Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lỗi cố ý trong luật hình sự việt nam luận văn ths. luật...

Tài liệu Lỗi cố ý trong luật hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
119
177
66

Mô tả:

Trường Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa Luật Nguyễn Thị Nhuần Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam Luận văn Thạc sĩ luật học Hà Nội – 2011 Trường Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa Luật Nguyễn Thị Nhuần Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam Chuyên ngành : Luật Hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn Thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Hùng Hà Nội - 2011 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THỊ NHUẦN MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục sơ đồ Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI 7 1.1. Lỗi và cơ chế hình thành hành vi phạm tội 7 1.2. Tự do ý chí là cơ sở của lỗi trong luật hình sự 10 1.3. Khái niệm chung về lỗi theo Luật hình sự Việt Nam 14 1.4. Phân loại các hình thức lỗi và lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam 18 Kết luận chương 1 46 Chƣơng 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ LỖI CỐ Ý TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ Ở NƢỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 49 2.1. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý trong việc định tội danh 49 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý trong việc định khung hình phạt 86 Kết luận chương 2 104 KẾT LUẬN 106 Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 109 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1: Về cơ chế hình thành hành vi 7 Sơ đồ 1.2: Về biểu hiện người gây thiệt hại có lỗi 15 Sơ đồ 1.3: Về lỗi cố ý trực tiếp 26 Sơ đồ 1.4: Về lỗi cố ý gián tiếp 35 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của việc nghiờn đề tài Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của hành vi đó. Vì thế, nó là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, phản ánh tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi và sự nguy hiểm của người phạm tội. Lỗi cho phép người ta hiểu được rằng, tội phạm không chỉ là kết quả của một việc làm sai trái mà còn là hệ quả của một thái độ, một sự nhận thức. Việc ghi nhận lỗi như là một yếu tố thuộc về căn cứ của trách nhiệm hình sự, là một nguyên tắc quan trọng của luật hình sự nước ta. Nguyên tắc đó là cơ sở của chính sách hình sự của nhà nước. Việc thừa nhận lỗi với tính cách là cơ sở của mặt chủ quan của trách nhiệm hình sự thể hiện sự tôn trọng một cách đầy đủ và sâu sắc phẩm giá của con người. Luật hình sự của chúng ta coi con người là chủ thể có ý thức và lý trí, có thể tự hiểu được và đánh giá được hành vi của mình, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân mình. Do đó chúng ta nhìn nhận lỗi như là một yếu tố không chỉ mang tính pháp lý mà còn có cả giá trị đạo đức, văn minh, lỗi thể hiện cơ sở đạo lý của trách nhiệm hình sự. Con người chỉ có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình, về những gì con người đó hiểu được, những gì nằm trong tầm kiểm soát của sự nhận thức. Không thể nói đến trách nhiệm nếu thiếu đi khả năng tự lựa chọn cách ứng xử và hành động của con người. "Lỗi trong luật hình sự là một chế định trung tâm và có thể coi là vô cùng phức tạp. Vì đã từ lâu và cho đến tận bây giờ xung quanh các vấn đề về chế định này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong khoa học luật hình sự cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Chính vì vậy, dưới góc độ nhận thức khoa học, việc nghiên cứu chế định lỗi để từ đó áp dụng đúng pháp luật hình sự và 1 đưa ra những kiến giải lập pháp không chỉ có ý nghĩa lý luận - thực tiễn mà còn có ý nghĩa xã hội- pháp lý quan trọng" [16, tr. 532]. Với bản chất là dấu hiệu của tội phạm, ở một mức độ nào đó cho phép các cơ quan bảo vệ pháp luật và toà án phân biệt đâu là hành vi có tính chất tội phạm, đâu là hành vi không có tính chất tội phạm và tương ứng như vậy sẽ quyết định được người đó có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Lỗi của chủ thể trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm phải được các cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án khẳng định dứt khoát là có lỗi hay không có lỗi. Nếu có người đó đã phạm tội, không thể có trường hợp thứ ba cái gọi là “nghi ngờ lỗi”. “Không có lỗi thì không thể có trách nhiệm hình sự”. Đó cũng là một trong những yêu cầu đòi hỏi dân chủ và khách quan, công bằng trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền. Lỗi phản ánh những diễn biến tâm lý thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và của người thực hiện hành vi đó. Vì vậy, lỗi giúp cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án có thể cá thể hoá trách nhiệm hình sự một cách chính xác. Đồng thời các hình thức của lỗi còn là cơ sở để định tội danh với những trường hợp mà việc phân hoá trách nhiệm hình sự tối đa được dựa trên sự phân định các hình thức lỗi. Việc coi lỗi là cơ sở về mặt chủ quan của trách nhiệm hình sự gắn liền với xuất phát từ mục đích của luật hình sự, của trách nhiệm hình sự và hình phạt, chúng ta đều biết rằng mục đích của luật hình sự và trách nhiệm hình sự là giáo dục và cải tạo người phạm tội. Nếu trách nhiệm hình sự và hình phạt được áp dụng cho một người không kiểm soát được hành vi của mình, không nhận thức được về hành vi đó, thì trách nhiệm hình sự và hình phạt không có ý nghĩa, thậm chí là vô nhân đạo, phi nhân tính. Luật hình sự của chúng ta cũng như đạo lý của nhân dân ta không chấp nhận những việc làm như truy 2 cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, những người còn nhỏ chưa hiểu được hành vi của mình. Xuất phát từ những lý do và ý nghĩa nêu trên, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện về chế định lỗi, đặc biệt là hình thức lỗi cố ý trong luật hình sự là cần thiết và quan trọng để góp phần nâng cao nhận thức - khoa học về việc tiếp tục hoàn thiện nó trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành. Do đó, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Là một chế định lớn có ý nghĩa, vị trí, vai trò quan trọng, nhưng các quy phạm về lỗi trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985, kể cả Bộ luật hình sự Việt nam năm 1999 vẫn còn một số nhược điểm chưa được khắc phục mà lẽ ra cần và có thể khắc phục được. Lỗi cố ý đã từ lâu được nhà nghiên cứu đề cập đến trong luật hình sự Việt Nam, chế định lỗi cố ý luôn được chú ý đúng mức. Qua từng bước phát triển của luật hình sự Việt Nam chế định đó từng bước được phát triển và hoàn thiện. Trong nước, đáng chú ý nhất là các công trình của các nhà nghiên cứu như: Lê Cảm, Trần Văn Độ, Kiều Đình Thụ, Nguyễn Ngọc Hoà, Đào Trí úc…mà ở đó các khía cạnh khác nhau của lỗi cố ý đã được làm rõ, chẳng hạn như: khái niệm, các hình thức và mức độ của lỗi nói chung và của lỗi cố ý nói riêng…Đề tài lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam trước đây cũng đã được nhắc đến rất nhiều. Tuy nhiên hiện tại nó vẫn là vấn đề mũi nhọn của Luật hình sự… Vấn đề lỗi cố ý gắn liền với đặc điểm của từng giai đoạn phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội. Do đó, đây là vấn đề thường xuyên ở trong trạng thái phát triển cho phù hợp với tình hình mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích tổng quát của luận văn là nghiên cứu một cách chuyên sâu và có tính hệ thống về chế định lỗi trong Luật hình sự Việt Nam; phân biệt rõ các 3 hình thức lỗi và các dạng lỗi trong lý luận và thực tiễn áp dụng Luật hình sự ở nước ta. Để đạt được mục tiêu tổng quát như trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể như sau: Một là, làm sáng tỏ nội dung lý luận của chế định lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam như: lỗi và cơ chế hỡnh thành hành vi phạm tội, cơ sở của lỗi, khỏi niệm lỗi. Hai là, đi sâu nghiên cứu và phân định rõ các hình thức lỗi, các dạng lỗi trong thực tiễn xét xử, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm bất cập trong việc áp dụng chúng. Ba là, phân tích và làm sáng tỏ sự thể hiện lỗi cố ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Bốn là, làm sáng tỏ và sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò và ý nghĩa của chế định lỗi cố ý trong việc định tội danh và định khung hình phạt trong việc áp dụng Luật hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn này tập trung nghiên cứu chế định lỗi mà đặc biệt là lỗi cố ý với tính chất là yếu tố quan trọng nhất trong mặt chủ quan của cấu thành tội phạm; thực tiễn áp dụng chế định này trong việc định tội danh, định khung hỡnh phạt đối với những chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Tuy nhiên, do đây là một chế định khó và phức tạp, thêm vào đó thời gian nghiên cứu có hạn cũng như năng lực nghiên cứu, kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề của tác giả còn hạn chế, nên trong Luận văn này, tác giả chỉ có thể làm sáng tỏ những khía cạnh mà theo quan điểm tác giả là quan trọng và chủ yếu hơn cả. Phạm vi nghiên cứu 4 Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định lỗi cố ý theo pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của luật hình sự, đồng thời luận văn cũng đề cập một số quy phạm của luật tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu. 5. Cơ sở lý luận và cỏc phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm cũng như đường lối xử lý tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm. Đồng thời, cơ sở lý luận của Luận văn cũng dựa trên thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê…trong sự nhìn nhận tổng thể và khách quan, không phiến diện một chiều. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Toà án nhân dân tối cao hoặc (và) của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên quan đến chế định lỗi; dựa vào báo cáo tổng kết hàng năm của ngành Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn 5 Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề lỗi cố ý ở cấp độ một luận văn. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau: 1. Phân tích một cách tương đối có hệ thống và tương đối toàn diện những vấn đề lý luận về chế định lỗi mà đặc biệt là lỗi cố ý như: cơ chế hình thành hành vi phạm tội, cơ sở của lỗi, khái niệm lỗi, phân biệt các hình thức lỗi. 2. Phân tích sự cần thiết phải xác định lỗi trong định tội danh và định khung hình phạt. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định lỗi cố ý theo pháp luật hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng chế định lỗi cố ý trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, để giúp việc áp dụng chúng trong thực tiễn ngày một hoàn thiện hơn. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học, luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay. 8. Kết cấu của luận văn Xuất phát từ nội dung, yêu cầu của đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 2 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về lỗi 6 Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý trong Bộ luật hình sự ở nước ta giai đoạn hiện nay. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI 1.1. Lỗi và cơ chế hình thành hành vi phạm tội Tội phạm trước hết là một hành vi. Chính vì thế, tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi chủ thể xác định. Không thể có hành vi xuất hiện bên ngoài Thế giới khách quan mà không có chủ thể. Theo Từ điển, hành vi được hiểu là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một con người trong một hoàn cảnh cụ thể. Theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, hành vi của con người suy cho cùng là do điều kiện xã hội khách quan quyết định. Tuy nhiên, đó phải là quá trình diễn ra phức tạp, không đơn thuần chỉ là kết quả của sự lệ thuộc tuyệt đối của con người vào hoàn cảnh khách quan đó. Trong quá trình này, ý chí của con người, nhận thức của con người có vị trí độc lập, có ý nghĩa không kém phần quan trọng, mặc dù bản thân ý chí và nhận thức cũng lại do các điều kiện khách quan quyết định. Quan điểm trên cho thấy rằng, sự tác động của môi trường bên ngoài để dẫn đến hành vi đều phải gián tiếp thông qua ý thức và ý chí của con người. Do đó, có thể hiểu rằng: một hành vi phạm tội được thực hiện - đó không thể là sự phản ánh trực diện của con người đối với hoàn cảnh mà là kết quả của sự tương tác giữa một bên là điều kiện và môi trường xã hội với một bên (khác) là bản thân con người ấy. Sơ đồ 1.1: Về cơ chế hình thành hành vi Cá nhân - Quan điểm xã hội - Các đặc điểm tâm sinh lý Môi trường XH - Môi trường chung - Môi trường cụ thể 8 Quyết định Hành vi Một hành vi khách quan đơn thuần xảy ra ngoài sự nhận thức chủ quan của cá nhân không thể là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự; những hậu quả và tác hại hiện hữu về vật chất hay tinh thần do những hành vi như vậy gây ra không thể là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể của hành vi, bởi lẽ, chủ thể của hành vi không có ý thức gì về hành vi đó cũng như hậu quả của hành vi. Hành vi của con người bao giờ cũng là sự thống nhất giữa biểu hiện cụ thể bên ngoài Thế giới khách quan và những nội dung tâm lý bên trong (ý chí) của chủ thể thực hiện hành vi chi phối hành vi đó. Tội phạm được biểu hiện bởi hành vi, do đó nó cũng là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn gắn liền với các biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là tội phạm, nếu hành vi đó được thực hiện trong một thái độ tâm lý nhất định của con người đối với hành vi đó và hậu quả của hành vi đó gây ra hoặc đối với khả năng phát sinh hậu quả từ hành vi đó. Pháp luật từ xưa đến nay, bao giờ cũng quan tâm đến yếu tố chủ quan của hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm pháp luật dù thể hiện, gây ra thiệt hại nhưng không có sự thống nhất với mặt chủ quan của người gây thiệt hại sẽ không bị bắt gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Con người tồn tại trong Thế giới bị chi phối bởi những qui luật khách quan và hoạt động của con người bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Tất cả những động cơ thúc đẩy con người hành động không phải bộc phát một cách ngẫu nhiên trong ý thức của con người mà được hình thành một cách có qui luật. Đó là kết quả giao tiếp của người đó với người khác, sự phát triển tâm lý trước đây, sự phản ánh những sự vật, hiện tượng tác động trực tiếp đến người ấy. Thông qua hoạt động tâm lý con người hoạt động có ý thức, từ đó quyết định sự hình thành và phát triển xã hội [37, tr. 190]. 9 Xử sự của con người có tính qui luật nhưng không phải mang tính tuyệt đối. Khi sống trong cùng một xã hội, cùng một điều kiện nhưng có người vi phạm các chuẩn mực xã hội, có người thực hiện tốt các trách nhiệm của một thành viên trong xã hội, có người phạm tội, có người không phạm tội, có người phạm tội một lần, có người phạm tội nhiều lần… Chủ nghĩa Mác Lênin công nhận tính qui luật của xử sự con người nhưng cũng công nhận sự tự do ý chí của con người. Hoạt động của con người bị chi phối bởi các qui luật khách quan nhưng nhờ hoạt động ý thức, con người đã nhận thức và vận dụng các qui luật đó vào việc thực hiện các mục đích của mình. Đó chính là sự tự do ý chí. Tuy nhiên, tự do ý chí của con người không phải là sự suy nghĩ tuyệt đối độc lập, mà nó bị chi phối bởi các qui luật tự nhiên, tự do ý chí là năng lực quyết định của một người khi nhận thức được nó. Hêghen nói: “Tự do là nhận thức được cái tất yếu, tất yếu sẽ mù quáng khi con người chưa nhận thức được nó” [2, tr. 195]. Tất cả những gì tác động đến con người, thúc đẩy hành vi đều phải thông qua bộ óc của con người. Hoạt động của con người không phải là kết quả tác động trực tiếp của các điều kiện lịch sử mà chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động tâm lý bên trong con người. Con người có sự tự do của mình, nghĩa là có quyền lựa chọn một xử sự phù hợp với các qui luật, đó là sự tự do thực sự. Ngược lại, con người sẽ bị tước bỏ sự tự do của mình khi xử sự không phù hợp với qui luật. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì chỉ có sự tự do tương đối trong khuôn khổ các điệu kiện lịch sử, xã hội cụ thể và phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội. Vì vậy, mỗi cá nhân trong xã hội dựa trên cơ sở sự tự do của mình phải đáp ứng những đòi hỏi có tính qui luật của xã hội là pháp luật và đạo đức xã hội. Đó là vấn đề trách nhiệm của cá nhân trong xã hội, phù hợp với sự tự do của cá nhân nhằm bảo đảm tôn trọng sự tự do của cá nhân khác. 10 Tóm lại, con người có khả năng nhận thức và vận dụng tốt các qui luật của xã hội để giành lấy tự do cá nhân. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng là như vậy. Đôi lúc, họ vẫn nhận thức được các qui luật đó nhưng không phải họ vận dụng nó để thực hiện hành vi một cách phù hợp với sự tự do của người khác mà ngược lại, họ hành động sai với qui luật. Đó là ý chí của cá nhân người muốn tự tước bỏ tự do của người khác và hậu quả cũng tự tước bỏ sự tự do của mình. Pháp luật buộc họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đó của họ là phù hợp. Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một người khi họ có tự do. Con người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do thì có nghĩa họ có lỗi. Trách nhiệm chỉ đặt ra khi họ có lỗi. Tự do, trách nhiệm là cơ sở lý luận của lỗi. Đúng như Ph. Ăngghen đã viết: “Người ta không thể bàn bạc đúng đắn về đạo đức và pháp quyền, mà lại không nói đến cái gọi là tự do ý chí, đến trách nhiệm của con người, đến quan hệ giữa tất yếu và tự do” [2, tr. 194]. 1.2. Tự do ý chí là cơ sở của lỗi trong luật hình sự Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại cho xã hội của mình, vì con người có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và có khả năng điều khiển được hành vi theo những đòi hỏi của xã hội. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại cho xã hội của mình trong trường hợp người đó đã lựa chọn hành vi này khi có đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội. Đó là những trường hợp có lỗi. Trong trường hợp này tội phạm được coi là một xử sự mất tự do. Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã mà họ thực hiện và hậu quả đó do hành vi đó gây ra cho xã hội. Con người chỉ có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình, về những gì con người đó hiểu được, những gì nằm trong tầm kiểm soát của sự nhận thức. Nó không thể 11 phải chịu trách nhiệm về những gì tuy có liên quan đến việc làm của mình và thậm chí những gì đã dẫn đến hành vi đó, nhưng lại nằm ngoài nhận thức và ý thức của chủ thể. Từ đó cho thấy, không thể nói đến trách nhiệm nếu thiếu đi khả năng lựa chọn cách ứng xử và hành động của con người. Việc coi lỗi là cơ sở về mặt chủ quan của trách nhiệm hình sự gắn liền với xuất phát từ mục đích của luật hình sự, của trách nhiệm hình sự và hình phạt. Chúng ta đều biết rằng, mục đích của Luật Hình sự và của trách nhiệm hình sự là giáo dục và cải tạo người phạm tội. Nếu trách nhiệm hình sự và hình phạt được đem áp dụng cho một người không kiểm soát được hành vi của mình, không nhận thức được về hành vi đó thì trách nhiệm hình sự và hình phạt sẽ không có ý nghĩa, thậm chí là vô nhân đạo, phi nhân tính. Luật hình sự của chúng ta cũng như đạo lý của nhân dân ta không chấp nhận những việc làm như truy cứu trách nhiệm người vô tội, những người còn nhỏ chưa hiểu được hành vi của mình. Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi là nguyên tắc cơ bản. Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt nam không phải chỉ đơn thuần vì người này đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt nam không chấp nhận việc “qui tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự chính là sự thừa nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người. Đó là cơ sở đảm bảo cho trách nhiệm hình sự có khả năng khách quan thực hiện được mục đích: “… không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới…” (Điều 27 Bộ luật hình sự). 12 Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: xử sự của con người có tính qui định trước nhưng đối với chính xử sự của mình con người vẫn có tự do, vì con người qua hoạt động có ý thức của mình có năng lực lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự phù hợp với qui luật tự nhiên và xã hội đã nhận thức được. Xử sự của con người có tính qui định trước, có nghĩa được hình thành một cách có qui luật, xuất hiện không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời những điều kiện kinh tế - xã hội. Điều kiện kinh tế - xã hội qui định những khả năng xử sự của con người. Những khả năng đó có tính tất nhiên. Nhưng khả năng khách quan nào được thực hiện qua cá nhân cụ thể còn phụ thuộc vào chủ quan của chính cá nhân đó, vì “tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ”…[1, tr.78]. “Con người khi hành động không phải chỉ nhắm mắt thụ động, để cho hoàn cảnh khách quan lôi kéo…mà còn có tự do tương đối”…[20, tr. 339]. Xử sự của con người tuy chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội nhưng không phải là kết quả trực tiếp của riêng điều kiện kinh tế - xã hội, vì “mọi sự tác động của hiện tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác động” [24, tr. 270]. Tất cả xử sự của con người đều là kết quả của sự tác động qua lại giữa điều kiện khách quan bên ngoài của cuộc sống xã hội và điều kiện chủ quan bên trong của chủ thể. Điều kiện kinh tế - xã hội qui định xử sự của con người nhưng phải thông qua lăng kính chủ quan của mỗi chủ thể. Xử sự của con người không được qui định một cách trực tiếp bởi điều kiện bên ngoài mà là kết quả trực tiếp của sự lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự trong số những xử sự khách quan đã nhận thức được. Con người có tự do đối với xử sự của mình có nghĩa họ có tự 13 do lựa chọn, có tự do quyết định và tự do thực hiện xử sự. Nhưng việc lựa chọn, việc quyết định và việc thực hiện xử sự chỉ có thể là tự do thực sự khi xử sự đã lựa chọn, đã quyết định, đã thực hiện phù hợp với qui luật. Trái lại, nếu con người lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự không phù hợp qui luật thì có nghĩa họ đã tự tước bỏ khả năng tự do của mình. Trong xã hội vẫn còn những xử sự biểu hiện của sự mù quáng xã hội. Đó là những hành vi phạm tội, những hành vi vi phạm và những hành vi trái đạo đức. Đối với những người đã có hành vi như vậy xã hội và nhà nước có quyền phản ứng, có quyền lên án và có quyền buộc họ phải gánh chịu trách nhiệm. Đó là hậu quả của việc không thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ trên cơ sở quyền hạn đã có, trên cơ sở của tự do. Con người phải gánh chịu trách nhiệm về những hành vi mù quáng xã hội của mình, vì con người có năng lực lựa chọn, năng lực đánh giá xử sự của mình và vì con người trong xã hội có đủ điều kiện để thoả mãn những đòi hỏi của xã hội, hay nói một cách khác vì họ có tự do. Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một người khi họ có tự do. Con người xử sự trái với lợi ích của nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do thì có nghĩa họ là người có lỗi. Trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi. Như vậy, lỗi trong luật hình sự, trước hết được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của xã hội đã được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của Luật hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan là sự gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cũng như quan hệ giữa khách quan và chủ quan, sự phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập không cần có sự phủ dịnh chủa quan nhưng sự phủ định chủ quan chỉ tồn tại khi có sự phủ định khách quan. 14 Điều đó có nghĩa là: lỗi bao giờ cũng phải đi liền với hành vi nguy hiểm cho xã hội và không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Lỗi trong Luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, lỗi của con người cụ thể khi thực hiện hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Sự phủ định chủ quan thể hiện ở sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự khách quan gây thiệt hại cho xã hội và trái pháp luật hình sự. Trong trường hợp có lỗi, chủ thể có nhiều khả năng xử sự - khả năng xử sự gây thiệt hại cho xã hội và khả năng xử sự phù hợp với lợi ích của xã hội. Những khả năng này chủ thể đều có thể lựa chọn quyết định và thực hiện xử sự gây thiệt hại cho xã hội. Như vậy, lỗi chỉ đặt ra cho những trường hợp trong đó có khả năng xử sự phù hợp với xã hội và chủ thể đã không lựa chọn khả năng này. 1.3. Khái niệm chung về lỗi theo Luật hình sự Việt Nam (Điều 9+10 = thái độ đối với hành vi và hậu quả). Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản. Một người phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ đơn thuần vì họ có hành vi khách quan đã gây ra thiệt hại cho xã hội, mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiệm hành vi khách quan đó. Một người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi nếu hành vì đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn hoặc quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan