Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án tiến sĩ chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng...

Tài liệu Luận án tiến sĩ chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng ở đảng bộ bộ tổng tham mưu cơ quan bộ quốc phòng hiện nay

.DOC
206
32
105

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Ngọc Thắng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 8 1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 12 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết 23 Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ BỘ TỔNG THAM MƯU - CƠ QUAN BỘ QUỐC PHÒNG 28 2.1. Tổ chức cơ sở đảng và công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng 28 2.2. Quan niệm, yếu tố quy định, biểu hiện, tiêu chí đánh giá chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Bộ Tổng 57 Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng Chương 3. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ BỘ 70 TỔNG THAM MƯU - CƠ QUAN BỘ QUỐC PHÒNG 3.1. Thực trạng chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở 70 đảng ở Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng 3.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng 89 Chương 4. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ BỘ TỔNG THAM MƯU CƠ QUAN BỘ QUỐC PHÒNG HIỆN NAY 107 4.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Bộ Tổng 107 Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng hiện nay 4.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng hiện nay 119 KẾT LUẬN 159 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC 160 CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 161 PHỤ LỤC 177 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TT 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. Chữ viết đầy đủ Bộ Quốc phòng Bộ Tổng Tham mưu Công tác đảng, công tác chính trị Chủ nghĩa xã hội Đảng Cộng sản Việt Nam Đội ngũ đảng viên Kiểm tra, giám sát Năng lực lãnh đạo Pháp luật Nhà nước Quân đội nhân dân Việt Nam Quân ủy Trung ương Quản lý đảng viên Tập trung dân chủ Trong sạch vững mạnh Tổ chức cơ sở đảng Hội đồng quân nhân Tự phê bình và phê bình Vững mạnh toàn diện Xã hội chủ nghĩa Chữ viết tắt BQP BTTM CTĐ, CTCT CNXH ĐCSVN ĐNĐV KTGS NLLĐ PLNN QĐNDVN QUTW QLĐV TTDC TSVM TCCSĐ HĐQN TPB & PB VMTD XHCN 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Công tác QLĐV là nội dung quan trọng trong xây dựng ĐNĐV; là cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nhận xét, quản lý, giáo dục bồi dưỡng, rèn luyện, phân công giao nhiệm vụ và sàng lọc đảng viên; góp phần bảo vệ chính trị nội bộ, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Thực hiện tốt công tác QLĐV trực tiếp góp phần xây dựng tổ chức đảng TSVM. Tổ chức cơ sơ đảng ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP là hạt nhân lãnh đạo cơ quan, đơn vị thuộc BTTM thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước, QUTW, BQP về các chủ trương, biện pháp quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, chiến lược và nghệ thuật quân sự Việt Nam, nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân đội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, vấn đề quan trọng là các tổ chức cơ sơ đảng ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP phải thường xuyên xây dựng ĐNĐV có số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng cao, trong đó phải tăng cường công tác quản lý đảng viên. Đảng viên của các tổ chức cơ sơ đảng ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP là những cán bộ đảm nhiệm các cương vị trọng trách chủ trì, chủ chốt, các nhiệm vụ trọng yếu, cơ mật của Quân đội, tính chất nhiệm vụ nặng nề, phức tạp, yêu cầu đòi hỏi chính xác cao, phạm vi ảnh hưởng đến toàn quân. Đây là lực lượng có vai trò quyết định đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ và Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. Vì vậy, làm tốt công tác QLĐV sẽ góp phần quan trọng để mỗi đảng viên nêu cao ý thức trách nhiệm, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, phát huy hết tài năng, trí tuệ để xây dựng Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP TSVM. Trong những năm qua, công tác QLĐV luôn được các tổ chức cơ sơ đảng ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP quan tâm, thực hiện có nền nếp, hiệu 4 quả, góp phần nâng cao chất lượng ĐNĐV, xây dựng TCCSĐ, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội giao phó. Tuy nhiên, công tác QLĐV ở một số TCCSĐ vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đến công tác QLĐV; thiếu chủ động đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp QLĐV; chất lượng một số đảng viên chưa tương xứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; cá biệt có đảng viên suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, thiếu tu dưỡng rèn luyện; thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, vi phạm kỷ luật Quân đội, kỷ luật Đảng, PLNN. Trong những năm tới, tình hình quốc tế, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; các nước lớn có những điều chỉnh mới về chiến lược quốc phòng và phương thức tiến hành chiến tranh trong thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế; những thách thức mới từ an ninh phi truyền thống. Yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hình mới đòi hỏi ngày càng cao, nhất là yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia; yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội. Trong khi đó, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, “phi chính trị hóa” quân đội. Một trong những mũi nhọn chống phá của các thế lực thù địch là nhằm vào đội ngũ cán bộ ở các cơ quan chiến lược BQP. Mặt khác, những hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động, ảnh hưởng xấu đến nhận thức, hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Để chủ động ngăn ngừa, phòng chống có hiệu quả những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một số đảng viên, không để các phần tử xấu lợi dụng, mua chuộc, kích động, cài cắm, móc nối. Vấn đề cấp thiết đặt ra đối với các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP là phải nâng cao chất lượng công tác QLĐV. Đây là vấn đề đề cấp bách, khâu then chốt trong công tác xây dựng các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP hiện nay. 5 Hiện nay, các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP đang tích cực đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và chất lượng ĐNĐV. Yêu cầu nhiệm vụ của Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP đòi hỏi ngày càng cao, nhất là việc nghiên cứu dự báo, tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước, QUTU, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xử lý các tình huống về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề đó đặt ra yêu cầu cao đối với các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP là phải coi trọng công tác QLĐV. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng công tác quản lý đảng viên của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ khoa học chính trị chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP là yêu cầu đòi hỏi khách quan, là nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách góp phần xây dựng Đảng bộ TSVM, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về chất lượng công tác QLĐV và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và xác định những vấn đề luận án tập trung giải quyết. Luận giải những vấn đề lý luận về công tác QLĐV, chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. 6 Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Chất lượng công tác QLĐV của các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn chất lượng công tác QLĐV, nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. Phạm vi khảo sát ở các đảng bộ, chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy BTTM - Cơ quan BQP. Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn phục vụ cho nghiên cứu đề tài giới hạn từ năm 2015 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của ĐCSVN về công tác xây dựng Đảng, xây dựng ĐNĐV; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và nâng cao chất lượng ĐNĐV. Cơ sở thực tiễn Là thực tiễn xây dựng ĐNĐV, chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP; các nghị quyết, chỉ thị, quy định và các báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng của các cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị ở BTTM và kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp: kết hợp lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia. 7 5. Những đóng góp mới của luận án Xây dựng quan niệm chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. Rút ra một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. Đề xuất nội dung, biện pháp cụ thể, khả thi trong một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chất lượng công tác QLĐV; đồng thời cung cấp luận cứ khoa học giúp cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chính trị và cơ quan chính trị các cấp trong nâng cao chất lượng công tác QLĐV của các TCCSĐ ở Đảng bộ BTTM - Cơ quan BQP. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy môn CTĐ, CTCT ở các học viện, nhà trường trong Quân đội. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác xây dựng tổ chức đảng và đảng viên Ngô Tu Nghệ (1999), Kiên trì và hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng [119]. Trong cuốn sách đã chỉ ra vai trò lãnh đạo của Đảng theo quan điểm mácxit, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của các TCCSĐ trong giáo dục, rèn luyện ĐNĐV và chỉ ra phương hướng, biện pháp để thực hiện nâng cao chất lượng công tác giáo dục, rèn luyện, QLĐV của các TCCSĐ, chi bộ. Nhiệm Khắc Lễ (1995), Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay [109]. Trong cuốn sách đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc; chỉ rõ tầm quan trọng của các TCCSĐ trong giáo dục, rèn luyện ĐNĐV; xác định phương hướng, biện pháp để nâng cao chất lượng công tác giáo dục, rèn luyện, QLĐV của các TCCSĐ và chi bộ. Chu Chí Hòa (2010), Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn [102]. Trong cuốn sách, tác giả đã đề cập đến những nội dung, biện pháp công tác xây dựng đảng ở nông thôn Trung Quốc cần đổi mới, trong đó có đề cập đến đổi mới công tác quản lý, giám sát đảng viên; lựa chọn, bổ nhiệm bí thư tổ chức đảng nông thôn. Hồ Văn Hổ (2011), Cầm quyền khoa học [103]. Trong cuốn sách, tác giả khái quát quan điểm cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc; trình bày tóm tắt ý nghĩa quan trọng của cầm quyền khoa học, bản chất của cầm quyền khoa học, mối quan hệ tương hỗ giữa cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật. Trong phần “Con đường hiệu quả để duy trì tính tiên tiến của Đảng”, tác giả cho rằng: “Đảng cầm quyền muốn nâng cao năng lực cầm quyền thì phải nỗ lực tìm ra con đường hiệu quả để đẩy 9 mạnh xây dựng tính tiên tiến của Đảng, để điều kiện căn bản cho Đảng kiên trì cầm quyền khoa học mãi không bị mất đi [103, tr.543]. Xây dựng tính tiên tiến của Đảng phải thiết thực, phải giải quyết tốt được vấn đề nổi cộm về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tác phong của đảng viên và tổ chức đảng với các vấn đề trong đời sống sản xuất của quần chúng nhân dân. Trong hoạt động giáo dục tính tiên tiến, mỗi đảng viên đều cần phải “học thật”, nỗ lực nắm bắt lập trường, quan niệm, phương pháp của lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “ba đại diện” đưa thực tiễn quan điểm thành tích chính trị đúng đắn, quan điểm phát triển khoa học tiến lên phái trước [103, tr.544]. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, hội thảo lý luận xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc [70]. Cuốn sách đã chỉ rõ: Nghiêm chỉnh làm tốt công tác quản lý đảng viên. Trước thực tế là sau khi cải cách mở cửa, đảng viên từ “người của đơn vị” trở thành “người của xã hội” ngày càng nhiều. Việc chú ý kết hợp hài hòa giáo dục đảng viên với việc quản lý đảng viên làm cho công tác quản lý đảng viên từng bước chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, chuyển từ khép kín sang mở cửa, chuyển từ nhằm vào quản lý cho được sang quản lý cho tốt và quản lý cho sống động, bước đầu tìm tòi được cơ chế quản lý đảng viên thích ứng với nhu cầu phát triển của tình hình [70, tr.117]. Vũ Dần (2013), Xây dựng văn hóa liêm chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc [43]. Trong cuốn sách, tác giả đã đưa ra các giải pháp xây dựng liêm chính cho cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, như: Tăng cường giáo dục, dẫn dắt cán bộ, đảng viên xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm quyền lực đúng đắn; quán triệt thực hiện quy phạm ngành nghề và quy phạm hành vi làm việc liêm khiết của 10 cán bộ, đảng viên lãnh đạo, thúc đẩy cán bộ lãnh đạo thực hiện quan niệm liêm chính; đi sâu công khai công tác đảng, công tác chính quyền, để quyền lực vận hành dưới ánh mặt trời. Ánh mặt trời có chức năng diệt khuẩn, khử độc, có khả năng tăng cường sức miễn dịch của cơ thể người, để vạn vật tràn đầy sức sống, là thuốc chống thối rữa tốt nhất. Pheng Sỏn Khu Thoong Khăm (2014), Chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn các tỉnh miền Trung nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay [105]. Tác giả đã làm rõ một số khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng ĐNĐV nói chung và ĐNĐV ở nông thôn các tỉnh miền Trung nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Trên cơ sở tiêu chí đó, luận án đã đánh giá thực trạng ưu, khuyết điểm của ĐNĐV và công tác nâng cao chất lượng đảng viên của các tổ chức đảng, đề ra các giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng ĐNĐV, trong đó có giải pháp tăng cường công tác QLĐV ở nông thôn trong tình hình mới. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về công tác quản lý đảng viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1973), Bản hướng dẫn các tổ chức của Đảng cộng sản Liên xô trong Quân đội và Hải quân Xô Viết [6] đã đề ra 13 nhiệm vụ của các TCCSĐ của Quân đội và Hải quân Xô viết. Trong đó có các nhiệm vụ liên quan đến công tác giáo dục, rèn luyện ĐNĐV ở các đơn vị Hải quân Liên Xô như: Giáo dục các đảng viên Cộng sản là người chiến sĩ tích cực và giác ngộ chính trị của Đảng, tinh thần trung thành với sự nghiệp của Đảng Cộng sản Liên Xô, tinh thần tin tưởng vào đạo đức cộng sản; tổ chức cho các đảng viên nghiên cứu lý luận Mác - Lênin; giáo dục mọi đảng viên chính thức và đảng viên dự bị của Đảng tinh thần cảnh giác cao, lòng căm thù với mọi kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, có ý chí kiên định, tinh thần dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng, khả năng chịu đựng mọi khó khăn trong cuộc sống chiến đấu, cống hiến tất cả sức lực nếu cần để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa [6, tr. 245]. 11 I.S.Mét- Nhi- Cốp (1974), Đảng cộng sản người lãnh đạo và giáo dục các lực lượng vũ trang Xô Viết [111]. Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích làm rõ: Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và củng cố Quân đội là quy luật khách quan, nó bắt nguồn từ bản chất của Đảng Mác Lênin và việc tăng cường vai trò ảnh hưởng của tổ chức đảng trong Quân đội và Hải quân là nền tảng cơ bản nhất của việc xây dựng lực lượng vũ trang. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội đòi hỏi phải nâng cao vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trong thực hiện chức trách người chiến sĩ [111, tr.159]. A.A. Êpisép (1976), Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918-1973 [95], và Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Xô viết của H.H. P.I. Các- Pen-Cô (1981). Các tác giả đã phân tích và khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của các TCCSĐ, chi bộ trong việc xây dựng, chiến thắng và trưởng thành của Quân đội Xô Viết trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Các tác giả cũng xác định, để nâng cao năng lực lãnh đạo của chi bộ phải chú trọng kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng đội ngũ bí thư cấp ủy, đặc biệt là bí thư chi bộ về phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác. Đồng thời chỉ rõ, TCCSĐ, chi bộ là nơi trực tiếp quán triệt, triển khai thực hiện thắng lợi mọi nghị quyết, chỉ thị của tổ chức đảng cấp trên; nơi giáo dục, rèn luyện, QLĐV. Đặng Thúy Hà (2004), Tình hình xây dựng đội ngũ đảng viên và vấn đề kết nạp đảng viên mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn mới [98]. Tác giả đã phân tích tình hình xây dựng đảng viên ở Trung Quốc, nhất là thực trạng phát triển đảng viên, Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tác giả cho rằng, phát triển đảng viên cần hết sức tránh tình trạng chạy theo số lượng, hạ thấp tiêu chuẩn, xem nhẹ chất lượng hoặc rụt rè, hẹp hòi trong phát triển đảng viên. Chất lượng đảng viên gắn liền với số lượng đảng viên 12 là một yếu tố quan trọng tạo thành sức mạnh của ĐNĐV. Phải có một số lượng đảng viên nhất định thì mới tạo nên được lực lượng chiến đấu của Đảng, mới tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Bộ Tổ chức Thành ủy Thẩm Quyến (2006), Bộ Tổ chức Thành ủy Thẩm Quyến, [26]. Trong cuốn sách, tác giả đã đề cập đến hầu hết các mặt hoạt động xây dựng nội bộ đảng ở khu công nghiệp đặc thù. Riêng về công tác QLĐV, tác giả phân tích những quy định của Đảng Cộng sản Trung Quốc về chế độ báo cáo: Chế độ định kỳ hội báo, định kỳ hội báo tư tưởng và công tác của mình với tổ chức là một phương thức để đảng viên chịu sự giáo dục và giám sát của tổ chức đảng, là một con đường để tổ chức đảng tìm hiểu nắm vững tình hình tư tưởng và công tác của đảng viên, cũng là truyền thống tốt đẹp về sinh hoạt trong Đảng . 1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác xây dựng tổ chức đảng và đảng viên Nguyễn Thị Tuyến (2010), Quản lý đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở Đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay [149]. Trong luận án, tác giả đã phân tích, luận giả làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về QLĐV trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng; đánh thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường QLĐV trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở đồng bằng sông Hồng đến năm 2025. Tác giả đã luận giải làm rõ nội dung quản lý chất lượng đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; quản lý công tác thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ và học tập; quản lý về quan hệ xã hội. Luận án làm rõ nội dung, phương thức QLĐV trong doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. Nguyễn Văn Quán (2011), Thực trạng và giải pháp công tác quản lý đảng viên là lưu học sinh, tu nghiệp sinh và lao động xuất khẩu ở Nhật Bản, 13 Hàn Quốc [130]. Trong đề tài, các tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận công tác QLĐV là lưu học sinh, tu nghiệp sinh và lao động xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn Quốc; phân tích rõ thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân ưu, khuyết điểm về công tác QLĐV là lưu học sinh, tu nghiệp sinh và lao động xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn Quốc; đồng thời đề xuất những giải pháp tăng cường công tác QLĐV là lưu học sinh, tu nghiệp sinh và lao động xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn Quốc. Nguyễn Xuân Định (2011), Thực trạng đội ngũ đảng viên và công tác quản lý đảng viên lưu học sinh, đảng viên lao động xuất khẩu tại Trung Quốc và Đài Loan [94]. Trong đề tài, các tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của công tác QLĐV của các tổ chức đảng trong điều kiện hiện nay, nhất là đảng viên công tác ở xa Tổ quốc. Trên cơ sở phân tích nguyên nhân của tình hình QLĐV ngoài nước, các tác giả đã đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác QLĐV ngoài nước theo hướng đơn giản về thủ tục, tạo thuận lợi và chú trọng tính hiệu quả, khả thi đối với đảng viên lưu học sinh, đảng viên lao động xuất khẩu tại Trung Quốc và Đài Loan. Phùng Anh Tuấn (2012), Quản lý đảng viên thường xuyên làm việc xa nơi cư trú, đảng viên là sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm ổn định - Thực trạng và giải pháp [147]. Trong đề tài, tác giả đã phân tích làm sâu sắc hơn những quan điểm của Đảng về vai trò của công tác QLĐV trong tổ chức và hoạt động của Đảng; đánh giá đúng thực trạng, làm rõ những hạn chế yếu kém, khó khăn và những nguyên nhân chủ yếu trong công tác QLĐV thường xuyên làm việc xa nơi cư trú, đảng viên là sinh viên chưa có việc làm ổn định; đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm tăng cường quản lý đối tượng này trong thời gian tới. Đậu Văn Côi (2016), “Về tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược” [33], Tác giả cho rằng, để lãnh đạo đất nước vượt qua thách thức, phát triển bền vững, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo 14 cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực lãnh đạo ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định. Theo tác giả, tiêu chuẩn chung của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chiến lược là: Có phẩm chất đạo đức thực sự trong sáng, uy tín được khẳng định, khả năng gây ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, trước hết là trong đơn vị, ngành, địa phương trong phạm vi lãnh đạo quản lý. Có lý tưởng cao đẹp, lập trường kiên định, có hoài bão, khát vọng đổi mới vì dân, vì nước. Có tư duy đổi mới. Tầm nhìn chiến lược, đồng thời có trực giác sắc sảo, nhạy bén. Có phong cách lãnh đạo dân chủ, năng động, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và có tính lôi cuốn thuyết phục cao; kỹ năng lãnh đạo, quản lý [33, tr.73]. Nguyễn Thị Mai Anh (2017), “Nâng cao chất lượng đảng viên - Vấn đề cốt lõi để xây dựng Đảng TSVM trong tình hình hiện nay” [1]. Tác giả cho rằng: Lãnh đạo, QLĐV là công tác quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Đảng. QLĐV phải tiến hành thường xuyên, chặt chẽ và toàn diện, phải quản lý về mọi mặt, từ phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống đến trình độ năng lực, sức khỏe của đảng viên. Quản lý tốt là cơ sở để giáo dục, rèn luyện đảng viên, sàng lọc đảng viên, từ đó phát hiện, giới thiệu nguồn cán bộ cho Đảng. Tuy nhiên, việc quản lý phải bám sát các nguyên tắc, quy định về QLĐV của Đảng, đó là kết hợp chặt chẽ giữa việc quản lý của tổ chức với việc tự quản lý của đảng viên, giữa quản lý của chi bộ với quản lý của tổ chức đảng cấp trên, giữa quản lý trong nội bộ Đảng với việc quản lý, giám sát của quần chúng. Nguyễn Thế Thái (2017), “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn hiện nay” [138]. Tác giả đã chỉ rõ những mặt hạn chế công tác xây dựng ĐNĐV trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số biện pháp trong đó có biện pháp về QLĐV, đó là: “Nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, đưa công tác quản lý đảng viên vào nề nếp”. Cấp ủy các cấp cần thực hiện đúng các quy định, nguyên tắc, thủ tục, quy trình về công tác quản lý hồ sơ đảng viên; giới thiệu sinh hoạt đảng, giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối 15 liên hệ với đảng ủy, chi ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; thực hiện nghiêm túc việc chuyển sinh hoạt đảng đối với những đảng viên nghỉ hưu về sinh hoạt với tổ chức đảng nơi cư trú, tích cực sử dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý cơ sở dữ liệu về đảng viên. Nguyễn Thái Sơn (2017), “Rèn luyện tính Đảng của đảng viên trong giai đoạn cách mạng hiện nay” [136]. Tác giả đưa ra quan niệm “Tính Đảng” của cán bộ, đảng viên, đó là: Sự thừa nhận một cách tự nguyện và tuyệt đối trung thành với nền tảng tư tưởng, lý tưởng cách mạng mà đảng cầm quyền lựa chọn, xác định là kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng; đó là sự tuân thủ tính tổ chức và tính kỷ luật; đó còn là những chuẩn mực trong mọi cử chỉ, hành vi, lời nói trong các hoạt động xã hội [136, tr.613]. Tác giả bài báo đã chỉ ra các yếu tố cấu thành nên nội dung “tính Đảng” bao gồm các mặt tư tưởng, mặt tổ chức và mặt hoạt động xã hội, đạo đức, lối sống của đảng viên. Đây là bốn yếu tố căn cốt không thể tách rời, có quan hệ khăng khít với nhau khi xem xét đến “tính Đảng” của đảng viên. Trương Thị Bạch Yến (2017), “Phát huy tính tự giác, tiên phong trong thực hiện nghĩa vụ của tổ chức đảng và đảng viên” [160]. Tác giả đưa ra quan niệm về tính tự giác và tính tiên phong của tổ chức đảng và đảng viên. Tác giả cho rằng: Tính tự giác của người cộng sản là sự tự biết những điều cần phải làm, theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phù hợp với quy luật khách quan và gắn với nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn lịch sử cụ thể. Tiên phong đi đầu, làm trước (để người khác theo). Trong thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, tính tự giác và tiên phong của tổ chức đảng và đảng viên thể hiện ở sự chủ động khi hành động, hướng đến hoàn thành mục tiêu sớm nhất và tốt nhất. Tự giác là điều kiện cần thiết, đầu tiên, chi phối và quyết định vai trò tiên phong của tổ chức đảng và đảng viên. Để có thể hành động tiên phong, phải xuất phát từ ý thức tự giác. Đồng thời, khi những người cộng sản hành động với vai 16 trò tiên phong của mình, thì chính họ cũng đang thể hiện ý thức tự giác cao nhất [160, tr.769]. Phạm Thị Hạnh (2017), “Nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đản viên, nhất là người đứng đầu - Một giải pháp quan trọng để xây dựng Đảng về đạo đức” [101]. Tác giả chỉ ra những biểu hiện tính tiên phong gương mẫu của người cán bộ, đảng viên, đó là: Tiên phong, gương mẫu về nhận thức lý luận, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tiên phong gương mẫu về bản lĩnh, phẩm chất chính trị; tiên phong gương mẫu về phẩm chất đạo đức cách mạng; tiên phong, gương mẫu về trình độ, năng lực công tác; tiên phong, gương mẫu về phong cách công tác, quan hệ mật thiết với nhân dân. Tác giả cho rằng: Mỗi cán bộ, đảng viên hàng ngày phải tự xem xét lại mình, xem xét cái gì đúng, cái gì sai, nguyên nhân vì đâu và suy nghĩ, tìm cách sửa chữa để làm việc tốt hơn, sống đẹp hơn. Người cán bộ, đảng viên cần khiêm tốn, lắng nghe, tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí, của quần chúng, của cấp dưới từ đó chuyển thành nhận thức và hành động tự giác [101, tr.780]. Đỗ Anh Vĩnh (2018), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý đảng viên ở chi bộ trong giai đoạn hiện nay” [157]. Tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng QLĐV ở chi bộ trong giai đoạn hiện nay, đó là: Thực hiện tốt công tác QLĐV theo chế độ, thủ tục hành chính Đảng; kết hợp chặt chẽ công tác quản lý với công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống cho đảng viên; mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch phấn đấu và chương trình tự quản lý, rèn luyện để chi ủy, chi bộ KTGS thực hiện; các cấp ủy đảng, chi bộ thực hiện tốt việc KTGS và phân tích chất lượng đảng viên; phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức đảng nơi công tác với tổ chức đảng nơi cư trú để quản lý tốt đảng viên. 17 Vũ Văn Hải (2018), “Kiểm soát quyền lực của cán bộ, đảng viên để xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” [100]. Tác giả cho rằng: Đảng ta là đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên được giao nhiều quyền lực để làm việc cho dân. Nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, xuất hiện nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan làm cho quyền lực của cán bộ, đảng viên rất dễ bị tha hóa, trong đó có một phần không nhỏ là do thiếu kiểm soát [100, tr.37]. Để khắc phục tình trạng trên, tác giả cho rằng: Trước hết là tự thân cán bộ, đảng viên phải tự kiểm soát chính mình; cầu thị lắng nghe, chân thành tiếp thu, nghiêm túc sửa chữa, khắc phục sai lầm, khuyết điểm; đã nói phải làm, đã làm phải xong; tự mình phải biết noi gương và soi gương; tự trọng và giữ gìn liêm sỉ, đề cao lương tâm và trách nhiệm trước Đảng, trước dân; phải thường xuyên tự xét mình xem có trong sạch không, soi vào người khác để xem có xứng đáng không, nhìn vào việc mình làm để thấy năng lực mình cao hay thấp, chiếu vào quy định để biết mình là đúng hay sai; phải biết xấu hổ khi có khuyết điểm; cấp trên phải sâu sát gương mẫu, thường xuyên giáo dục, quán triệt nghiêm túc, kiểm tra, giám sát, kiểm điểm, phê bình, góp ý xây dựng, chấn chỉnh, xử lý vi phạm công bằng, nghiêm minh [100, tr.38, 39]. Nguyễn Chí Mỳ (2018), “Nhận diện suy thoái về đạo đức của cán bộ, đảng viên - những yếu tố tác động và giải pháp phòng ngừa” [118]. Tác giả đã chỉ ra những yếu tố tác động đến đạo đức cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, đó là: Mặt trái kinh tế thị trường và toàn cầu hóa; sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn yếu; thực hiện các nguyên tắc trong sinh hoạt đảng ở không ít tổ chức đảng chưa nghiêm túc; hệ thống cơ chế, chính sách chưa phù hợp, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng 18 chưa nghiêm; công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên chưa thường xuyên, liên tục, hiệu quả chưa cao [118, tr.24, 25]. Tác giả đưa ra một số giải pháp chủ yếu phòng ngừa suy thoái về đạo đức trong cán bộ đảng viên: Một là, nhận thức đầy đủ, sâu sắc cuộc đấu tranh, phòng chống suy thoái về đạo đức trong cán bộ, đảng viên [117, tr.26]. Hai là, quyết liệt triển khai 4 nhóm giải pháp của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và các quyết định, quy định của Trung ương [118, tr.26]. Đoàn Minh Huấn (2018), “Giáo dục, rèn luyện nghĩa vụ đạo đức cách mạng cho đảng viên - Một nội dung quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức” [104]. Tác giả cho rằng, để thực hiện tốt bổn phận, trách nhiệm của đảng viên, tác giả đưa ra các biện pháp chủ yếu sau: Rèn luyện hành vi đạo đức; xây dựng các quan hệ ứng xử đúng bổn phận; trách nhiệm trong thực hành nghĩa vụ đạo đức; rèn luyện bản lĩnh và năng lực tự đánh giá, tự soi mình, tự phán xử, tự phê bình; xây dựng cơ chế, môi trường cho nâng cao ý thức nghĩa vụ đạo đức và thực hành nghĩa vụ đạo đức; đấu tranh chống lại các cái ác, thói hư, tật xấu, đi ngược lại các nghĩa vụ đạo đức cách mạng của đảng viên trong thực tiễn đời sống hàng ngày. Trần Thị Minh (2018), “Để thực hiện có hiệu quả quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên” [117]. Tác giả đã chỉ ra một số hạn chế trong triển khai thực hiện quy định nêu gương và đưa ra các giải pháp thực hiện có hiệu quả quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đó là, coi trọng và làm tốt việc tổ chức cho cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu cấp ủy đăng ký nội dung nêu gương bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, gắn với kế hoạch, giải pháp rèn luyện, tu dưỡng của cá nhân; thực hiện nghiêm túc việc phân công cụ thể cho đảng viên, thường xuyên kiểm điểm, đánh giá chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được giao; chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường KTGS việc 19 thực hiện các quy định, tập trung vào giám sát thực hiện trách nhiệm nêu gương người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp theo phân cấp quản lý. Phạm Ngọc Anh (2018), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nhìn từ góc độ xây dựng văn hóa Đảng” [2]. Tác giả cho rằng, để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đòi hỏi: Các tổ chức đảng cần hiểu rõ tính cấp thiết, tầm quan trọng của vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân…, coi trọng thực hành tự phê bình và phê bình; khuyến khích quần chúng phê bình đảng viên, đặt sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên dưới sự giám sát của nhân dân; giữ nghiêm chế độ sinh hoạt chi bộ; công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ [2, tr.6]. Lê Duy Chương (2018), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng từ khía cạnh trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên” [34]. Tác giả cho rằng: Thực tế hiện nay, việc đánh giá phân loại TCCSĐ, đảng viên và cán bộ nói chung chưa thực chất, chưa sát với thực tế. Nhiều đảng bộ số tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ, số đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm tỷ lệ cao những không tương xứng với mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị [34, tr.39]. Để chấn chỉnh tình hình trên, tác giả cho rằng: Đánh giá cán bộ, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành, các đơn vị là rất quan trọng. Nếu các cấp ủy và cấp trên hàng năm đánh giá được người đứng đầu các cấp, các ngành và công bố, công khai cho nhân dân, cán bộ giám sát thì phong trào sẽ chuyển biến tốt hơn. Đối với người đứng đầu các địa phương cần phải hết sức coi trọng tiêu chí: Chỉ số hài lòng của người dân, chính trị địa phương ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao [34, tr.39].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan