Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án tiến sĩ giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong ...

Tài liệu Luận án tiến sĩ giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường

.PDF
176
16
120

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG VĂN KHẢI GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2019 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG VĂN KHẢI GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS Vũ Hồng Sơn 2. PGS, TS Đặng Quang Định HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Hoàng Văn Khải MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI............ 6 1.1. Những công trình nghiên cứu về lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội, các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ....................................................................................................... 6 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng, nguyên nhân giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.................................................. 18 1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ........................................................................ 25 1.4. Giá trị của những công trình trên và một số vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết .................................................................................................... 32 Chƣơng 2. GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN.................................................................................... 35 2.1. Khái niệm, nội dung giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ................. 35 2.2. Những nhân tố tác động đến việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ............... 64 Chƣơng 3. GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA .................................................................... 77 3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay .................................. 77 3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay............ 115 Chƣơng 4. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................................................................................124 4.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội................................................ 124 4.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối nhằm đảm bảo công bằng và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ............................................................. 130 4.3. Khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời thực hiện lợi ích xã hội ........................................................................... 140 4.4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội .............................................. 145 KẾT LUẬN................................................................................................................................156 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................................................................................................158 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................159 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ASXH : An sinh xã hội CBXH : Công bằng xã hội CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CTSH : Chủ thể sở hữu DNNN : Doanh nghiệp nhà nước ĐTSH : Đối tượng sở hữu HTSH : Hình thức sở hữu KTTT : Kinh tế thị trường KTTN : Kinh tế tư nhân KTNN : Kinh tế nhà nước LLSX : Lực lượng sản xuất LIXH : Lợi ích xã hội LICN : Lợi ích cá nhân PLXH : Phúc lợi xã hội TLSX : Tư liệu sản xuất QHSX : Quan hệ sản xuất QHSH : Quan hệ sở hữu XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Suy cho cùng, sự phát triển xã hội là kết quả của những hoạt động có ý thức của con người “đang theo đuổi những mục đích nhất định”. Trong sự phát triển đó, lợi ích là một trong những động lực thúc đẩy hoạt động của con người, của sự biến đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết định bản chất các mối quan hệ trong xã hội. Đề cập tới vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lợi ích là thuộc tính tất yếu của con người và nó gắn kết các thành viên xã hội dân sự lại với nhau” [88, tr.184]. Trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội, sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu sẽ hình thành quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa các lợi ích, đặc biệt giữa lợi ích cá nhân (LICN) và lợi ích xã hội (LIXH), tạo nên những vector thúc đẩy hoạt động của con người và sự vận động của xã hội theo những chiều hướng khác nhau, mạnh yếu khác nhau. Tuy nhiên, quan hệ giữa các chủ thể lợi ích luôn nảy sinh vấn đề phức tạp, chứa đựng những mâu thuẫn, nhất là giữa LICN và LIXH, bởi lợi ích luôn biến đổi theo sự biến đổi của nhu cầu xã hội. Cho đến hiện nay, ở tất cả các cấp độ của lý luận lợi ích nói chung, LICN và LIXH nói riêng vẫn đặt ra những vấn đề cần phải nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường (KTTT) - nơi các loại lợi ích thể hiện vai trò của mình một cách đặc thù, khác biệt so với các điều kiện xã hội khác. Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm động lực của lợi ích đối với sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng khi chúng ta giải quyết được hài hòa các quan hệ lợi ích khác nhau, đặc biệt là quan hệ giữa LICN và LIXH - quan hệ lợi ích căn bản của xã hội, nếu không thì trái lại, mâu thuẫn, xung đột lợi ích sẽ trở thành lực cản sự tiến bộ xã hội, có thể phá hoại nghiêm trọng những thành quả bước đầu mà đất nước đạt được, thậm chí xuất hiện những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp. Ở nước ta trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây, khi chúng ta đi ngày càng đi sâu vào nền KTTT, vấn đề lợi ích nói chung, LICN và LIXH nói riêng lại trở nên 2 phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết. Xuất hiện những biểu hiện của sự mất cân bằng trong giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, trong nhiều biểu hiện chính là việc đề cao quá mức LICN hoặc LIXH. Một số lực lượng xã hội nhân danh lợi ích, để mưu cầu LICN không chính đáng, xâm phạm LIXH. Những hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát tài sản Nhà nước, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, lừa đảo, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn việc quản lý, điều hành và phân phối nói chung xảy ra với tính chất ngày càng phức tạp, nhiều vụ việc có quy mô lớn, gây những tổn hại đến sự phát triển xã hội. Thực chất của những hiện tượng đó chính là việc đề cao quá mức LICN, bất chấp luật pháp, đạo đức để đạt được LICN. Song ở thái cực ngược lại, lại có những LICN chính đáng chưa được quan tâm đúng mức, đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng ngày càng doãng ra; thành phần kinh tế tư nhân chưa được tạo những điều kiện tốt nhất để phát triển, chưa phát huy hết tiềm năng của thành phần kinh tế này... Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế và phát triển KTTT mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa mãn lợi ích chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những LIXH để vừa bảo đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng XHCN. Chính vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH. Song, để làm được điều đó, chúng ta cần hiểu rõ bản chất, vai trò, quy luật tồn tại, phát triển của từng loại lợi ích, nội dung, phương thức, các nhân tố tác động cũng như phân tích thực trạng, nguyên nhân của việc việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, để từ đó có những giải pháp tác động phù hợp trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội và của cả cá nhân. Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn và lý luận nêu trên và với mong muốn góp phần đóng góp vào việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án của mình. 3 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục tiêu trên, luận án cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể như sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH như khái niệm, nội dung, phương thức và các nhân tố tác động. - Phân tích thực trạng, nguyên nhân của những hạn chế và những vấn đề đặt ra từ giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận án nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH là vấn đề rất rộng, ở đây, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH chủ yếu thông qua lợi ích kinh tế trong lĩnh vực sở hữu và phân phối; chủ thể giải quyết quan hệ lợi ích này chủ yếu là Đảng, Nhà nước, xã hội và cá nhân. Luận án cũng chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu LICN là lợi 4 ích của cá nhân cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thân, đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân; LIXH ở đây chính là lợi ích của cả xã hội với tính cách là một dân tộc - quốc gia. - Về không gian: nghiên cứu quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam. - Về thời gian: Việc nghiên cứu được tiến hành chủ yếu trong giai đoạn từ khi bắt đầu đổi mới đất nước (1986) cho đến nay. 4. Những đóng góp mới của luận án - Làm rõ nội dung giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, những nhân tố tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. - Luận án phân tích những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trên một số khía cạnh chủ yếu như nhận thức của các chủ thể, các chính sách về sở hữu, các chính sách về phân phối. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay, trong đó đặc biệt là giải pháp khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời thúc đẩy thực hiện LIXH. Cùng với đó, giải pháp về tiếp tục thực hiện các chính sách đảm bảo công bằng xã hội (CBXH) đã có nhiều công trình nói tới, song tiếp tục thực hiện và tổ chức thực hiện trên thực tế các chính sách đảm bảo CBXH là những đóng góp mới của luận án. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cá nhân, xã hội, lợi ích, quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội... Ngoài ra, luận án cũng kế thừa thành quả của những công trình nghiên cứu trước đó về những vấn đề liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án. 5 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch s để phân tích bản chất của lợi ích, điều kiện hình thành, tồn tại, biến đổi và tính lịch s của lợi ích, LICN, LIXH, quan hệ giữa LICN và LIXH... Luận án s dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp thống kê, các phương pháp thu thập và x lý số liệu, thông tin (thứ cấp)... để phân tích thực trạng việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay bằng các dẫn liệu cụ thể. 6. Ý nghĩa của luận án - Góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận cho Đảng, Nhà nước trong việc đề ra các chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. - Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác quản lý xã hội xây dựng và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nhằm giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong những điều kiện cụ thể nhất định ở nước ta hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu giảng dạy triết học, các ngành khoa học xã hội và nhân văn tại các học viện, trường đại học, cao đẳng, trường chính trị tỉnh (thành phố). 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm: 04 chương, 12 tiết. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LỢI ÍCH, LỢI ÍCH CÁ NHÂN, LỢI ÍCH XÃ HỘI, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phạm trù lợi ích Xung quanh phạm trù lợi ích nói chung, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến các khía cạnh rất đa dạng của lợi ích như: khái niệm, bản chất, vai trò, phân loại lợi ích... Về khái niệm, bản chất lợi ích Năm 1997, trong cuốn sách Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội [123] tác giả Lê Hữu Tầng đã chỉ ra bản chất và nội dung của lợi ích, đó là: “xét về bản chất, lợi ích chính là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu” [123, tr.35]. Các tác giả cũng phân tích mối quan hệ biện chứng giữa một số loại lợi ích, như lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; lợi ích riêng và lợi ích chung; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Đây là một công trình tham khảo tốt cho chúng tôi khi phân tích những vấn đề lý luận về lợi ích và vai trò của lợi ích đối với sự phát triển. Tác giả Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Lợi ích - động lực của sự phát triển xã hội [75], năm 1999, đã lược khảo những quan điểm của các nhà khoa học Liên Xô trước đây đã đề cập đến vấn đề lợi ích. Tác giả Nguyễn Linh Khiếu đã phân tích những quan điểm về lợi ích của các tác giả như: K.B.Ixabêcốp, A.S.Aizicôvích, V.I.Pripisnov, D.I.Chesnocov... Trên cơ sở lược khảo các quan điểm của các nhà nghiên cứu Liên Xô và các nhà nghiên cứu trong nước, tác giả đã đưa ra khái niệm “lợi ích là một sự vật hay một hiện tượng khách quan biểu hiện những mối quan hệ tất yếu của con người và dùng để thỏa mãn những nhu cầu cấp bách của họ trong một hoàn cảnh sinh sống nhất định” [75, tr.50]. Đây là tài liệu tham khảo tốt cho chúng tôi để khảo cứu lịch s nghiên cứu vấn đề lợi ích, nhất là ở Liên Xô trước đây. 7 Năm 2005, tác giả Lê Thị Kim Chi trong cuốn sách Nhu cầu: động lực và định hướng xã hội [15] đã có những phân tích cụ thể về mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, theo đó, tác giả khẳng định: “Lợi ích xuất hiện trong quan hệ giữa nhu cầu của con người với môi trường xung quanh; lợi ích thể hiện mối quan hệ xã hội giữa con người với con người nhằm thỏa mãn nhu cầu; lợi ích là cái trung gian giữa nhu cầu và hoạt động của con người, là động lực thúc đẩy hoạt động của con người và của xã hội” [15, tr.31]. Những phân tích của tác giả về quan hệ nhu cầu và lợi ích đã gợi mở cho chúng tôi nghiên cứu sâu thêm về vấn đề lợi ích trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Năm 2010, trong công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [36], tác giả Đặng Quang Định trên cơ sở tiếp cận lợi ích từ nhu cầu, đã nêu rõ định nghĩa về lợi ích: “lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng lớp...) trong những điều kiện lịch s - xã hội nhất định” [36, tr.30]. Từ đó, tác giả khẳng định: “về bản chất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ của các chủ thể nhu cầu, còn nội dung là để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể ấy” [36, tr.30]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này và coi đây là tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa. Năm 2012, cũng trên cơ sở tiếp cận lợi ích từ nhu cầu, song đề cập đến khía cạnh động lực của lợi ích đối với con người, tác giả Lê Văn B u, trong công trình Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay [9] đã nêu: “Lợi ích là sự thể hiện mâu thuẫn khách quan giữa nhu cầu và điều kiện để thỏa mãn nhu cầu. Trong khi thể hiện mâu thuẫn nói trên, lợi ích kích thích tính tích cực, sáng tạo của con người và “thúc ép” con người phải hành động, đấu tranh vì lợi ích của mình” [9, tr.35]. Đây là quan điểm mà chúng tôi cũng đã có sự tham khảo trong quá trình nghiên cứu về lợi ích. Như vậy, vấn đề khái niệm, bản chất của lợi ích cũng đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu trong những giai đoạn lịch s khác nhau, song có thể thấy, cơ bản đều thống nhất quan hệ lợi ích là khách quan, là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội và về bản chất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ của các chủ thể nhu cầu, còn nội dung là 8 để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể ấy. Đây là những công trình có giá trị tham khảo tốt cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu. Về vai trò của lợi ích Nhìn chung, qua khảo cứu các công trình, đa số các tác giả đều chỉ ra tính tích cực của lợi ích trong hoạt động của con người. Theo C.Mác và Ph.Ănghen, lợi ích chính là động lực sâu xa nhất thúc đẩy con người hành động và mọi hành động của con người đều có động cơ nhất định. Và kết quả ra sao phụ thuộc vào việc nhận thức và hành động thực tiễn của họ về lợi ích. Năm 1997, đi vào nghiên cứu vai trò lợi ích đối với sự phát triển xã hội, trong công trình Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, [123] các tác giả đã chỉ ra vai trò của lợi ích trong sự phát triển xã hội “Nếu lợi ích đúng là khâu trung gian chuyển hóa những yêu cầu khách quan bên ngoài thành những động cơ tư tưởng bên trong thúc đẩy con người ta hành động, thì có thể nói, đó chính là khâu cần được đặc biệt quan tâm trong sợi dây chuyền dẫn tới chỗ khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của con người và thông qua tính tích cực ấy mà thúc đẩy quá trình phát triển xã hội” [123, tr.39]. Việc phân tích lợi ích với vai trò là một trong những động lực của sự phát triển, cùng với những động lực khác được đề cập trong công trình này là những gợi mở tốt cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu. Năm 2008, trong bài viết Quan điểm của Triết học Mác về lợi ích với tư cách động lực của lịch sử [34] tác giả Đặng Quang Định đã khẳng định vai trò của lợi ích trong sự phát triển xã hội: “việc nhận thức quan hệ xã hội mà thiếu lợi ích thì về cơ bản, nhận thức đó vẫn chỉ mang tính trừu tượng. Khi nói về vai trò của lợi ích, triết học Mác cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội, nó được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau làm cơ sở cho việc xác lập các quan hệ giữa họ” và “Lợi ích thúc đẩy đời sống các dân tộc” [34, tr.76]. Mặc dù dừng lại ở góc độ là một bài viết, song đây là công trình có nhiều gợi mở, tạo tiền đề cho chúng tôi nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội. Năm 2011, trong công trình Lợi ích - động lực của sự phát triển bền vững [84] tác giả Hoàng Văn Luân đã khẳng định: Mâu thuẫn lợi ích và giải quyết mâu thuẫn lợi ích là động lực phát triển xã hội [84, tr.93]. Trên cơ sở đó tác giả nêu ra 9 những định hướng quan hệ lợi ích vì sự phát triển xã hội, trong đó nêu khá cụ thể các nguyên tắc và biện pháp điều chỉnh cũng như điều chỉnh một số quan hệ lợi ích cơ bản của xã hội, đặc biệt nhấn mạnh đến việc điều chỉnh chính sách kinh tế. Đây là công trình có nhiều giá trị đối với chúng tôi trong việc phân tích về lợi ích, cũng như có những gợi mở để nghiên cứu về việc giải quyết các lợi ích. Về phân loại lợi ích Các công trình về lợi ích nêu trên đều đã đề cập về phân loại lợi ích theo nhiều cách tiếp cận, nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ khái quát, theo tác giả Đặng Quang Định trong công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [Theo 36], đã phân tích cách phân loại lợi ích của các học giả Liên Xô được đề cập trong “Bách khoa toàn thư Liên Xô”, viết năm 1972, trên cơ sở các nguyên tắc, tiêu chí nhất định, lợi ích phân loại như sau: dựa vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, chia thành lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị; dựa vào phạm vi cộng đồng, chia thành LICN, lợi ích giai cấp, lợi ích tập thể, LIXH; dựa vào xu hướng khách quan của sự phát triển xã hội, chia thành lợi ích tiến bộ, lợi ích bảo thủ;… Ngoài ra, lợi ích còn có thể phân loại dựa trên một số căn cứ sau: dựa vào thời gian tồn tại của lợi ích, chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; dựa vào tầm quan trọng của lợi ích, chia thành lợi ích căn bản và lợi ích không căn bản, lợi ích cấp bách và lợi ích không cấp bách; dựa vào tính chất và các biện pháp thực hiện lợi ích, chia thành lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng. Đây là cách tiếp cận để phân loại lợi ích khá toàn diện, vì vậy, công trình này là tài liệu tham khảo bổ ích cho chúng tôi trong việc phân loại lợi ích. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về khái niệm lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế Năm 2012, trong công trình Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển của xã hội [40], tác giả Đặng Quang Định đã đề cập đến khái niệm LICN, LIXH và lợi ích kinh tế. Tác giả phân tích: “Lợi ích cá nhân là tất cả những giá trị vật chất, tinh thần mà các cá nhân thực hiện được trong những điều kiện nhất định, dùng để thoả mãn 10 nhu cầu, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân” [40, tr.13-14] và “Lợi ích xã hội là lợi ích chung của cộng đồng người trong một xã hội nhất định, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung” [40, tr.17]. Tác giả cũng đã đưa ra khái niệm lợi ích kinh tế: “lợi ích kinh tế là giá trị kinh tế mà mỗi cá nhân có được khi tham dự vào quá trình sản xuất kinh tế, dùng để thỏa mãn nhu cầu của các cá nhân đó” [40, tr.19]. Đây là công trình này có giá trị cung cấp cho chúng tôi những tư liệu tổng hợp để xây dựng nên những khái niệm được s dụng trong luận án. Năm 2012, tác giả Lê Văn B u, trong công trình Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay [9] đã khẳng định: “lợi ích cá nhân là lợi ích của những con người cá thể, riêng rẽ”; “lợi ích toàn xã hội là lợi ích chung của các thành phần (cá nhân và các tập thể) trong xã hội” [9, tr.44-45]. Tác giả cũng phân tích quan hệ giữa các loại lợi ích, trong đó khẳng định “lợi ích riêng bao giờ cũng là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc đẩy hoạt động của cá nhân”, “lợi ích chung trong trường hợp này lại là điều kiện đóng vai trò định hướng trong việc thực hiện lợi ích riêng” [9, tr.42-45]. Chúng tôi tham khảo ở tài liệu này những phân tích lý luận gắn với việc giải quyết các mâu thuẫn lợi ích cụ thể. Vấn đề lợi ích kinh tế cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu từ những năm 80 của thế kỷ trước, phải kể đến như: Năm 1982, trong cuốn sách Bàn về các lợi ích kinh tế [132], các tác giả Đào Duy Tùng, Lê Xuân Tùng, Vũ Hữu Ngoạn… đã phân tích và đưa ra quan niệm về lợi ích kinh tế: “lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người với người trong sản xuất” [132, tr.9]. Ở điểm khác các tác giả phân tích “Lợi ích kinh tế của xã hội là lợi ích của nhân dân lao động trên phạm vi cả nước, lợi ích của tất cả các tập đoàn, các thành viên của xã hội xã hội chủ nghĩa. Lợi ích kinh tế của xã hội nảy sinh trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất, về lao động, đất đai, về tài nguyên thiên nhiên” [132, tr.11]. Cùng với đó, các tác giả cho rằng: “lợi ích của cá nhân người lao động biểu hiện trước hết ở tiền lương, tiền thưởng trong các xí nghiệp quốc doanh, ở thu nhập của các xã viên trong các đơn vị kinh tế tập thể, ở các khoản phụ cấp xã hội về học hành, bảo vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, v.v..” [132, tr.13]. 11 Năm 1988, tác giả Nguyễn Duy Hùng trong công trình Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể ở nước ta hiện nay, [60] đã cho rằng: “lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, có tính vật chất, có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động và phát triển của chủ thể. Song chưa đủ: lợi ích kinh tế còn đảm bảo duy trì các mối quan hệ giữa các chủ thể” [60, tr.12] và “lợi ích cá nhân là điểm xuất phát và là động lực mạnh mẽ nhất cho mọi hoạt động” [60, tr.18]. Đi vào phân tích lợi ích kinh tế trong điều kiện hiện nay, năm 2013, tác giả Đỗ Huy Hà trong công trình Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay [48] khẳng định: “lợi ích kinh tế là những quan hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu, động cơ khách quan về sự hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định” [48, tr.10]. Công trình cũng đã khẳng định thực chất, nội dung, phân tích thực trạng của việc giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay và đề xuất quan điểm, giải pháp giải quyết tốt quan hệ này. Đây là công trình có nhiều gợi mở ý tưởng cho tác giả trong việc giải quyết các nội dung cụ thể của giải quyết quan hệ lợi ích trong đời sống xã hội. Có thể nói, đây là những công trình hết sức quan trọng, có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu của tác giả; các khái niệm về vấn đề về LICN, LIXH, lợi ích kinh tế đã được đề cập ở những bối cảnh lịch s khác nhau. Về cơ bản, tác giả kế thừa và thống nhất với các quan điểm trên đây về định nghĩa LICN, LIXH, lợi ích kinh tế. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về quan hệ và giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Đề cập tới quan hệ và vai trò của quan hệ giữa LICN và LIXH, năm 2001, trong công trình Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay [74], tác giả Phạm Huy Kỳ cho rằng: “do mỗi con người cụ thể có những nhu cầu riêng, lợi ích riêng, không ai giống ai, có thể phù hợp hay không phù hợp, thậm chí đối lập với LIXH, nên việc giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội có vai trò và ý nghĩa to lớn. Nó đóng vai trò là cơ sở, động lực cho sự phát triển quan hệ 12 cá nhân - xã hội, và cũng có thể làm triệt tiêu sự phát triển đó, nếu giải quyết không đúng qui luật của quan hệ lợi ích” [74, tr.21] và “Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội chỉ có thể được thực hiện đúng đắn khi quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội được giải quyết một cách hài hòa” [74, tr.22]. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu trước đó, năm 2002, tác giả Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích [76], đã phân tích quan hệ giữa các lợi ích trong sự phát triển xã hội, tác giả cũng đã chỉ ra: “Quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung thực chất là các quan hệ cơ bản của một cá nhân hay một nhóm xã hội với cả cộng đồng” [76, tr.98] và “Mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, hay còn gọi là lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển xã hội” [76, tr.102]. Do vậy, tác giả đã dành sự quan tâm đến việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH nói riêng và các quan hệ lợi ích nói chung. Nói về LICN và LIXH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đề tài Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [106] (năm 2013) các tác giả khẳng định: “thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện” [106, tr.33]. Các tác giả cũng đã phân tích quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của cá nhân và sự phát triển của xã hội: “thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lai tốt đẹp” [106, tr.33]. Cách tiếp cận về quan hệ xã hội, quan hệ lợi ích trong công trình này đã gợi mở cho chúng tôi nhiều ý tưởng để có sự nhìn nhận rộng hơn về quan hệ lợi ích trong xã hội. Đề cập đến lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân, tác giả Tang Shan Qing trong Mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân [153] đã phân tích quan hệ biện chứng giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân trong điều kiện ở Trung Quốc. Tác giả cho rằng: lợi ích công và lợi ích cá nhân có mối quan hệ 13 biện chứng vừa đối lập, lại vừa thống nhất. Một mặt, lợi ích công và lợi ích cá nhân có tính thống nhất, tương hỗ, chuyển hóa lẫn nhau; mặt khác lợi ích công và lợi ích cá nhân lại thể hiện tính đối lập, giữa chúng không tránh khỏi việc tồn tại những mâu thuẫn nhất định. Để giải quyết những mâu thuẫn giữa lợi ích công và lợi ích cá nhân, cần nhìn nhận lợi ích công dưới góc độ khoa học; thiết lập cơ chế công khai dân chủ trong nhân dân; thực hiện công bằng, hợp lý; có chính sách bồi thường lợi ích thỏa đáng; từ đó góp phần làm cho lợi ích công và lợi ích cá nhân có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả. Như vậy, các công trình nêu trên dù không phải là công trình chuyên biệt, chưa nêu một cách trực tiếp về quan hệ giữa LICN và LIXH, nội dung và thực chất của nó, song cũng đã phân tích quan hệ này ở những góc độ khá đa dạng, đó là cơ sở của quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Đây chính là cơ sở ban đầu để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về quan hệ giữa LICN và LIXH. Thứ hai, những công trình nghiên cứu về giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Dù chưa có công trình chuyên biệt nào về giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, song, qua khảo cứu, chúng tôi nhận thấy cũng đã có nhiều công trình đề cập ở góc độ nhất định hoặc gián tiếp đến nội dung này, có thể kể đến các công trình như: Năm 1989, tác giả Phạm Ngọc Quang trong bài viết: “Đổi mới nhận thức về mâu thuẫn. Vấn đề mâu thuẫn trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta” [108] cho rằng: mâu thuẫn xã hội thực chất là mâu thuẫn giữa các lợi ích (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích tư tưởng...); cách giải quyết các mâu thuẫn xã hội thực chất là giải quyết, thay đổi mối quan hệ lợi ích giữa các thực thể mang lợi ích đối lập đó; con đường giải quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích (nếu đó là những lợi ích chính đáng, phù hợp với pháp luật của nhà nước) không phải bằng cách thủ tiêu, hạn chế bất kỳ lợi ích nào trong các lợi ích đối lập ấy, mà bằng con đường tạo ra một cơ chế cho phép kết hợp hài hòa các lợi ích đối lập. Năm 2008, trong bài viết Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay [109] tác giả Phạm Ngọc Quang cũng đã chỉ ra rằng: “Động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã 14 hội là một hệ thống: kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn dân;” [109, tr.8]. Việc chỉ ra cách thức giải quyết mâu thuẫn là kết hợp các lợi ích cũng gợi mở cho chúng tôi nhiều ý tưởng nghiên cứu. Năm 2006, trong bài viết Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, động lực của nhu cầu, lợi ích trong sự phát triển xã hội [33] tác giả Đặng Quang Định cho rằng: dưới góc độ phát triển xã hội, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận vị trí, vai trò của lợi ích trong hoạt động của mỗi cá nhân cụ thể mà chúng ta phải nói đến quan hệ biện chứng giữa các lợi ích đó nhằm tìm ra những động lực chung cho sự phát triển xã hội. Có như vậy, chúng ta mới tạo ra được những hoạt động của “khối quần chúng đông đảo”, của “một dân tộc trọn vẹn” thúc đẩy xã hội phát triển. Những đề xuất trong công trình này đặt ra cho chúng tôi nhiệm vụ tìm kiếm những cách thức giải quyết quan hệ lợi ích một cách lâu dài, trên cơ sở kết hợp các lợi ích. Năm 2014, tác giả Hoàng Văn Luân trong công trình Quản trị xung đột lợi ích - các lý thuyết và vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay [85] đã cho rằng giữa các lợi ích khác nhau trong xã hội luôn có xu hướng xung đột với nhau, đó là một tất yếu khách quan và phổ biến. Xung đột lợi ích được hiểu là sự vi phạm, xâm phạm hoặc làm tổn hại lẫn nhau giữa các lợi ích trong một quan hệ nhất định. Tác giả cũng đã lược khảo quan điểm của các nhà tư tưởng trong cách tiếp cận xung đột lợi ích như F.W.Taylor, Mary Packer Follet... Từ đó, tác giả cho rằng, để thúc đẩy xã hội phát triển, cần có quản trị xung đột lợi ích - tức là quá trình tác động của nhân tố chủ quan đến các xung đột lợi ích, hay cụ thể hơn là đến các xu hướng khách quan của sự cạnh tranh, đấu tranh giữa các lợi ích không phải là sự triệt tiêu sự cạnh tranh, đấu tranh này, cũng không phải là để đẩy sự cạnh tranh đó thành đối kháng, thù địch mà tạo ra sự cân bằng năng động giữa các lợi ích - động lực phát triển xã hội. Tác giả cũng cho rằng: xung đột lợi ích giữa các chủ thể khác nhau có thể là xung đột LICN - LIXH, xung đột LICN, lợi ích nhóm, xung đột lợi ích nhóm - lợi ích nhóm, xung đột LICN và/hoặc lợi ích nhóm - lợi ích chung... Công trình rất có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn khi lược khảo các lý thuyết quản trị xung đột trên thế giới, từ đó có những đánh giá, liên hệ việc quản trị xung đột lợi ích ở Việt Nam. 15 Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài nghiên cứu trên tạp chí, tác giả chưa đề cập cụ thể tới các nhân tố chủ quan trong việc giải quyết xung đột lợi ích. Đề cập cụ thể tới cách thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích, theo tác giả Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích [76] đó là: “các quan hệ lợi ích đặc biệt được thể hiện rõ nhất trong khâu phân chia, phân phối các sản phẩm lao động” [76, tr.133], tuy nhiên “Cái gốc của phân phối sản phẩm lao động lại ở vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất” [76, tr.135], do vậy, tác giả khẳng định, cơ sở giải quyết vấn đề lợi ích của người lao động hiện nay đó chính là vấn đề sở hữu: “vấn đề lợi ích gắn chặt với vấn đề sở hữu, do đó cơ sở để giải quyết vấn đề lợi ích của người lao động phải đa dạng hóa vấn đề sở hữu” [76, tr.136]. Cùng với đó, tác giả cho rằng “chỉ có thể tạo ra sự kết hợp thống nhất giữa lợi ích riêng và lợi ích chung mới có thể tạo nên sự phát triển chung của xã hội. Cụ thể là, cần tạo ra một cơ chế kích thích sao cho mỗi cá nhân khi hoạt động thực hiện các lợi ích riêng của mình, nhất là các lợi ích riêng được phản ánh trong lợi ích chung của cộng đồng, đồng thời tạo nên xu hướng vận động chung của cộng đồng” [76, tr.96]. Tác giả cũng xác định: “trong giai đoạn hiện nay, lợi ích kinh tế là lợi ích quan trọng nhất đối với đa số nhân dân ta” [76, tr.96]. Mặc dù đây mới là những phân tích ban đầu, song chúng tôi s dụng những phân tích này để xây dựng tổng thể cách thức giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH được nêu trong luận án. Năm 2011, khi bàn về chủ thể giải quyết mâu thuẫn lợi ích, tác giả Hồ Bá Thâm trong công trình Bàn về mâu thuẫn xung đột lợi ích hiện nay [127], đã nêu: “những chủ thể rất quan trọng trước hết là bản thân các nhóm, giai tầng xã hội. Nhưng Nhà nước, chính quyền địa phương và nhất là các cấp từ cơ sở đến trung ương đều có vai trò cực kỳ quan trọng cả tầm vĩ mô và vi mô trong việc tạo nên môi trường thể chế và tạo nên hệ thống nhân lực chính làm nòng cốt, đủ sức huy động mọi tầng lớp xã hội tham gia giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh và xung đột” [127, tr.328]. Cùng với đó, theo tác giả, việc giải quyết hài hòa các mâu thuẫn, xung đột - trọng tâm chính là nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền. Những
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan