Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nâng cao thành tích chạy 100m cho na...

Tài liệu Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển điền kinh trường thpt xuân hoà phúc yên vĩnh phúc (2014)

.PDF
58
209
93

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT ĐÀO NHƢ QUỲNH LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH TỐC ĐỘ NÂNG CAO THÀNH TÍCH CHẠY 100M CHO NAM ĐỘI TUYỂN ĐIỀN KINH TRƯỜNG THPT XUÂN HÒA - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HÀ NỘI – 2014 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT ĐÀO NHƢ QUỲNH LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH TỐC ĐỘ NÂNG CAO THÀNH TÍCH CHẠY 100M CHO NAM ĐỘI TUYỂN ĐIỀN KINH TRƯỜNG THPT XUÂN HÒA - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP Hƣớng dẫn khoa học TH.S Vũ Tuấn Anh HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là: ĐÀO NHƯ QUỲNH Sinh viên: K36 - Khoa Giáo dục thể chất. Tôi xin cam đoan đề tài: “Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa – Phúc Yên - Vĩnh Phúc” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài không trùng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.Các kết quả nghiên cứu này mang tính thời sự cấp thiết, đúng thực tế khách quan của trường THPT Xuân Hòa –Phúc Yên – Vĩnh Phúc. Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2014 Sinh viên Đào Nhƣ Quỳnh DANH MỤC VIẾT TẮT 1. TDTT : Thể dục thể thao 2. VĐV : Vận động viên 3. HLV : Huấn luyện viên 4. THPT : Trung học phổ thông 5. XPT : Xuất phát thấp 6. XPC : Xuất phát cao 7. BXTC : Bật xa tại chỗ 8. TTN : Trước thực nghiệm 9. STN : Sau thực nghiệm 10. CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa 11. NXB : Nhà xuất bản 12. TT : Thứ tự 13. SMTĐ : Sức mạnh tốc độ 14. s : Giây 15. m : Mét 16.GDTC : Giaó dục thể chất DANH MỤC BIỂU BẢNG STT Bảng 3.1 Nội dung Trang Thực trạng đội ngũ giáo viên thể dục trườngTHPT Xuân Hòa-Phúc Yên-Vĩnh Phúc 25 Bảng 3.2 Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập môn GDTC 26 Bảng 3.3 Các bài tập phát triển SMTĐ được sử dụng trong huấn luyện đội tuyển nam Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa – Phúc yên – Vĩnh Phúc. 27 Bảng 3.4 Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá năng lực SMTĐ trong chạy 100m Nam (n = 10). 28 Bảng 3.5 Kết quả kiểm tra năng lực SMTĐ của đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa – Phúc Yên – Vĩnh Phúc (n = 12). 29 Bảng 3.6 Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập phát triển SMTĐ trong cự ly chạy 100m Nam (n = 10). 31 Bảng 3.7 Nội dung bài tập phát triển SMTĐ. 33 Bảng 3.8 Kết quả kiểm tra 2 nhóm trước thực nghiệm (nA = nB = 6). Bảng 3.9 Tiến trình thực nghiệm. Bảng 3.10 Kết quả kiểm tra 2 nhóm sau thực nghiệm (nA = nB = 6). 34 36 37 Biểu đồ 3.1 Biểu đồ biểu diễn kết quả kiểm tra bật cao liên tục trên hố cát 20s/ (lần) 39 Biểu đồ 3.2 Biểu đồ diễn tả kết quả kiểm tra test 30m XPC. 39 Biểu đồ 3.3 Biểu đồ biểu diễn kết quả kiểm tra test chạy 100m XPT. 40 MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ 4 1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về GDTC và TDTT trường học 4 1.2.Đặc điểm tâm- sinh lý lứa tuổi THPT. 6 1.3. Cơ sở huấn luyện môn Điền Kinh. 9 1.4. Cơ sở sinh lý của tố chất sức mạnh tốc độ. 11 CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 20 2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu. 20 2.2. Phương pháp nghiên cứu. 20 2.3. Tổ chức nghiên cứu. 22 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 24 3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và năng lực sức mạnh tốc độ của nam đội tuyển Điền Kinh Trương THPT Xuân Hòa. 24 3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số bài tập phát triển SMTĐ của nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa. 30 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 41 1. Kết luận. 41 2. Kiến nghị . 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO. 42 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước, công tác TDTT có nhiều bước tiến mới. Chúng ta phấn đấu thực hiện kế hoạch củng cố, xây dựng và phát triển phong trào TDTT trong những năm đầu thế kỷ XXI, đưa nền thể thao nước nhà hoà nhập và đua tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy mà phong trào TDTT đã phát triển không ngừng, thu hút nhiều đối tượng tham gia tập luyện. Chỉ thị số 36- CT/ TW ngày 24 - 3 - 1994 của Ban Bí thư TW Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới khẳng định: “Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, công tác TDTT góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao sức lao động và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang”.[1] Chính vì thế trong những năm gần đây, Bộ GD - ĐT đã không ngừng cải tiến nội dung, đổi mới chương trình, phương pháp dạy TDTT trong các cấp học. Điền kinh là một trong những nội dung cơ bản không thể thiếu của hầu hết các chương trình giảng dạy của bậc đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cũng như bậc THPT. Công tác giáo dục thể chất nói chung và việc tập luyện các môn điền kinh nói riêng, không chỉ góp phần phát triển và hoàn thiện thể lực, trang bị hệ thống kĩ năng cho người tập mà còn giáo dục các phẩm chất đạo đức, ý chí và hình thành cuộc sống lành mạnh cho mọi người. Đổi mới trong phương pháp giáo dục thể chất là một việc làm có ý nghĩa thực tiễn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sử dụng các phương pháp, các bài tập phù hợp sẽ giúp người học phát triển tối đa về mặt thể chất. Có nhiều môn thể thao đã góp phần to lớn vào sự nghiệp pháp triển và tiến bộ của nước nhà, môn đầu tiên kể đến đó là “Điền kinh”. 2 Điền kinh là một trong những hoạt động thể dục thể thao phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội. Xuất hiện mọi lúc, mọi nơi với nhiều nội dung và hình thức tập luyện đa dạng phong phú. Được vận dụng tập luyện nhằm phát triển nâng cao thể lực cho con người. Ngoài ra, môn điền kinh là một phương tiện giáo dục thể chất có tác dụng phát triển các tố chất thể lực “Nhanh - mạnh - bền - khéo léo” cho người học. Trong đó, chạy ngắn là một nội dung được lựa chọn sử dụng rộng rãi trong chương trình giáo dục thể chất, ở các trường học từ phổ thông đến cao đẳng - đại học nhằm rèn luyện nâng cao sức khỏe và thể lực, phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực, niềm tin cho thế hệ trẻ. Thực tế ở các trường THPT trên toàn quốc nói chung và trường THPT Xuân Hòa-Phúc Yên-Vĩnh Phúc nói riêng, qua khảo sát chúng tôi thấy: Hiệu quả giảng dạy môn Điền Kinh, nội dung chạy ngắn kết quả chưa cao, thành tích của các em trong tập luyện và thi đấu còn khá khiêm tốn. Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi thấy các giáo viên trong quá trình giảng dạy nội dung chạy ngắn chưa thật sự chú ý đến việc phát triển yếu tố thể lực, đặc biệt là thể lực chuyên môn: “Sức mạnh tốc độ”. Vì vậy, việc áp dụng các bài tập phát triển các tố chất thể lực nói chung, bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nói riêng vào tập luyện một cách linh hoạt sáng tạo phù hợp và khoa học là một việc làm có ý nghĩa to lớn. Đặc biệt việc tăng cường củng cố, bổ sung các bài tập phát triển các tố chất thể lực của các em là một điều rất cần thiết. Chính vì vậy, lựa chọn các bài tập để phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích trong chạy 100m cho học sinh là một điều thiết thực nhất hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu tài liệu chúng tôi thấy môn chạy 100m trong học sinh THPT, đã có một số tác giả nghiên cứu nh-: Lưu Ngọc Vinh; Đặng Thị Thoa; Lê Kim Toản, Phạm Thị Ngọc Hà, Lại Thị Thúy Lan sinh viên Khoa GDTC Trường ĐHSP Hà Nội 2. Tuy 3 nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa – Phúc Yên – Vĩnh Phúc. Xuất phát từ những lý do trên, qua nghiên cứu phân tích tài liệu chúng tôi đề xuất và nghiên cứu đề tài: “Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc”. Mục tiêu của đề tài Trên cơ sở tổng hợp, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng sức mạnh tốc độ của nam vận động viên chạy 100m, đề tài tiến hành nghiên cứu lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích trong chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa - Phúc Yên -Vĩnh Phúc. 4 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về GDTC và TDTD Trƣờng học. Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển TDTT vì sức khỏe nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân thường xuyên rèn luyện thân thể giữ gìn sức khỏe và nâng cao thể lực. Bác Hồ tin yêu thế hệ trẻ, quan tâm và chăm sóc đến sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ, ngày về thăm Trường Trung cấp TDTT Trung ương (nay là Trường Đại học TDTT Bắc Ninh ), Bác đã căn dặn: "... Các cháu học TDTT không phải để đạt ông kiện tướng này, bà kiện tướng nọ. Cái chính là người cán bộ phục vụ đắc lực cho nhân dân, đem hiểu biết của mình ra hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khỏe đẩy lùi bệnh tật..." [8]. Định hướng về công tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ trong những năm tới, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII đã khẳng định: "Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu trong thế kỷ XXI. Chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI. Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện, không chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà phải là con người cường tráng về thể chất. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội của tất cả các ngành các đoàn thể, trong đó có giáo dục - đào tạo, y tế TDTT. Trước tình hình mới, định hướng của Đảng về phát triển sự nghiệp TDTT: "Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người công tác TDTT phải góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa tinh 5 thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang". Trong các văn bản Nghị quyết của Đảng đã khẳng định: Phải xây dựng nền TDTT có tính dân tộc, khoa học và nhân dân, phát triển rộng rãi phong trào TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao và tăng cường công tác GDTC trong nhà trường các cấp với khẩu hiệu: "Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Cũng như khẳng định phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội. Chỉ thị 36 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu: "Mục tiêu cơ bản lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân thực hiện nền giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học sinh - sinh viên" [1]. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có ghi: "Quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học". Điều đó đã khẳng định sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với TDTT và GDTC trong nhà trường, coi đó là nhiệm vụ cấp thiết của Đảng toàn dân, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển TDTT nước nhà. Chỉ thị 133 của Thủ tướng chính phủ đã chỉ rõ “Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc giáo dục thể chất trong nhà trường. Cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở các cấp học, quy chế bắt buộc ở các trường, nhất là các trường đại học phải có sân bãi, phòng tập TDTT, có định biên hợp lý và có kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả cấp học" [6]. Luật giáo dục đã khẳng định: "Giáo dục là con đường chủ yếu và cơ bản để chuẩn bị cho con người cho sự phát triển bền vững của đất nước trong điều 6 kiện kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con người có sức khỏe và được phát triển toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [7]. Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan trọng mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo, cũng như xác định đúng về vị trí GDTC trong nhà trường các cấp phải được triển khai thực hiện đồng bộ với các mặt giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến Đại học. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về công tác GDTC trong nhà trường các cấp. Trong đó đã khẳng định: "Giáo dục thể chất được thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào tạo những công dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". 1.2. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi THPT 1.2.1. Đặc điểm tâm lý Ở lứa tuổi này tâm lý của các em ở thích chứng tỏ mình là người lớn và muốn để mọi người tôn trọng mình ở lứa tuổi này đã có một trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng phân tích, tổng hợp, các em muốn khám phá, nhưng các em vẫn còn rất nhiều nhược diểm va kinh nghiệm sống còn thiếu. Ở độ tuổi này của các em chủ yếu là hình thành ý thức hình thành về tính cách và là tuổi nhu cầu sáng tạo cao có sự nảy nở những tình cảm trang lứa. Ở độ này nói chung các em đều có thái độ tự giác tích cực trong học tập, xuất phát từ những động cơ đúng đắn. Do đó trong lứa tuổi nay quá trình hưng phấn cao hơn quá trình ức chế nên các em tiếp thu nhanh nhưng cũng rất nhanh chóng chán, lản. Khi đạt được một số kết quả sẽ dẫn đến tự mãn, điều đó có tác động không tốt đến tập luyện cũng như thi đấu thể thao. Vì vậy khi 7 tiến hành tập luyện, huấn luyện cho các em ở lứa tuổi này cần phải uốn nắn nhắc nhở chỉ bảo tận tình và động viên các em một cách kịp thới để các em hoàn thành tốt nhiệm vụ, có hình thức khen thưởng động viên đúng lúc kịp thời. Trong quá trình huấn luyện dần dần từng bước động viên các em tiếp thu chậm. Từ đó làm cho các em không cảm thấy chán có định hướng phấn đấu và hiệu quả bài tập được nâng cao [15]. 1.2.2. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT Về mặt sinh lý lứa tuổi học sinh trung THPT là lứa tuổi đầu thanh niên là thời kì đạt được trưởng thành về mặt thể lực nhưng cơ thể còn kém so với sự phát triển của người lớn. Có nghĩa là ở lứa tuổi này cơ thể các em đang phát triển mạnh, khả năng hoạt động của các cơ quan và các bộ phận được nâng cao cụ thể là:  Hệ vận động: - Hệ xương: Ở lứa tuổi này cơ thể các em phát triển một cách mạnh mẽ về chiều dài, bề dày, hàm lượng các chất hữu cơ giảm do hàm lượng Mg, P, Ca trong xương tăng quá trình cốt hóa xương ở các bộ phận chưa hoàn tất chỉ xuất hiện cốt hóa ở bộ phận như mặt. Các tổ chức sụn được thay thế bằng mô xương nên cùng với sự phát triển chiều dài của xương cột sống. Không giảm mà trái lại tăng lên có xu hướng cong vẹo. Vì vậy, mà trong quá trình giảng dạy cần tránh cho học sinh tập luyện với dụng cụ có trọng lượng quá nặng và các hoạt động chấn thương quá mạnh. - Hệ cơ: Ở lứa tuổi các em có sự phát triển với tốc độ mạnh để đi đến hoàn thiện, nhưng phát triển không đều và chậm hơn so với hệ xương. Cơ to phát triển hơn cơ nhỏ, cơ co phát triển hơn cơ duỗi, khối lượng tăng lên rất nhanh, đàn hồi cơ không đều chủ yếu là nhỏ và dài. Do vậy, khi hoạt động cơ chóng mệt mỏi cho nên khi tập luyện giáo viên giảng dạy, cần chú ý phát triển cơ bắp cho học sinh. 8  Hệ thần kinh: Ở lứa tuổi này hệ thần kinh tiếp tục được phát triển để đi đến hoàn thiện, hoạt động phân tích trên võ não có định hướng sâu sắc hơn. Kích thước của não và hành tủy đạt tới mức của người trưởng thành. Khả năng tư duy, phân tích tổng hợp của não tăng lên, tư duy trừu tượng được phát triển tạo điều kiện cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Khả năng nhận hiểu cấu trúc động tác và tái hiện chính xác các hoạt động được nâng cao. Ngay từ buổi thiếu niên đã diễn ra quá trình hoàn tiện cơ quan phân tích và những chức năng vận động quan trọng, nhất là cảm giác bản thể trong điều kiện thực hiện động tác. Ở lứa tuổi này học sinh không chỉ học các động tác vận động đơn lẻ như trước mà chủ yếu hoàn thiện ghép những phần đã học trước thành các liên hợp động tác tương đối hoàn chỉnh ở điều kiện khác nhau, phù hợp với các đặc điểm của từng học sinh. Mặt khác do các hoạt động của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên làm cho hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế giữa hưng phấn và ức chế không cân bằng ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Đặc biệt là đối tượng học sinh THPT tính nhịp điệu giảm nhanh, khả năng vận động yếu. Vì vậy, khi giảng dạy cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện, vận dụng các hình thức trò chơi để hoàn thành tốt các bài tập được giao.  Hệ tuần hoàn: Ở lứa tuổi này hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển và hoàn thiện. Tim lớn hơn có khả năng co bóp cơ tim phát triển tốt hơn do đó nâng cao khả năng lưu lượng máu trên phút. Buồng tim đã phát triển tương đối hoàn chỉnh mạch đập của nam 70 lần/phút, nữ 70 - 85 lần/phút. Nhưng khi vận động thì tần số hoạt động nhanh hơn, phản ứng của hệ tuần hoàn tương đối rõ rệt vận động mạch và huyết áp tăng nhanh hơn. Nhưng sau vận động mạch và huyết áp tăng nhanh chóng thì tim hoạt động trở nên dẻo dai hơn. Từ những đặc điểm 9 trên ta thấy ở lứa tuổi này có thể tập sức nhanh tốc độ nhưng phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe cho học sinh.  Hệ hô hấp: Ở lứa tuổi này phổi của các em phát triển nhưng chưa đều, khung ngực còn hẹp lên các em thở nhanh, vòng ngực của nam: 67 – 77cm, nữ: 64 – 74cm. Lúc 15 tuổi dung lượng phổi là 2 – 2,5 lít. Khi 16 – 18 tuổi là 3 – 4 lít. Tần số hô hấp gần với người lớn, tuy nhiên các cơ hô hấp của các em tăng nhanh khi hoạt động và gây nên hiện tượng thiếu ôxi dẫn đến mệt mỏi [18]. 1.3. Cơ sở huấn luyện môn Điền Kinh Trong các sách chuyên môn viết về kỹ thuật chạy 100m, các tác giả đều thống nhất rằng người chạy phải dung hết sức để mau chóng đạt được tốc độ tối đa của mình để sớm chuyển sang giai đoạn chạy giữa quãng với tốc độ cao đã và cố gắng duy trì tốc độ đó cho tới khi về đích. Điều đó cũng gặp nhiều trong các sách của các tác giả nước ngoài, trong cuốn “Chạy cự ly ngắn” của V.Philin (Liên Xô cũ) bằng tiếng Việt, do NXB thể thao - Hà Nội phát hành năm 1977 đã cho biết kết quả kiểm tra các VĐV chạy 100m xuất sắc của Liên Xô ở năm 1960 và 1961: Đạt độ dài bước hợp lý (ổn định để chuyển sang chạy với kỹ thuật chạy giữa quãng) từ bước thứ 13 đến bước thứ 15. Kết thúc giai đoạn chạy lao ở mét thứ 21 đến 23.66m, tức là sau khi mới chạy từ 3.7s - 3.9s [16]. Trong tài liệu lý thuyết huấn luyện dùng trong đào tạo huấn luyện viên của Liên đoàn Điền Kinh thế giới “Introductio to Coaching Theory”, được xuất bản năm 1991, người ta cũng đưa ra 1 sơ đồ diễn biến tốc độ theo thời gian của VĐV chạy ngắn, trong đó VĐV đạt tốc độ tối đa của mình sau 4s (kể từ khi xuất phát). Như vậy vẫn theo lý thuyết cũ “Phải bắt tốc độ cao sớm”. 10 Trong sách huấn luyện Điền Kinh cao cấp của Trung Quốc xuất bản năm 2001, kết quả nghiên cứu từ thực tiễn đã nêu lên ba xu hướng phát triển kỹ thuật chạy ngắn hiện đại đó là: a. Ngày càng coi trọng động tác, kết cấu điển hình của kỹ thuật chạy ngắn Kết cấu điển hình đó chủ yếu được biểu hiện ở chỗ kỹ thuật chạy ngày càng phù hợp với nguyên lý của giải phẫu thì làm cho kỹ thuật chạy ngắn ngày càng được hoàn thiện và đạt tính hiệu quả cao hơn. Đó là động tác nhanh, bước chạy dài, toàn thân tự nhiên, giao động của trọng tâm cơ thể nhỏ, các cử động kết hợp hài hoà, phối hợp nhịp nhàng. b. Ngày càng coi trọng kỹ thuật lắc người, đánh tay Chạy ngắn ngày càng coi trọng kỹ thuật lắc người, kết hợp với các động tác nâng gót, nâng đùi. Kết quả nghiên cứu mới nhất cho thấy, thời gian nâng đùi của một VĐV ưu tú chỉ chiếm 22,1% thời gian của một bước chạy, còn thời gian lắc người và các động tác khác chiếm tới 77,9% tỷ lệ của nó là 1 : 3,5. Vì vậy kỹ thuật chạy ngắn hiện đại rất chú trọng kỹ thuật lắc người. Khi huấn luyện phải nghiên cứu kỹ càng những động tác này để đưa cơ thể người theo trục dọc, giúp tăng độ dài bước. Rút ngắn thời gian nâng đùi và thời gian bay trên không. c. Kéo dài thời gian và khoảng cách duy trì sự tăng tốc Nghiên cứu kỹ thuật của các VĐV chạy ngắn thấy: Thời gian và khoảng cách duy trì sự tăng tốc của các VĐV chuyên nghiệp đều được gia tăng. Ở cự ly 100m khoảng cách tăng tốc của các VĐV lên đến 80m, thời gian duy trì của nó lên đến khoảng từ 8,12s đến 8,32s.Vì vậy để nâng cao hiệu quả huấn luyện và giảng dạy chạy cự ly ngắn cần chú ý: - Nguồn năng lượng cung cấp cho cơ hoạt động, khi chạy các cự ly từ 50 - 100m chủ yếu là sử dụng nguồn năng lượng alaktat (còn từ 150m - 300m nguồn laktat). Khi VĐV tập chạy lắp lại dù ở cự ly nào, thì nguồn năng lượng 11 được huy động không chỉ phụ thuộc vào độ dài của cự ly mà còn phụ thuộc vào cả số lần lặp lại và thời gian nghỉ giữa quãng giữa các lần chạy đó. - VĐV chạy 100m cũng như các VĐV chạy cự ly ngắn khác cần được huấn luyện để chạy nửa sau của cự ly nhanh hơn so với nửa đầu [17]. 1.4. Cơ sở sinh lý của tố chất sức mạnh tốc độ 1.4.1. Khái niệm và các quan điểm về SMTĐ Nghiên cứu về sức mạnh tốc độ có rất nhiều quan điểm cho rằng: Sức mạnh là khả năng của con người sinh ra lực cơ học bằng sự nỗ lực của cơ bắp. - Theo quan điểm của các nhà tâm lý thì: Sức mạnh tốc độ là khả năng VĐV vượt qua lực cản bên ngoài với tốc độ co cơ lớn ví dụ như các môn ném đẩy - nhảy cao, chạy ngắn. Năng lực sức mạnh tốc độ là khả năng khắc phục các lực cản với tốc độ co cơ cao của VĐV, việc vận dụng hệ thống bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ cho những môn thể thao liên quan trước hết là sức mạnh tương đối cần phải tiến hành sao cho sức mạnh tốc độ được nâng cao mà không có sự phì đại cơ quá mức. Trong đó sự căng thẳng cơ cần thiết để tăng sức mạnh được tạo nên bằng sự co cơ nhanh “bột phát”. - Theo quan điểm của các nhà sinh lý học: Cơ chế sinh lý điều hoà sức mạnh có cơ sở khoa học. Lực tối đa mà con người ta sản sinh ra một mặt phụ thuộc vào đặc tính sinh cơ của động tác, khả năng thu hút các nhóm cơ lớn tham gia hoạt động, mặt khác phụ thuộc vào mức độ của từng nhóm riêng biệt và sự phối hợp giữa chúng. Mức độ hoạt động của cơ được quy định bởi hai nhân tố xung quanh từ các nơron thần kinh vận động trong từng tuỷ sống đến cơ. Phản ứng của cơ tức là do nó sinh ra để đáp ứng xung động thần kinh, nếu lực cơ phát huy chỉ khoảng 20 - 80% khả năng tối đa của nó thì cơ thể điều hoà số lượng sợi cơ có ý thức cơ bản, điều hoà đó có ý nghĩa nội lực, kích thích nhỏ thì chỉ có ít sợi cơ hoạt động tích cực, trong trường hợp lực co cơ phát huy 12 giá trị tối đa có thể xảy ra một cách điều hoà thứ ba đồng bộ hoạt động bình thường không quá 20% xung động là đồng bộ với nhau. Với sự phát triển trình độ tập luyện khả năng điều hoà đồng bộ tăng lên rất nhiều. - Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Toán cho rằng: Sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực và khắc phục một trọng lượng nào đó với tốc độ nhanh nhất hay sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong động tác nhanh và với thời gian ngắn [11]. Như vậy để rèn luyện sức mạnh người ta sử dụng một số bài tập sức mạnh là các động tác với lực đối kháng, căn cứ vào tính chất lực đối kháng của một số bài tập sức mạnh được chia thành các bài tập với lực đối kháng bên ngoài. * Các bài tập với dụng cụ nặng * Các bài tập với lực đàn hồi * Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể Chạy 100m là một hoạt động diễn ra trong thời gian tương đối ngắn với công suất cực đại. Do đó chạy 100m tốt phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song lý luận và phương pháp chỉ tập trung vào những yếu tố điều khiển bằng biện pháp sư phạm. Trong đó điều kiện phát triển và hoàn thiện yếu tố thiết diện cơ, yếu tố điều hoà trong cơ và điều hoà giữa các nhóm cơ có ý nghĩa chủ đạo. Như vậy, qua tất cả những điều đã nêu ở trên việc phát triển sức mạnh tốc độ là hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình huấn luyện cho các VĐV và nhất là với VĐV chạy 100m thì một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ có ý nghĩa rất lớn và liên quan trực tiếp đến thành tích.Để tìm hiểu sâu hơn về bài tập sức mạnh tốc độ chúng tôi đi nghiên cứu cơ chế sinh lý của sức mạnh tốc độ. 13 Như ta đã biết lực tối đa mà con người có thể sinh ra một mặt phụ thuộc vào đặc tính sinh cơ của động tác, khả năng thu hút các nhóm cơ lớn nhất hoạt động. Mặt khác nó còn phụ thuộc vào mức độ hoạt động của từng nhóm cơ riêng biệt và sự phức tạp giữa chúng, mức độ hoạt động của các cơ được quy định bởi 2 nhân tố sau: - Xung động từ nơron thần kinh vận động trong sừng trước tuỷ sống đến cơ. - Phản ứng của cơ tức là lực do nó sinh ra để đáp lại xung động thần kinh. Phản ứng của cơ phụ thuộc vào thiết diện sinh lý đặc điểm cấu trúc của nó ảnh hưởng dinh dưỡng của hệ thần kinh trung ương thông qua dự phòng Adrgnalin giao cảm. Nếu lực do cơ huy động chỉ vào khoảng 20 – 80% khả năng tối đa của nó thì có thể điều hoà số lượng sợi cơ ý nghĩa cơ bản điều đó có ý nghĩa nếu lực kích thích nhỏ (trọng lượng nhỏ thì có ít sợi cơ hoạt động tích cực trong trường hợp đó phát huy đạt trị số tối đa có thể xảy ra các điều hoà thứ ba đồng bộ hoạt động các sợi cơ), ở những người không tập luyện thường không vượt quá 20% xung động đồng bộ với nhau. Cùng với sự phát triển cả trình độ tập luyện khả năng điều hoà toàn bộ tăng lên rất nhiều. Để phát huy sức mạnh, một số vấn đề quan trọng là phải lựa chọn lực đối kháng bên ngoài là mặt kích thích sinh lý có cường độ nhất định, qua nghiên cứu về các đặc điểm sinh lý của bài tập với lực đối kháng khác nhau cho thấy: Muốn phát triển được sức mạnh thì trước hết phải tạo ra được sự căng cơ tối đa nếu không tạo ra được sự căng cơ tương đối thì sức mạnh không phát triển được, tập luyện với mức độ căng cơ quá nhỏ sẽ giảm sút sức mạnh. Trên thực tế ta thấy có ba cách tạo ra sự căng cơ tối đa đó là: 14 * Lặp lại cực hạn đối kháng chưa đến mức tối đa * Sử dụng lực đối kháng tối đa * Sử dụng trọng lực chưa tối đa độ cực hạn Để tìm hiểu sâu hơn về cơ sở khoa học của bài tập sức mạnh tốc độ ta nghiên cứu cơ sở lý luận của bài tập sức mạnh tốc độ. Sức mạnh tốc độ là khả năng con người thể hiện sự nỗ lực lớn nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Ngoài ra để hiểu rõ mối quan hệ giữa sức mạnh và tốc độ ta cần hiểu rõ tố chất này. Sức mạnh là khả năng con người sinh lực cơ học bằng sự nỗ lực của cơ bắp. Nói cách khác sức mạnh của con người là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc để kháng lại bằng sự nỗ lực của cơ bắp, sức mạnh mà cơ phát ra phụ thuộc vào số lượng đơn vị vận động tham gia vào sự căng cơ, chế độ của đơn vị vận động của sợi cơ đó là chiều dài của sợi cơ trước đó. Tốc độ là khả năng thực hiện động tác trong khoảng thời gian ngắn nhất yếu tố quyết định đến tốc độ là độ linh hoạt của quá trình thần kinh và tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của quá trình thần kinh thể hiện khả năng biến đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế trong các trung tâm thần kinh. Tốc độ co cơ phụ thuộc vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm trong bó cơ. Trong hoạt động TDTT sức mạnh và tốc độ có liên quan mật thiết với nhau. Mức độ phát triển sức mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ trong nhiều môn thể thao. Kết quả hoạt động còn phụ thuộc vào sự phối hợp giữa hai tố chất, các hoạt động như vậy gọi là sức mạnh tốc độ (các bài tập chạy ngắn, ném đẩy, nhảy). Bằng thực nghiệm và phân tích khoa học đi đến một số kết luận có ý nghĩa cơ bản trong phân loại sức mạnh. Trị số lực sinh ra trong các động tác chậm hầu như không khác biệt với trị số lực phát huy trong điều kiện đẳng trường.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất