độ nhà nước kiến tạo phát triển, công bằng xã hội và vai trò chủ động, định hướng của nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội là một trong những yêu 14 cầu, điều kiện cần thiết để tạo nên sự thành công của một nhà nước hợp lý, hiệu quả - một nhà nước kiến tạo phát triển trong thực tiễn. Luận án tiến sĩ Sự biến đổi vai trò của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa của Trần Thị Huyền [40] đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về vai trò của nhà nước, cũng như các xu hướng biến đổi vai trò của nhà nước trước tác động của toàn cầu hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, mặc dù nhà nước nói chung và vai trò của nhà nước nói riêng có nhiều biến đổi song không vì thế mà nhà nước mất đi vai trò của mình, mà ngược lại, nhà nước sẽ điều chỉnh vai trò của mình cho phù hợp để nó vẫn tiếp tục tồn tại như một thiết chế quan trọng ở tất cả các quốc gia. Từ việc phân tích những khuynh hướng biến đổi về vai trò của nhà nước trên các phương diện như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tác giả đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước trong việc thực hiện những vai trò của mình, đáp ứng các yêu cầu, thách thức của bối cảnh toàn cầu hóa xuất phát từ điều kiện đặc thù của Việt Nam. Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên đây đều khẳng định sự cần thiết phải có vai trò của nhà nước đối với sự phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng, đồng thời gợi mở nhà nước nên làm gì và làm như thế nào để thúc đẩy sự phát triển. Đó cũng là những nội dung cơ bản mà luận án nghiên cứu, luận giải. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN 1.2.1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài Khi nghiên cứu trường hợp Nhật Bản và các nước Đông Á trong quá trình phát triển từ những năm 1950 đến cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo nên phát triển thần kỳ ở những nước này là sự hiện diện của một loại nhà nước đặc biệt - một "nhà nước kiến tạo phát triển" (Developmental State), mà thực chất là sự cộng sinh chặt chẽ hơn giữa nhà nước và khu vực tư nhân, và được gọi là "chủ nghĩa tư bản quản lý" hoặc "thị trường được quản lý" [90, tr.223-240]. Mô hình nhà nước này xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản, đã tạo nên sự thành công trên thực tế trong việc thúc đẩy tăng trưởng, giảm đói nghèo và nâng cao phúc lợi chung, được Chalmer Johnson nghiên cứu khá kỹ lưỡng trong các công trình nghiên cứu của mình, trước hết phải kể đến tác phẩm MITI and the Japanese Miracle - The Growth of Industrial Policy, 1925 - 1975 (1982) với sự phân tích sâu sắc và so sánh sự khác biệt căn bản 15 trong cách thức can thiêp của nhà nước Nhật đối với thị trường. Sau khi tác phẩm này ra đời, một loạt các tác phẩm khác của các học giả cũng tranh luận xung quanh vấn đề này. Ngoài những vấn đề chung liên quan đến vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, các học giả đã tập trung luận giải, làm phong phú hơn, đầy đủ hơn những nội dung về nhà nước kiến tạo phát triển, từ nguồn gốc, nội hàm của khái niệm, đến các đặc trưng cơ bản cũng như những điều kiện để vận hành thành công trong thực tế. Những tác phẩm sau đây đã đề cập đến những vấn đề này: Tác phẩm MITI and the Japanese Miracle - The Growth of Industrial Policy, 1925 - 1975 (Bộ Công nghiệp - Thương mại quốc tế và sự thần kỳ Nhật Bản - Sự phát triển của chính sách công nghiệp, 1925 - 1975) của Chalmer Johnson [97] đã khẳng đinh vai trò rất lớn của Chính phủ Nhật Bản, đặc biệt là Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế (MITI) trong nền kinh tế, mà trước hết là cách thức mà nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao trong những thập niên cuối của thế kỷ XX. Ông cho rằng, MITI không phải là tác nhân quan trọng duy nhất ảnh hưởng đến nền kinh tế, và không phải lúc nào nhà nước cũng chiếm ưu thế, nhưng chúng ta sẽ không thể hiểu được tốc độ, hình thức và hiệu quả tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản nếu không có sự đóng góp của MITI. Sự hợp tác giữa nhà nước và doanh nghiệp lớn được thừa nhận là đặc điểm cơ bản của hệ thống kinh tế Nhật Bản, và vai trò của nhà nước trong quá trình hợp tác này cũng như những phương pháp, những thành tựu của bộ máy hành chính kinh tế Nhật Bản luôn là trung tâm của các cuộc tranh luận liên tục giữa những người ủng hộ nền kinh tế chỉ huy kiểu các nước XHCN và những người ủng hộ nền kinh tế thị trường hỗn hợp kiểu phương Tây. Khi viết tác phẩm này, Johnson dự định bao gồm 8 chương: Một chương giới thiệu về nhà nước kiến tạo phát triển Nhật Bản, một chương phân tích các chức năng của nhà nước quan liêu Nhật bản và 6 chương về lịch sử của chính sách công nghiệp Nhật Bản từ 1925 đến 1975. Sau khi gởi bản thảo cho nhà xuất bản, với những lời góp ý của Ngài tổng biên tập, Johnson đã viết thêm chương kết luận thể hiện những đóng góp của mình. Mặc dù nhà nước Nhật Bản là nhà nước dân chủ tư sản phương Tây, nhưng không đóng vai trò thụ động "điều tiết" như ở các nước Anh, Mỹ và cũng không đóng vai trò "thống soái" như trong các nước XHCN, mà có một vai trò rất khác biệt, nhất là trong việc chủ động định hướng và huy động nguồn lực cho các lĩnh vực kinh tế trọng tâm một cách nhất quán. Để chỉ sự khác biệt đó, Johnson đã sử dụng khái niệm "nhà nước kiến tạo
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất