Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng...

Tài liệu Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng

.PDF
106
134
123

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU HIỀN LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN, NĂM 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU HIỀN LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 62.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Trần Thị Việt Trung THÁI NGUYÊN, NĂM 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, khoa sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý Thầy, Cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Việt Trung, cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả cảm ơn, trường THCS Chùa Hang II- Đồng Hỷ- Thái Nguyên, tập thể lớp cao học K17 chuyên ngành Ngữ văn trường ĐHSP Thái Nguyên, gia đình cố nhà văn Vi Hồng đã quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ với tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân,đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục i MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 12 Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ CỦA NHÀ VĂN DÂN TỘC TÀY TIÊU BIỂU- VI HỒNG 12 1.1. Sự hình thành và phát triển của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại 12 1.2. Nhà văn dân tộc Tày tiêu biểu - Vi Hồng 17 1.2.1. Vài nét về con người và sự nghiệp sáng tác 17 1.2.1.1.Về con người Vi Hồng 17 1.2.1.2 .Về sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng 20 1.2.2. Nhà tiểu thuyết dân tộc Tày - Vi Hồng 30 1.2.2.1. Viết tiểu thuyết như là một nhu cầu bộc lộ nội tâm của nhà văn 30 1.2.2.2. Một vài đặc điểm trong tiểu thuyết của Vi Hồng 31 1.2.2.3. Lời văn nghệ thuật – Một phương diện đặc sắc trong tiểu thuyết của Vi Hồng 34 Chƣơng 2: MỘT SỐ PHƢƠNG TIỆN TỔ CHỨC LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG 41 2.1. Lời văn nghệ thuật của Vi Hồng - sự khai thác triệt để chất liệu ngôn ngữ trong các sáng tác dân gian Tày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 http://www.lrc-tnu.edu.vn ii 2.1.1. Vai trò của chất liệu ngôn ngữ trong sáng tác 41 2.1.2. Chất liệu ngôn ngữ trong sáng tác của Vi Hồng 42 2.2. Lời văn nghệ thuật của Vi Hồng mang đậm dấu ấn sáng tạo của nhà văn 52 2.2.1. Sự vận dụng sáng tạo và hiệu quả các thành ngữ, tục ngữ, dân ca Tày trong lời văn nghệ thuật của Vi Hồng 52 2.2.2. Lời văn giàu tính ước lệ và sử dụng nhiều mĩ từ, nhã ngữ 58 2.2.3. Sự vận dụng hiệu quả vốn tri thức về đời sống văn hóa, phong tục tập quán của người Tày trong tiểu thuyết của Vi Hồng 61 Chƣơng 3: MỘT SỐ THÀNH PHẦN CƠ BẢN VÀ ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ TRONG TIỂU THUYẾT VI HỒNG 68 3.1. Một số thành phần cơ bản trong lời văn nghệ thuật của Vi Hồng 68 3.1.1. Lời trần thuật gián tiếp (ngôn ngữ người trần thuật) 68 3.1.2. Lời trần thuật trực tiếp (lời nhân vật) 72 3.2. Một số kiểu diễn đạt đặc trưng trong tiểu thuyết Vi Hồng 77 3.2.1. Câu lặp cấu trúc thành phần 77 3.2.2. Lời văn sử dụng nhiều điệp từ, điệp ngữ, ngôn ngữ mang yếu tố liệt kê, lối so sánh trùng điệp 81 KẾT LUẬN 88 PHỤ LỤC 1 90 PHỤ LỤC 2 94 PHỤ LỤC 3 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền văn học Việt Nam vốn rất giàu bản sắc. Do đó, việc nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số cũng chính là nghiên cứu một bộ phận quan trọng của nền văn học nước nhà. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỉ qua, việc nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số - mặc dù đã được chú ý (đặc biệt là khoảng 5 năm trở lại đây) nhưng thực sự vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu,thưởng thức một cách sâu sắc về mảng văn học vẫn chứa đựng nhiều sự hấp dẫn và bí ẩn này của đông đảo người đọc đương thời. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, tích cực văn học thiểu số vẫn là một hoạt động mang tính thời sự cần thiết và mang ý nghĩa thực tiễn cao. 1.2. Vi Hồng là một nhà văn dân tộc thiểu số tiêu biểu thời kì hiện đại (đặc biệt là trong giai đoạn những năm 80 - 90 của thế kỉ XX). Ông là một cây bút văn xuôi nổi tiếng của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ông đã có nhiều đóng góp đáng trân trọng vào sự phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số, góp phần đưa văn học dân tộc thiểu số vươn đến sự "bình đẳng" trong lĩnh vực sáng tác văn học nghệ thuật đối với người Kinh. Chính vì thế đã có khá nhiều người đi vào nghiên cứu về tác giả và những tác phẩm văn học của nhà văn này. Tuy nhiên, cho tới nay chúng tôi vẫn chưa thấy một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách chuyên biệt, hệ thống về đặc điểm lời văn nghệ thuật của Vi Hồng, mà theo chúng tôi: một trong những đặc điểm nổi bật, một trong những yếu tố có thể khu biệt văn chương của Vi Hồng đối với các tác giả khác chính là lời văn nghệ thuật của ông- lời văn của một nhà văn Tày, một thày giáo dạy văn học dân gian Tày, với cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mang đậm dấu ấn, bản sắc của dân tộc Tày. Hay nói một cách khác - nghiên cứu lời văn nghệ thuật của Vi Hồng sẽ góp phần làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 sáng tỏ những nét phong cách nghệ thuật và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn Tày tiêu biểu xuất sắc này, đồng thời, khẳng định những đóng góp quan trọng của ông (ở phương diện nghệ thuật) đối với sự phát triển của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. 1.3. Sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng rất phong phú, (ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, nghiên cứu văn học) nhưng mảng đặc sắc nhất chính là tiểu thuyết. Chính vì vậy chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng - cũng chính là đã tìm hiểu phần tiêu biểu nhất, phần có những đóng góp rõ rệt nhất của nhà văn dân tộc thiểu số này. 1.4. Hiện nay vấn đề nghiên cứu và giảng dạy văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trong chương trình giảng dạy văn các cấp học (từ tiểu học, trung học đến đại học) đang là một vấn đề thời sự bởi sự cần thiết và tầm quan trọng của nó trong đời sống văn học nước nhà. Do đó việc nghiên cứu lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng là một việc làm có ý nghĩa thực tiễn (bên cạnh ý nghĩa khoa học). Nếu nghiên cứu thành công, đây sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị đối với những người nghiên cứu và sử dụng phần văn học dân tộc thiểu số ở các cấp học. 2. Lịch sử vấn đề Trong nền văn học các dân tộc thiểu số thời kì hiện đại, văn học dân tộc Tày chiếm một vị trí quan trọng - không chỉ vì đây là dân tộc có nền văn hóa phát triển, có số dân đông đứng hàng thứ hai trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam - mà điều chủ yếu các thế hệ nhà văn dân tộc Tày (từ Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, trải qua Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Nông Viết Toại, rồi đến Y Phương, Dương Thuấn, Dương Khau Luông, Cao Duy Sơn ...) vẫn đang tiếp tục phát triển và đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn . Văn chương dân tộc Tày luôn có sự vận động mà ở đó - tính truyền thống luôn được kế thừa, tính hiện đại luôn được phát triển. Một trong những nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 văn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của văn học Tày nói riêng và văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam chính là nhà văn Vi Hồng. 2.1 . Lịch sử nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Vi Hồng Qua khảo sát, chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Vi Hồng được tập trung khá rõ ở những phương diện khác nhau như: nghiên cứu về giá trị nội dung, về tính dân tộc trong tác phẩm; nghiên cứu về một số phương diện nghệ thuật trong các sáng tác của vi Hồng... Ngoài ra, tác giả Vi Hồng cùng với những sáng tác của ông còn được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu về văn học dân tộc Tày nói riêng cũng như văn chương các dân tộc thiểu số nói chung. Có thể kể tên các công trình, bài viết tiêu biểu như: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995); Văn học và miền núi của nhà nghiên cứu Lâm Tiến. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (nhiều tác giả) v.v... Riêng về tiểu thuyết của Vi Hồng, cho đến nay cũng được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm chú ý. Đó là các bài viết của Nguyễn Long (Người trong ống của Vi Hồng), của Tú Anh (Tiểu thuyết Gã ngược đời của Vi Hồng), của tác giả Thúy Anh (Lòng dạ đàn bà - Tiểu thuyết của Vi Hồng)... Một sự kiện có ý nghĩa như là một dấu ấn quan trọng trong việc đánh giá và nghiên cứu về con người và tác phẩm của Vi Hồng đó chính là Hội thảo về Vi Hồng (2006) do Hội Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên kết hợp với khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên tổ chức. Đây chính là sự ghi nhận những lao động sáng tạo văn chương của Vi Hồng và là diễn đàn để các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu bày tỏ quan điểm cũng như những đánh giá về con người và sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng. Với mục đích của Hội thảo là: "Bước đầu nhìn lại và đánh giá những thành tựu, những đóng góp và cả hạn chế trong các công trình nghiên cứu và sáng tác của nhà văn Vi Hồng về đề tài dân tộc - miền núi, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc phản ánh, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, văn học dân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 tộc ở cộng đồng người Việt Nam cũng như trong quá trình hội nhập của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới" [55, tr2]. Hội thảo có gần 20 tham luận của các tác giả là những nhà thơ, nhà nghiên cứu, các thầy cô giáo là cán bộ giảng dạy tại khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm, đã góp phần làm sáng rõ những đặc điểm, những thành tựu cũng như hạn chế trong các sáng tác của nhà văn với cái nhìn khách quan và toàn diện. Đồng thời, đây cũng chính cơ sở quan trọng cho hàng loạt đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên và các học viên cao học tại Đại học Thái Nguyên cũng như các trường đại học khác trong cả nước nghiên cứu về con người và sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng. Tới thời điểm hiện tại, Đại học Thái Nguyên đã có trên dưới 20 công trình nghiên cứu lớn nhỏ về Vi Hồng. Có thể kể tên một số luận văn thạc sĩ tiêu biểu như: "Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết của Vi Hồng" (Nguyễn Thị Thu Hà); "Giọng điệu trần thuật trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng" (Ngô Thu Thuỷ); "Bản sắc dân tộc qua ngôn ngữ trong Đất bằng của Vi Hồng" (Nguyễn Thị Thu Hằng); "Bản sắc dân gian trong tiểu thuyết của Vi Hồng" (Đỗ Thuỳ Liên); "Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng" (Hoàng Văn Huyên); "Tính dân tộc trong tiểu thuyết “Tháng năm biết nói”, “Chồng thật vợ giả”, “Núi cỏ yêu thương” của Vi Hồng” (Nông Thị Quỳnh Trâm); "Đặc điểm ngôn ngữ trong thiểu thuyết của Vi Hồng" (Nguyễn Thị Thu Hương); "Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng" (Ma Thị Ngọc Bích); "Chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng" (Vũ Minh Tú); "Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng" (Dương Thị Xuân);"Bản sắc dân tộc trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng" (Bùi Ngọc Tới); "Bản sắc dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng" (Vi Hà Thái)... Với đề tài Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng - Thạc sĩ Hoàng Văn Huyên khẳng định : “cả không gian, thời gian, sắc mầu của tự nhiên, con nguời và cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm luôn đậm đà bản sắc các dân tộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 miền núi Việt Bắc” [38, tr78]. Hoàng Văn Huyên chỉ ra rằng cốt cách tâm hồn các dân tộc Việt Bắc trong hệ thống các nhân vật của Vi Hồng. Đó là hình ảnh những con ngưười giàu sức sống - bền bỉ và mạnh mẽ; con người thật thà bộc trực và khảng khái; con người giàu khát vọng về một tình yêu chung thuỷ... PGS.TS Trần Thị Việt Trung và Nguyễn Thanh Thủy lại đánh giá các sáng tác của Vi Hồng từ các giá trị của "Bản sắc văn hóa dân tộc trong truyện ngắn Vi Hồng". Các tác giả này đã khẳng định rằng: Bản sắc dân tộc trong truyện ngắn Vi Hồng được thể hiện ở cả hình thức và nội dung của tác phẩm : "Truyện ngắn của Vi Hồng đã thể hiện một cách sinh động các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Tày - Việt Bắc" [66, tr40]. Trong luận văn thạc sĩ của mình, tác giả Ma Thị Ngọc Bích tìm hiểu về Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, đã phân loại nhân vật từ góc độ nghề nghiệp xã hội (nhân vật trí thức, nhân vật người lao động) cách phân loại đó đã khái quát được toàn bộ thế giới nhân vật trong sáng tác của Vi Hồng là hết sức phong phú và đa dạng. Nghiên cứu về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng các tác giả đã chú ý tới bối cảnh thiên nhiên trong sáng tác của ông, chỉ ra những màu sắc rực rỡ và âm thanh ngọt ngào ... trong tác phẩm của Vi Hồng. Bản sắc dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng chịu ảnh hưởng rất rõ các yếu tố văn hoá dân gian truyền thống trong đó. Nhà văn Hồ Thuỷ Giang - người bạn vong niên của Vi Hồng đã nhận xét thật xác đáng: "Càng đọc Vi Hồng tôi càng thấy một điều là tiềm lực văn chương và vốn sống, đặc biệt là vốn dân gian của anh nhiều vô kể. Tôi có cảm giác anh giống như cây đàn tính, động vào dây nào, phím nào cũng có một điệu sli điệu lượn ngân lên da diết. Suốt bao năm tháng, Vi Hồng nương nhờ vào - nói theo lời anh - " bầu sữa dân gian quê mẹ" để sáng tác như thế" [55, tr81]. Ông còn quan tâm đến nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Vi Hồng. Ông đưa ra nhận xét tinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 tế về bút pháp tả thực: "Trong bút pháp xây dựng nhân vật, Vi Hồng ít đề cập đến sự phức tạp của tâm lý. Anh nghiêng về khắc hoạ những nét hoang sơ, thuần khiết của tâm hồn" [55, tr81]. Nhận xét về nhân vật trong sáng tác của Vi Hồng, tác giả Hoàng Thi viết: " Phải tha thiết yêu quê hương làng bản, yêu những con người cụ thể của dân tộc, Vi Hồng mới có thành công như vậy khi xây dựng nhân vật của mình. Đó chính là con người quê hương anh...Họ đều là những người nói tiếng quê hương, tiếng nói giầu hình ảnh, nhạc điệu của người Tày, người Dao..." 2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề lời văn nghệ thuật trong tác phẩm của Vi Hồng Trong rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố từ trước tới nay, vấn đề lời văn nghệ thuật trong sáng tác của Vi Hồng đã ít nhiều được đề cập đến một cách trực tiếp hay gián tiếp, trong các công trình chuyên biệt hay được đặt trong một phạm vi rộng là văn học các dân tộc thiểu số, hoặc hẹp hơn, là các bài báo... Điều đó là những gợi ý hết sức quan trọng đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Chẳng hạn: về tác phẩm Đất bằngcuốn tiểu thuyết đầu tay của Vi Hồng, nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá : “Tôi thấy cách viết của anh rất khác với cách viết của ta - hay ít ra là của tôi - vẫn thường quen thuộc..." cách viết, bao gồm cách hình dung về nhân vật, xây dựng nhân vật, dẫn dẵt cốt truyện, lựa chọn tình tiết này hơn tình tiết kia... Cho đến kết cấu, bố cục tả người, tả cảnh, tả tình, đặt câu, chọn từ..." (Báo Nhân dân số ra ngày 19/4/1980). Có khá nhiều nghiên cứu và nhận định xác đáng về "Bản sắc dân tộc" trong các sáng tác của Vi Hồng. Nhà nghiên cứu Lâm Tiến - tác giả của một số công trình văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam - nhận định về thế mạnh và hạn chế trong văn chương Vi Hồng, ông cho rằng: "Đối với Vi Hồng thì "cái nguồn" (Văn học dân gian) ấy nó luôn "lôi kéo tôi trở lại" nguồn để làm nên vẻ riêng trong sáng tác. Nên tác phẩm của ông chính là sự kết hợp chất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 trữ tình đậm đà của dân ca Tày với huyền thoại bay bổng trong truyện cổ tích, thần thoại Tày. Ngôn ngữ thường ví von so sánh giàu hình ảnh nhưng vì dùng quá nhiều lối ví von nên thường làm chậm lại hành động truyện, dòng truyện. Do đó dường như phong cách Vi Hồng ít phát triển" [51, tr29]. Những tác giả khác cũng khẳng định: "Người vận dụng văn hóa, văn học dân gian thành công phải kể đến vi Hồng... Vi Hồng là nhà văn rất có ý thức về mặt này ông không ngừng phấn đấu và phấn đấu một cách tự giác để thể hiện được bản sắc dân tộc trong tác phẩm của mình” [49, tr652] "... không được tắm mình trong dòng chảy truyền thống văn hóa dân tộc, không có được những kỉ niệm máu thịt thấm đượm tâm hồn dân tộc thì không có tác phẩm hay được bản sắc dân tộc đó" [49, tr126]. Tác giả Phạm Mạnh Hùng rất ấn tượng trong cách sử dụng các làn điệu dân ca trong sáng tác của Vi Hồng. Ông tập trung vào tìm hiểu các phong tục tập quán, các làn điệu dân ca như hát sli, hát lượn của người Tày, Nùng: ..."Một trong những làn điệu dân ca mang bản sắc riêng của người Tày, Nùng là hát lượn. Vi Hồng không chỉ nghiên cứu thể loại dân ca này qua công trình: "Sli, lượn - dân ca trữ tình Tày, Nùng" mà còn đưa những làn điệu ấy (tất nhiên chỉ là lời hát) vào các tác phẩm của mình. Những lời hát ấy, dẫu không có nhạc, nhưng đọc lên ta vẫn thấy âm vang của tâm hồn Tày, thấy hiển hiện cuộc sống bình dị chân chất nhưng đầy tình nghĩa của dân tộc Tày Nhà văn Tô Hoài có đánh giá về tiềm năng văn chương của Vi Hồng khi đọc những tác phẩm đầu tay: "Vi Hồng, một cây bút có sắc thái riêng đương phát triển. Mấy năm gần đây, sáng tác của Vi Hồng đã liên tục phát huy được mặt mạnh của sở trường, chứng tỏ tác giả còn đi xa hơn nữa. Tiểu thuyết Núi cỏ yêu thương cùng với những sáng tác khác của Vi Hồng, là những đóng góp quý của một cây bút văn xuôi miền núi ở các tỉnh biên giới phía Bắc và trên cả nước " (Báo Văn nghệ số 34, 1985). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Trong các tác phẩm của mình, Vi Hồng đã đề cập đến nhiều mặt khác nhau của con người và đời sống, cũng như phong tục tập quán hết sức phong phú đa dạng của các dân tộc thiểu số miền núi. Chính cuộc sống sinh động của những con người nơi đây đã là mạch nguồn cảm hứng cho tác giả chắp bút tô đậm bản sắc dân tộc.Trong bài báo "Vi Hồng với mùa xuân Nặm Cáp", PGS.TS Vũ Anh Tuấn khẳng định sức hấp dẫn của tiểu thuyết Vi Hồng đối với người đọc không chỉ là "cách viết " độc đáo mà còn bởi ông là một nhà văn có trái tim nhân hậu, giàu lòng thương người: "Thành tựu lớn nhất mà Vi Hồng để lại cho đồng bào dân tộc miền núi có lẽ được trầm kết trong những trang văn. Mạch lạc và dứt khoát, đôi khi đi đến cực đoan trong đời riêng, trái tim nhà văn Vi Hồng vẫn không ngừng đập giữa hai dòng yêu thương và hờn giận. Song, trước sau, ông vẫn là người nhân hậu, giầu lòng yêu thương và khát khao được yêu thương" [ 55, tr15]. Nhà giáo Cao Xuân Thử nhận xét: "Vi Hồng là người am tường văn hoá Tày, Anh say đắm si lượn, Anh hiểu cặn kẽ phong tục, tập quán, lề thói, tập tục đến lễ hội, đến cái ăn, cái uống, sự mặc, việc dựng nhà cửa... nghĩa là tất cả nề nếp sinh hoạt của đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc anh. Đặc biệt anh có cảm nhận thấu đáo, cảm nhận được cái tinh tuý, minh triết trong sự chọn lựa và ứng xử của mỗi con người trong đời sống cá nhân, đời sống xã hội, đời sống cộng đồng Tày. Văn hoá Tày là một nền văn hoá lâu đời, đã phát triển cao rực rỡ, một nền văn hoá đã tích tụ được trong bản thân nó một sinh quan đạt đến sự minh triết. Vi Hồng là đứa con - thuần khiết một dòng máu văn hoá Tày ấy. Điều này đã được thể hiện trong văn chương của anh cũng như nó đã thấp thoáng hiện ra trong đời sống công dân, đời sống xã hội của anh" [55, tr85]. Nhận diện văn xuôi Vi Hồng ở những nét chung nhất, Phạm Duy Nghĩa đánh giá ở phẩm chất văn chương: "Tác phẩm của nhà văn Vi Hồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 thể hiện một nhãn quan riêng về miền núi và bút pháp nghệ thuật không lẫn với các cây bút khác của dân tộc kinh và các dân tộc thiểu số cùng viết về miền núi ... Có thể nói, đó là thế giới miền núi nhuốm màu cổ tích, huyền thoại, đầy những chuyện trái ngang, đen tối vẫn bay bổng, trữ tình, nói gọn hơn, đó là miền núi được dân gian hoá" [46, tr25]. Với Vi Hồng, vận dụng chất liệu dân gian của dân tộc mình trong tác phẩm là một việc làm hết sức có ý thức, bởi ông quan niệm: "Mình là người Tày, nếu viết giống người Kinh thì đừng viết", "Văn chương của người Tày phải phản ánh tâm hồn Tày" [24, tr16]. Qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Vi Hồng như trên, chúng tôi thấy rằng, Vi Hồng cùng các sáng tác của ông đã được khá nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa thấy có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách cụ thể và chuyên biệt về Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Vì thế, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề này để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình, với hy vọng sẽ góp thêm một tiếng nói khẳng định phong cách nghệ thuật, tư tưởng nghệ thuật cùng những đóng góp đáng trân trọng của của nhà văn thiểu số tiêu biểu này đối với quá trình vận động và phát triển của nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, với nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu, chúng tôi khảo sát tất cả 15 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và năng lực còn hạn chế của người viết, luận văn của chúng tôi tập trung nghiên cứu một số phương diện của lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng được thể hiện trong bốn cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn, bao gồm: - Núi cỏ yêu thương, Nxb Thanh niên, Hà Nội, H. 1984 - Người trong ống, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, H. 1990 - Tháng năm biết nói, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, H.1993 - Đoạ đầy, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, H 1997. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đọc tham khảo (để so sánh, đối chiếu) một số tiểu thuyết của một số nhà văn dân tộc thiểu số khác (cùng thời với nhà văn Vi Hồng). Để phục vụ cho phần cơ sở lí luận của đề tài, chúng tôi đọc tham khảo, nghiên cứu một số sách về lí luận văn học; bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu của tác giả nghiên cứu về nhà văn dân tộc tiêu biểu này. 4. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đặc điểm Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng luận văn nhằm thực hiện 2 mục đích: Chỉ ra một số đặc điểm cơ bản trong Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng; từ đó khẳng định rõ hơn phong cách nghệ thuật, tư tưởng nghệ thuật và bản sắc dân tộc đậm đà trong sáng tác của nhà văn Vi Hồng Khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà văn Vi Hồng đối với sự vận động, phát triển của thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại... 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích tác phẩm. - Phương pháp khảo sát thống kê. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành ( ngôn ngữ học, văn hoá học...). 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm ba chương: Chƣơng 1. Vài nét về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại và nhà văn dân tộc Tày tiểu biểu - Vi Hồng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 Chƣơng 2. Một số phương tiện tổ chức lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng Chƣơng 3. Một số thành phần cơ bản và đặc trưng ngôn ngữ trong tiểu thuyết Vi Hồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 NỘI DUNG Chƣơng 1 VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ VĂN DÂN TỘC TÀY TIÊU BIỂU-VI HỒNG 1.1. Sự hình thành và phát triển của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận cấu thành của nền văn học Việt Nam. Bên cạnh đội ngũ các nhà văn, nhà thơ người Kinh còn có đội ngũ các tác giả người dân tộc thiểu số ngày càng đông đảo và trưởng thành, góp phần làm nên diện mạo văn học hiện đại nước nhà. Vì vậy, việc nghiên cứu thơ văn các dân tộc thiểu số là hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt là nghiên cứu các tác phẩm do chính các tác giả người dân tộc thiểu số sáng tác. Bản thân văn học (trong đó có văn xuôi) các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam có những giá trị và bản sắc riêng. Các tác phẩm văn xuôi không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống và con người miền núi mà còn là một bộ phận văn hoá tinh thần của các dân tộc. Bên cạnh đó, rất nhiều nhà văn người dân tộc thiểu số có tên tuổi đã trở nên quen thuộc với văn học cả nước như Nông Minh Châu, Vi Hồng, Nông Viết Toại, Vi Thị Kim Bình, Cao Duy Sơn … Họ là những cây bút tiêu biểu, có nhiều đóng góp đối với sự phát triển của văn học dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Như nhận xét của nhà nghiên cứu phê bình Lâm Tiến thì :Việc đánh giá văn xuôi các dân tộc thiểu số không thể nhìn từ góc độ hình thành và phát triển tự thân của dân tộc ấy, mà phải được xem xét từ nhiều mặt, từ sự ảnh hưởng qua lại của các nền văn học và quá trình trưởng thành của từng nhà văn … Do đó, nghiên cứu văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Bắc Việt Nam qua nửa thế kỉ phát triển sẽ góp một tiếng nói quan trọng vào việc khẳng định những giá trị và thành tựu của văn xuôi nói riêng và toàn bộ nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung. Văn học các dân tộc thiểu số chỉ được hình thành và phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Trưởng thành từ sau cách mạng , những người con của miền núi đã có chỗ đứng để nhìn lại dân tộc mình và các dân tộc khác cả về kinh tế, văn hoá, xã hội. Sau sự phát triển của thơ, văn xuôi ra đời muộn hơn. Những sáng tác văn xuôi của các tác giả người Kinh viết về đề tài dân tộc miền núi như Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc… đã ảnh hưởng không nhỏ tới cảm hứng sáng tác văn xuôi của các tác giả người dân tộc. Cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự dìu dắt của các tác giả văn xuôi người Kinh , văn xuôi các dân tộc thiểu số thực sự được ra đời một vài năm sau ngày Hòa bì nh lập lại (1954). Người đi tiên phong trong giai đoạn đầu là Nông Minh Châu với truyện ngắn Ché Mèn được đi họp (1958). Đây là tác phẩm mở đầu cho một cuộc “cách mạng” mới của người dân tộc thiểu số trong văn học cả về phương diện nghệ thuật sáng tác cũng như phương diện nội dung , sử dụng văn xuôi thể hiện hì nh ảnh những con người mới dám phá bỏ những tập tục cũ nghèo nàn , lạc hậu, vươn lên làm chủ cuộc sống. Tiếp đó, vào khoảng thập niên 60 (của thế kỉ trước), các tác phẩm văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số đã xuất hiện khá nhiều và bước đầu tạo được dấu ấn riêng. Về tiểu thuyết, Muối lên rừng của Nông Minh Châu (1964) đã mở ra một thời kỳ mới cho tiểu thuyết dân tộc miền núi phát triển . Một số tác phẩm được dư luận chú ý như : Bên bờ suối Tiên của Triều Ân, Chuyện anh Thượng của Nông Minh Châu, Đêm giao thừa, Đặt tên của Vi Thị Kim Bình, Mương Nà Pàng của Hoàng Hạc… Mặc dù những sáng tác này còn có những hạn chế về nghệ thuật , nhưng khi những tác phẩm trên ra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 đời, thì lần đầu tiên hình ảnh con người và cuộc sống miền núi đã được phản ánh một cách chân thật và sinh động bằng chính những cây bút văn xuôi các dân tộc trong nền văn học nước nhà. Văn xuôi các dân tộc thiểu số thực sự phát triển mạnh vào cuối những năm 70 và 80. Sau giai đoạn chống Mỹ cứu nước, toàn dân ta lại tiếp tục bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo đất nước. Hoà mình vào không khí chung ấy của dân tộc, các tác giả dân tộc thiểu số đã không ngừng cố gắng nhằm đạt đến sự hoàn thiện trong sáng tác. Các tác phẩm được in ra với số lượng khá lớn. Truyện ngắn và ký có: Mây tan của nhiều tác giả (Việt Bắc, 1973), Đoạn đường ngoặt của Nông Viết Toại (Việt Bắc, 1973), Tiếng chim Gô của Nông Minh Châu (Văn hoá, 1979), Niềm vui của Vi Thị Kim Bình (Văn hoá, 1979), Tiếng khèn A Pá của Triều Ân (Văn hóa,1980), Những bông Ban tím của Sa Phong Ba (Lao động, 1982), Chiếc vòng bạc của Lò Ngân Sủn (Văn hoá dân tộc, 1987)…và chỉ sau đó một thời gian ngắn, liên tiếp xuất hiện các tiểu thuyết như Đất bằng (1980), Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng đá rơi (1985) của Vi Hồng… Như vậy, trong giai đoạn phát triển về tầm vóc này, hệ thống thể loại của văn xuôi miền núi đã thực sự được hoàn thiện. Thêm vào đó, số lượng các tác phẩm ngày một phong phú và đa dạng hơn. Ngoài sự phát triển về tầm vóc, số lượng, văn xuôi giai đoạn này còn ghi được những dấu ấn đặc sắc về nghệ thuật. Bằng những hình tượng, chi tiết, ngôn ngữ cụ thể, sinh động, các tác giả người dân tộc thiểu số đã khắc họa tương đối rõ nét những hình tượng nhân vật và chú ý khai thác đời sống nội tâm nhân vật (như các nhà văn: Nông Viết Toại, Vi Hồng, Hoàng Hạc.). Trong nhiều tác phẩm, người đọc bắt gặp những cuộc đấu tranh nội tâm trong mỗi nhân vật với cả những suy nghĩ tích cực và lạc hậu. So với giai đoạn trước đó, văn xuôi thời kỳ này đã dần đạt đến độ “chín” về cả chất lượng nghệ thuật lẫn số lượng tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất