VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN THUẤN
LIÊN VĂN BẢN TRONG SÁNG TÁC
NGUYỄN HUY THIỆP
Chuyên ngành : LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số
: 62.22.32.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRỊNH BÁ ĐĨNH
HÀ NỘI - năm 2013
iv
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, xin chân thành cảm ơn những người thân yêu trong gia
đình đã tạo mọi điều kiện cần thiết để tôi tập trung hoàn thành luận án.
Đặc biệt, xin cảm ơn nhà giáo, PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh, người đã
tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi
sớm hoàn thành luận án trong điều kiện tốt nhất có thể.
Xin cảm ơn lãnh đạo Khoa Ngữ văn, lãnh đạo Trường Đại học sư
phạm - Đại học Huế, lãnh đạo Viện Văn học và Học viện khoa học xã
hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi
thực hiện luận án.
Xin được cảm ơn tất cả quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp, sinh
viên - những người đã luôn khuyến khích và giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện đề tài.
Tác giả
Nguyễn Văn Thuấn
v
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ
chuẩn xác cao nhất. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất
xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình
nghiên cứu của mình.
Huế, tháng 5 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Văn Thuấn
vi
MỤC LỤC
Trang phụ bìa .........................................................................................................................i
Lời cảm ơn……………………………………………………………………….................ii
Lời cam đoan .......................................................................................................................iii
Mục lục.................................................................................................................................iv
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt được sử dụng trong luận án.................................................vi
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................1
2. Cơ sở lí thuyết và phương pháp nghiên cứu.......................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..........................................................................4
4. Đóng góp của luận án........................................................................................5
5. Cấu trúc luận án.................................................................................................5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................6
1.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết liên văn bản....................................................6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết liên văn bản trên thế giới.........................6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lí thuyết liên văn bản ở Việt Nam..........................8
1.2. Tình hình nghiên cứu sáng tác Nguyễn Huy Thiệp.......................................15
1.2.1. Những nghiên cứu gián tiếp bàn về sáng tác Nguyễn Huy Thiệp...........15
1.2.2. Những nghiên cứu trực tiếp bàn về sáng tác Nguyễn Huy Thiệp...........16
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ TÍNH LIÊN VĂN BẢN.......20
2.1. Lí thuyết liên văn bản của chủ nghĩa cấu trúc: Genette và Riffaterre............20
2.1.1. Gérard Genette và tính xuyên văn bản....................................................22
2.1.2. Michael Riffaterre và ảo tưởng quy chiếu..............................................27
2.2. Lí thuyết liên văn bản từ Bakhtin đến Chủ nghĩa giải cấu trúc.....................30
2.2.1. Mikhail Bakhtin và tính đối thoại...........................................................30
2.2.2. Julia Kristeva và tính liên văn bản..........................................................38
2.2.3. Roland Barthes và tính đa bội.................................................................44
Chương 3. ĐỐI THOẠI LIÊN VĂN BẢN TRONG SÁNG TÁC
NGUYỄN HUY THIỆP.........................................................................................55
3.1. Đối thoại tư tưởng và đối thoại văn hóa........................................................56
3.1.1. Đối thoại với tư tưởng Nho – Phật – Đạo...............................................56
3.1.2. Đối thoại với những thành kiến văn chương...........................................70
3.1.3. Giải thiêng huyền thoại về nhân cách con người lịch sử........................77
3.2. Tâm thế đối thoại của Nguyễn Huy Thiệp....................................................83
3.2.1. Từ tâm thức hiện sinh, soi sáng sự hiện hữu của con người...................83
3.2.2. Lập trường dân chủ trong đối thoại........................................................88
vii
Chương 4. CÁC HÌNH THỨC LIÊN VĂN BẢN TRONG SÁNG TÁC
NGUYỄN HUY THIỆP.........................................................................................97
4.1. Ảnh hưởng và đọc sai, trích dẫn và giễu nhại...............................................97
4.1.1. Ảnh hưởng và đọc sai văn học quá khứ..................................................97
4.1.2. Trích dẫn văn học truyền thống............................................................113
4.1.3. Giễu nhại văn bản, diễn ngôn và thể loại..............................................119
4.2. Pha trộn thể loại trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp....................................134
4.2.1. Sự xâm nhập của thơ trong văn xuôi....................................................134
4.2.2. Sự xâm nhập của tự sự vào kịch...........................................................141
KẾT LUẬN..........................................................................................................147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
viii
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
CBĐ
CĐBĐ
LVB
NHT
VB
:
:
:
:
:
Cái biểu đạt
Cái được biểu đạt
Liên văn bản
Nguyễn Huy Thiệp
Văn bản
ix
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ XX được xem là thế kỉ của các lí thuyết văn học. Trong thế kỉ này,
người ta chứng kiến sự ra đời, phát triển của nhiều trường phái, lí thuyết. Chúng
tiếp biến, ảnh hưởng và phủ nhận nhau khiến đời sống văn học sôi động, đa dạng,
phức tạp. Đầu thế kỉ XX, khái niệm văn bản (text) được phát hiện đã làm thay đổi
hẳn quan niệm về tác phẩm văn học, cấu trúc của nó, về vị trí và vai trò của tác giả,
người đọc. Đến nửa cuối thế kỉ này, khái niệm tính liên văn bản (intertextuality) ra
đời và trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ngữ văn hàng đầu thế giới.
Nguồn gốc của khái niệm tính liên văn bản được đa số các nhà nghiên cứu thống
nhất tính từ thời điểm khai sinh của ngôn ngữ học hiện đại gắn liền với tên tuổi của
nhà ngôn ngữ học người Thụy Sĩ, F. Saussure. Lí thuyết này cũng gắn liền với
những tư tưởng triết học, lí luận văn học độc đáo của nhà bác học Nga M.Bakhtin
và vang vọng những quan niệm của các nhà Hình thức luận Nga. Tuy nhiên, với tư
cách một khái niệm lí thuyết văn học, nó chính thức được đặt ra vào nửa cuối những
năm 60 tại phương Tây bởi nhà nghiên cứu văn học trẻ người Pháp gốc Bulgaria,
Julia Kristeva. Quan niệm tính liên văn bản của bà ra đời trong bối cảnh các quan
niệm cấu trúc luận đang bị xét lại và đang hình thành cái gọi là chủ nghĩa hậu cấu
trúc. Quan niệm của Kristeva nhanh chóng tìm được sự hưởng ứng của các nhà hậu
cấu trúc tên tuổi như R.Barthes, L.Bloom; các nhà cấu trúc luận – trần thuật học
như M.Riffaterre, G.Genette...Hiện nay, lí thuyết liên văn bản có sức lan tỏa rất
rộng, được sử dụng bởi các nhà nữ quyền luận, tân lịch sử, hậu thực dân luận và
một số khuynh hướng nghiên cứu kí hiệu học khác nhằm khám phá các hiện tượng
văn học/văn hóa quá khứ và đương đại. Cho đến nay, có một nhận thức chung rằng
bất kỳ văn bản nào cũng đều có quan hệ với các văn bản khác ra đời trước đó.
Quan hệ này dựa trên những sự kết nối giữa các văn bản với nhau bằng những
phương thức khác nhau như: ám chỉ, trích dẫn, chuyển thể, chuyển dịch, đạo văn,
nhái, nhại, mô phỏng, pha trộn…Những quan hệ này được tác giả tạo lập bằng ý
thức hoặc vô thức, được độc giả tri nhận trong thực tiễn giao tiếp nghệ thuật và
chúng tương tác với tri thức và trải nghiệm văn bản của người đọc, gây ra hứng thú
diễn giải, qua đó, các giá trị văn hóa không ngừng được sản sinh và đón nhận. Tính
liên văn bản là thuật ngữ được dùng để miêu tả thuộc tính hay phương thức quan
hệ trên đây, nơi mà mỗi văn bản đều chứa đựng sự tham chiếu đối với các văn bản
khác, qua đó chúng sinh sản và nảy nở ý nghĩa.
1
Trên thế giới, từ khi thuật ngữ tính liên văn bản ra đời, nó đã được vận dụng
rộng rãi vào việc nghiên cứu văn học. Những công trình nghiên cứu theo hướng liên
văn bản hiện nay trên thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp. Ở Việt Nam, lí
thuyết này cho đến nay vẫn chưa được khảo sát và nghiên cứu một cách hệ thống.
Trong mấy năm gần đây, tuy đã có đôi ba bài dịch, giới thiệu nhưng chừng ấy là
chưa đủ để giúp cho các nhà nghiên cứu văn học tiếp cận và vận dụng lí thuyết.
Luận án của chúng tôi mong muốn cập nhật, giới thiệu một cách tương đối hệ thống
lí thuyết liên văn bản nhằm đa dạng hóa các cách thức tiếp cận văn học và sâu xa
hơn muốn góp một một phần nhỏ vào quá trình đổi mới hệ hình nghiên cứu văn học
ở Việt Nam theo hướng hiện đại.
Theo chúng tôi, trong văn xuôi, một số cây bút tiêu biểu của văn học Việt
Nam từ thời kỳ Đổi mới đến nay như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo
Ninh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái…đã có ý thức sử dụng liên văn bản
trong sáng tác. Đây là một trong số những nổ lực nghệ thuật của nhà văn. Họ tiếp
tục tinh thần phê phán và nhân bản, khơi sâu vào các vấn đề thế sự, đời tư, phát hiện
những mặt trái của nhân sinh, xã hội, văn hóa; tự vấn, phản biện, đối thoại với tinh
thần dân chủ, cởi mở. Họ kiếm tìm và thử nghiệm những hình thức nghệ thuật mới
khá đa dạng: đối thoại với văn bản xã hội (social text) và diễn ngôn tập thể
(collective discourse); vay mượn và giễu nhại huyền thoại, cổ tích; quan tâm đến
việc trích dẫn, viết lại, viết tiếp những văn bản cũ; pha trộn thể loại, hư cấu lịch sử,
giễu nhại văn chương và văn hóa truyền thống có tính chất khuôn sáo, giáo điều, bề
trên…Trong văn học thời kỳ Đổi mới, có thể nói Nguyễn Huy Thiệp là một trong số
những cây bút tiêu biểu nhất và có những đóng góp lớn. Ông chịu ảnh hưởng từ
nhiều nguồn khác nhau: lịch sử, huyền thoại, tôn giáo, văn hóa bác học và bình dân,
nông thôn và đô thị, quá khứ và hiện hành, bản địa và ngoại lai. Nhiều nhà văn tiền
nhân như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bính, Puskin,
Dostoevsky, Bồ Tùng Linh trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo và chất liệu văn
chương trong sáng tác của ông. Nhà văn đã sống và sáng tạo trong môi trường sinh
thái văn học/văn hóa khát khao đổi thay, vươn xa hòa nhập với thế giới hiện đại,
dân chủ. Do đó, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều cách tân táo bạo và nhận
được sự ủng hộ nhiệt thành của nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học có uy tín.
Nguyễn Huy Thiệp đã gây xôn xao dư luận trong một thời gian dài. Tầm vóc của
ông có thể nói là ít nhiều mang tính quốc tế. Người ta bàn nhiều về ông, sách của
ông được dịch in ở nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm của ông là đối tượng nghiên
cứu có sức hấp dẫn từ các lập trường và phương pháp khác nhau như phân tâm học,
2
văn hóa học, phê bình huyền thoại, thi pháp học, trần thuật học, xã hội học…Trên
cơ sở tiếp cận liên văn bản sáng tác Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi xác định mục
đích thứ hai cho luận án là có thể mang lại những khám phá mới, khác về tư tưởng
và nghệ thuật Nguyễn Huy Thiệp, hoặc có cách kiến giải phù hợp với một số vấn đề
phức tạp được khơi động từ những sáng tác của ông trong dòng chảy văn học Việt
Nam thời kỳ Đổi mới. Đó là những lí do cơ bản, cần thiết để chúng tôi lựa chọn
thực hiện đề tài Liên văn bản trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp.
2. Cơ sở lí thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí thuyết
Như chúng tôi đã nêu ở trên và sẽ diễn giải cụ thể ở phần sau, lí thuyết liên
văn bản rất phức tạp, xuyên trường phái, đa nguyên. Bởi vậy, trong nghiên cứu này,
sau khi phân tích các quan niệm của Bakhtin, Kristeva, Barthes, Bloom, Genette,
Riffaterre,…dựa trên những nét tương đồng cơ bản trong quan niệm của họ, chúng
tôi mạnh dạn đưa ra quan niệm về văn bản/liên văn bản như sau: Văn bản/liên văn
bản (text/intertext), là một chuỗi kí hiệu ngôn ngữ/phi ngôn ngữ (một phát ngôn,
một lời nói hoặc viết, một bức tranh, một bài hát, một bộ phim, một truyện ngắn,
kịch, tiểu thuyết, bài thơ),…có nghĩa/ý nghĩa; được kiến tạo, sản sinh từ những văn
bản khác, có mối quan hệ với những văn bản khác, gây ra tương tác đối thoại với
mạng lưới tri thức/trải nghiệm văn bản vốn có ở người đọc. Mỗi văn bản nghệ thuật
của Nguyễn Huy Thiệp là một không gian của sự tích hợp, thẩm thấu, chuyển hóa,
đối thoại, tương tác, ảnh hưởng, trích dẫn, giễu nhại, pha trộn và kết nối đến những
văn bản khác, vốn có trước đó, đồng văn hóa hoặc dị văn hóa. Do đó, chúng tôi xác
định hai nội dung cơ bản để giải quyết vấn đề liên văn bản trong sáng tác Nguyễn
Huy Thiệp: đối thoại liên văn bản (intertextual dialogism) và những hình thức/kiểu
liên văn bản (forms/types of intertextuality) trong sáng tác của ông.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp, trong đó phương pháp lịch
sử – loại hình và phương pháp cấu trúc – hệ thống được sử dụng chủ yếu.
Phương pháp lịch sử – loại hình: Chúng tôi khảo sát lịch sử hình thành và
vận động của lý thuyết liên văn bản, đặc trưng và nội hàm của khái niệm qua từng
nhà lập thuyết – thực hành và từng thời điểm. Những công trình của những nhà lí
thuyết liên văn bản như Bakhtin, Kristeva, Barthes, Bloom, Genette, Riffaterre sẽ
được phân tích, đánh giá chủ yếu theo phương pháp trên.
3
Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Trước hết, chúng tôi dùng để nghiên cứu
một cách hệ thống tư tưởng của từng nhà lập thuyết về tính liên văn bản. Sau đó, nó
được dùng thường xuyên để nghiên cứu thực tiễn liên văn bản trong sáng tác
Nguyễn Huy Thiệp: xem toàn bộ sáng tác Nguyễn Huy Thiệp như một hệ thống,
xem mỗi văn bản/toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp như một liên văn bản, đặt
nó trong mạng lưới quan hệ với các văn bản khác (văn bản xã hội và diễn ngôn tập
thể), xem xét nó qua những quan hệ và đối thoại liên văn bản (intertextual
relationships/dialogues), từ đó có những đánh giá, kết luận cần thiết.
Ngoài ra, các thao tác nghiên cứu như thống kê, so sánh, phân tích văn bản
văn học, đối chiếu các đoạn văn, diễn ngôn và từ vựng giữa các văn bản được vận
dụng rộng rãi. Các phương pháp liên ngành khác nhằm làm nổi bật tính liên văn bản
trong mỗi văn bản – tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp cũng được chú ý.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án trước hết là lí thuyết về tính liên văn bản,
tiếp đó là tiếp cận liên văn bản sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Hai đối tượng này có
quan hệ mật thiết với nhau vì chỉ có thể tiếp cận liên văn bản sáng tác Nguyễn Huy
Thiệp khi có những tri thức tương đối hệ thống về lí thuyết liên văn bản và lí thuyết
sẽ trở nên sáng rõ và gần gũi hơn khi được soi chiếu, liên hệ từ thực tiễn sáng tác
của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Cũng bởi vậy nên trong khi trình bày, phân tích lí
thuyết liên văn bản, cho phép chúng tôi được sử dụng những ví dụ quen thuộc từ
sáng tác của ông. Mặt khác, đối tượng chính của đề tài là tập trung tiếp cận liên văn
bản sáng tác Nguyễn Huy Thiệp, nhưng vì lí thuyết liên văn bản hết sức phức tạp,
đa hướng, xuyên trường phái, lại chưa được dịch và giới thiệu ở Việt Nam một cách
hệ thống, nên tác giả luận án thấy cần thiết phải có một chương nghiên cứu riêng về
lí thuyết này. Đây là công việc hết sức khó khăn với chúng tôi, bởi vì thật khó để
chiếm lĩnh tư tưởng của các nhà lập thuyết và thực hành liên văn bản trong hơn một
thế kỉ vừa qua, bắt đầu với Saussure, các nhà Hình thức luận Nga, các triết gia hiện
tượng học và triết học ngôn ngữ…cho đến các nhà giải cấu trúc – hậu hiện đại
đương thời. Bởi vậy, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu lí thuyết liên văn bản
trong khuôn khổ tư tưởng của một số nhà lập thuyết tiêu biểu như Bakhtin,
Kristeva, Barthes, Bloom, Riffaterre, Genette. Những quan niệm và cách tiếp cận
khác về tính liên văn bản, đặc biệt từ hướng triết học ngôn ngữ,…vẫn chưa được tác
giả luận án giải quyết. Việc tiếp cận liên văn bản sáng tác Nguyễn Huy Thiệp cũng
chỉ giới hạn trong một số khía cạnh tiêu biểu nhất như đối thoại liên văn bản, ảnh
4
hưởng và đọc sai, trích dẫn và giễu nhại, pha trộn thể loại. Các khía cạnh khác như
đối thoại nội văn bản, đối thoại xã hội, ám chỉ, đạo văn, cận văn bản, chuyển dịch,
tu chỉnh…chỉ được phân tích sơ lược, dẫn dụ để minh họa lí thuyết chứ chưa được
khảo sát chi tiết. Chúng tôi hi vọng những khía cạnh còn để ngỏ đó sẽ được triển
khai nghiên cứu ở cấp độ khác, trong khuôn khổ khác, chuyên sâu hơn, hòng thỏa
mãn yêu cầu của người đọc có quan tâm đến lí thuyết và thực tiễn liên văn bản.
4. Đóng góp của luận án
Về lí thuyết: trong tình hình việc giới thiệu lí thuyết về tính liên văn bản ở
nước ta còn đơn lẻ, sơ lược, chúng tôi cố gắng trình bày tương đối ngắn gọn hệ
thống lí thuyết này, trên phương diện lịch sử và cấu trúc, qua tư tưởng của một số
đại biểu như Bakhtin, Kristeva, Barthes, Bloom, Riffaterre, Genette.
Về thực tiễn: thể nghiệm phân tích đối thoại liên văn bản và các hình thức
liên văn bản nổi bật trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp nhằm làm sáng rõ lí thuyết,
đồng thời qua đó đánh giá đặc sắc tư tưởng – nghệ thuật của nhà văn trong tư cách
một hiện tượng văn học có nhiều đóng góp cho văn học Đổi mới ở Việt Nam.
5. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, phần Phụ
lục, phần Nội dung luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Một số vấn đề lí thuyết về tính liên văn bản
Chương 3. Đối thoại liên văn bản trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp
Chương 4. Các hình thức liên văn bản trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Phần Tổng quan này, chúng tôi trình bày hai vấn đề cơ bản. Một là, tình hình
nghiên cứu lí thuyết liên văn bản trên thế giới và ở Việt Nam. Hai là, tình hình
nghiên cứu sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Ở khía cạnh thứ nhất, chúng tôi chú trọng
nhiều vào tình hình nghiên cứu liên văn bản ở Việt Nam. Riêng tình hình nghiên
cứu lí thuyết liên văn bản trên thế giới sẽ được chúng tôi lồng vào phân tích chi tiết
ở chương sau. Ở khía cạnh thứ hai, luận án chú ý nhiều đến những nghiên cứu trực
tiếp bàn về sáng tác Nguyễn Huy Thiệp và có lưu ý đến những bài viết tiếp cận sáng
tác của ông từ góc độ liên văn bản.
1.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết liên văn bản
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết liên văn bản trên thế giới
Khởi nguồn của lí thuyết liên văn bản (LVB) là những nghiên cứu của nhóm
Tel Quel và tạp chí cùng tên tại Pháp những năm 1960. Từ đó đến nay, đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu – phê bình có liên quan luận bàn về lí thuyết và vận
dụng nó trong nghiên cứu văn học/văn hóa. Do khuôn khổ luận án và khả năng tư
liệu nên chúng tôi chỉ quan tâm đến những nghiên cứu lí thuyết LVB trên mảng tư
liệu tiếng Anh. Về phương diện tổng thuật, phân tích lí thuyết, đáng chú ý là phần
dẫn luận trong công trình Intertextuality: Theories and practices (Tính liên văn bản:
Lí thuyết và thực tiễn –1990) của M.Worton và Judith Still, những tóm lược và diễn
giải ngắn gọn của R.Stam, R.Burgoyne, S.F.Lewis trong New Vocabularies in Film
Semiotics (Từ vựng mới trong kí hiệu học điện ảnh, 1992), những phân tích tổng
thể, toàn diện trong công trình Intertextuality (Tính liên văn bản – 2000) của
Graham Allen, những thảo luận trong Intertextuality: Debates and Contexts (Tính
liên văn bản: Tranh luận và ngữ cảnh – 2003) của Mary Orr…Nhìn chung, tình hình
nghiên cứu lí thuyết LVB đến thời điểm hiện nay đã khá thống nhất trên một số vấn
đề cơ bản.
Một là, về sự xuất hiện của khái niệm: tất cả các công trình nghiên cứu đều
khẳng định Kristeva đã đặt ra thuật ngữ này vào khoảng năm 1966 và công bố năm
1967 trong bài báo Từ, Đối thoại và Tiểu thuyết ( tiêu đề bài báo này chúng tôi dịch
theo bản tiếng Anh, Word, Dialogue and Novel của Toril Moi trong sách The
Kristeva Reader. Riêng bản tiếng Pháp có tên đầy đủ là Bakhtine, le mot, le
dialogue et le roman). Bài báo này ra đời trên cơ sở Kristeva nghiên cứu rất kỹ các
6
công trình của Bakhtin như Vấn đề nội dung, hình thức và chất liệu nghệ thuật
ngôn từ, Những vấn đề thi pháp Dostoevsky, Sáng tác F.Rabelais và văn hóa dân
gian trung cổ và Phục hưng,…Thuật ngữ của Kristeva gần gũi với các thuật ngữ
của Bakhtin như tính đối thoại, tính lai ghép, diễn ngôn hai giọng…đồng thời cũng
xuất phát từ những sự phê phán của bà đối với các quan điểm của nhà ngôn ngữ học
người Thụy Sĩ, F.Saussure về bản chất mối quan hệ kí hiệu. Từ đây, đa số các công
trình đều thống nhất ở chỗ, coi Saussure, Bakhtin, Kristeva là những nhà lập thuyết
đầu tiên của tính LVB và tiến hành phân tích, thảo luận về những tư tưởng của họ.
Sau Saussure, Bakhtin, Kristeva, diện khảo sát được mở rộng đến các công trình của
Barthes, Bloom, Eco, Derrida, Genette, Riffaterre, các nhà nữ quyền luận, tân lịch
sử, hậu thực dân…
Hai là, về nội hàm của khái niệm. Các công trình trên đều tránh đi đến một
định nghĩa duy nhất. Họ trình bày quan niệm của từng nhà tư tưởng đối với vấn đề
tính LVB như Bakhtin, Kristeva, Barthes, Genette, Bloom, Riffaterre, các nhà nữ
quyền luận, hậu thực dân, hậu hiện đại…Nhìn chung, có hai cách tiếp cận thuật ngữ
này. Cách tiếp cận thứ nhất coi LVB như một thủ pháp văn học. Cách tiếp cận này
giới hạn tính LVB trong phạm vi các phương thức tạo lập mối quan hệ giữa văn bản
(VB) hiện hành và những VB khác trước đó. Sự kết nối LVB phải mang ý thức chủ
động và phải có dấu hiệu kết nối xuất hiện trong VB đang được khảo sát. Các mối
quan hệ LVB (intertextual relationships) như thế thường được quy về các phương
thức như mô phỏng, ám chỉ, trích dẫn, đạo văn, biên tập, tu chỉnh, chuyển dịch, ảnh
hưởng, giễu nhại, pha trộn thể loại…Cách tiếp cận thứ hai có tính cách bản thể luận.
Cách tiếp cận này có thể thấy ở Bakhtin và hầu hết các nhà giải cấu trúc thời danh
như R. Barthes, J.Derrida, J.Kristeva, U.Eco. Trên cơ sở nền tảng: “không có gì ở
ngoài VB”, các nhà lí luận đi đến chỗ cho rằng mọi VB đều là LVB. Tất cả các VB
được kiến tạo dựa vào những mã và những quy tắc văn hóa hiện hành. Các VB
được xem như là “bức khảm các trích dẫn” và “không gian tiếng vọng”, nơi mà câu
hỏi về nguồn gốc của những trích dẫn và tiếng vọng đó biến mất. Nói cách khác,
tính LVB là thuộc tính của VB và là yêu cầu của mọi sự giao tiếp văn học.
Hai quan điểm trên đây đưa lí thuyết LVB đi theo hai ngã rẽ khác nhau:
hướng cấu trúc – trần thuật với G.Genette, M.Riffaterre làm chủ soái và hướng giải
cấu trúc, tập hợp nhiều nhà lập thuyết có uy tín ở cả Pháp và Mỹ. Hướng cấu trúc –
trần thuật xem LVB như là những thủ pháp kiến tạo mối quan hệ giữa VB hiện hành
và VB khác ra đời trước đó. Hướng giải cấu trúc xem mọi VB đều có những mối
quan hệ chằng chịt với các VB khác được gọi là các VB xã hội – đóng vai trò như
7
những mã, những mô thức, những tiền VB chi phối sự sinh thành của VB. Hai
hướng tiếp cận đều có những điểm tương đồng và những chỗ mâu thuẫn, khác biệt.
Điều này sẽ được chúng tôi diễn giải và phân tích kỹ ở chương sau.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu lí thuyết liên văn bản ở Việt Nam
Người giới thiệu và vận dụng lí thuyết LVB đầu tiên ở Việt Nam có lẽ là
Hoàng Trinh. Với những bài viết bàn về ký hiệu học trong những thập niên 1970 –
1980, có thể xem ông là nhà ký hiệu học đầu tiên giới thiệu và vận dụng lí thuyết
LVB. Trong công trình Từ kí hiệu học đến thi pháp học (1993), khi làm rõ khái
niệm VB, ông đã viết như sau: “Một VB bao giờ cũng kế thừa những VB có trước
và bao giờ cũng mang nhiều tiếng nói hội nhập vào nhau. Đó là tính LVB của mọi
VB”. Ông giải thích thêm: “một tác phẩm văn học mang dấu ấn của sự kế thừa và
của tính LVB rất rõ ở nhiều chỗ tác phẩm trước đó đã được tác giả sau này đọc, mô
phỏng tham khảo hoặc vận dụng”. Đồng thời Hoàng Trinh phân biệt sự khác biệt
giữa thuật ngữ LVB với thuật ngữ tính đối thoại của Bakhtin. Theo ông, tính đối
thoại là quan hệ vi mô, tồn tại trong một VB, còn tính LVB là vĩ mô, là quan hệ
giữa VB này với VB khác. Tuy nhiên, ở chỗ khác ông lại đồng nhất hai thuật ngữ
này khi viết: “Mặt khác, ngay trong một tác phẩm cũng có nhiều tiếng nói: tác giả,
quần chúng, thời đại, nhân vật. Đó là tính LVB hay tính đối thoại của văn học”.
Ông còn cho rằng, “lí luận về thi pháp học của Bakhtin (Liên xô) đã chỉ rõ tính
LVB trong tác phẩm của Ra-bơ-le (Rabelais) và Đô-xtôi-ép-xki, tạo ra tính “đa âm”
(polyponique) và “tính đối thoại” (dialogique) hết sức chân thực và sống động trong
các tiểu thuyết” [185, tr476]. Về điểm này, theo chúng tôi thì bản thân tính đa âm,
tính đối thoại là những cách gọi khác của tính LVB (Chúng ta cần lưu ý rằng
Bakhtin không dùng thuật ngữ tính liên văn bản). Cũng trong công trình này, Hoàng
Trinh giới thiệu phương pháp phân tích thơ của M.Riffaterre, qua đó, gián tiếp giới
thiệu quan niệm LVB của nhà cấu trúc – ký hiệu học này. Tuy nhiên, vì thiếu tính
lịch sử – hệ thống, lại xuất hiện tiên phong trong một hoàn cảnh văn hóa không
thuận lợi nên lí thuyết LVB mà Hoàng Trinh giới thiệu chưa gây được những hiệu
ứng đáng kể.
Công trình thứ hai có nhắc đến thuật ngữ LVB khá sớm nữa là bài giới thiệu
Bakhtin của Trần Đình Sử (Những vấn đề thi pháp Đốt-xtôi-épxki - 1993). Trong
bài viết này, ông khẳng định vai trò đặc biệt của tác phẩm, giới thiệu những tư
tưởng của Bakhtin về thi pháp học, tính đối thoại, về tiểu thuyết đa thanh/phức điệu
và có nhắc đến thuật ngữ LVB. Ông viết: “Ở đâu cuốn sách [Những vấn đề thi pháp
8
Đốt-xtôi-épxki] cũng gây được hứng thú sâu sắc, thúc đẩy tìm tòi. J.Krixtêva
[J.Kristeva] vận dụng quan niệm đối thoại của Bakhtin đã xây dựng khái niệm LVB
được công nhận rộng rãi ở phương Tây”. Tất nhiên, như chúng tôi sẽ trình bày ở
chương sau, sự kiện Kristeva vận dụng Bakhtin để sáng tạo ra thuật ngữ mới gắn bó
chặt chẽ với không khí học thuật Pháp khi ấy, thời điểm tư tưởng giải cấu trúc nảy
sinh, đòi xem xét lại toàn bộ các quan niệm của chủ nghĩa cấu trúc về văn học và
ngôn ngữ, trong đó nhấn mạnh sự bất ổn của nghĩa và đòi tuyên cáo về cái chết của
chủ thể. Do vậy tính đối thoại (của Bakhtin) và tính liên văn bản (ở Kristeva và các
nhà giải cấu trúc khác) có nhiều điểm khác biệt [201], [223]. Lúc bấy giờ, Trần
Đình Sử không quan tâm nhiều đến vấn đề này. Trung tâm chú ý của ông là lí
thuyết thi pháp học. Về sau (2008), trong giáo trình Lí luận văn học (Tập 2) Tác
phẩm và thể loại văn học, ông có cập nhật ngắn gọn lí thuyết LVB khi diễn giải
quan niệm của Kristeva và R.Barthes về VB và tác phẩm văn học. Theo chúng tôi,
người chỉ rõ mối quan hệ giữa tính đối thoại và tính LVB, vận dụng nó một cách
nhuần nhị là Đỗ Đức Hiểu. Trong bài viết Về Bakhtin [62], ông viết rằng “Julia
Kristéva phát triển tính đối thoại của Bakhtin thành khái niệm “tính LVB”
(Intertextualité)”. Trước đó, ông viết: “Tiểu thuyết, bản thân nó là đối thoại hết sức
đa dạng và phức hợp. Đa âm, hoặc LVB (Intertextualité), bởi vì nó đối thoại với các
VB đồng thời, nó quan hệ với các VB khác, trước nó và sau nó, với các cấu trúc xã
hội, nghệ thuật và văn hóa”. Như thế, theo Đỗ Đức Hiểu, tính đa âm = tính đối thoại
= tính LVB. Mặc dù có những điểm khác biệt giữa quan niệm tính LVB của
Kristeva và quan niệm tính đối thoại ở Bakhtin, nhưng về cơ bản, chúng tôi đồng ý
với nhận định rằng, bản thân các quan niệm về tính đa âm, tính đối thoại của
Bakhtin cũng chính là những quan niệm khác nhau về tính LVB. Đỗ Đức Hiểu
khẳng định tính đối thoại trong quan niệm của Bakhtin bao gồm cả mối quan hệ
giữa VB với VB xã hội (social text) (tức là những lời nói, những câu chuyện) nằm
ngoài VB. Ta thấy quan niệm của Đỗ Đức Hiểu tỏ ra phù hợp với cách hiểu hiện
thời của thuật ngữ. Hơn nữa, Đỗ Đức Hiểu, bằng tài hoa của mình, đã có những
trang viết rất xuất sắc mà trong đó có thể thấy ông đã vận dụng tinh thần đối thoại ở
Bakhtin, tính LVB ở Kristeva một cách nhuần nhị. Tiêu biểu nhất phải kể đến bài
Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ, Đọc Phạm Thị Hoài. Chẳng hạn, ông cho rằng
Số đỏ “là một cuốn bách khoa các loại hình tiểu thuyết”, “một LVB mang nhiều lớp
ý nghĩa”, “một hệ thống ký hiệu vạn năng”, “một tiểu thuyết đa thanh đa nghĩa”,
“một hoạt động ngôn từ”, “một VB chứa đựng nhiều VB, nó là tiếng vang, là giao
điểm của nhiều VB mang những mối quan hệ bên trong với các VB khác”…Thiên
9
sứ của Phạm Thị Hoài là một VB mang “đầy hòa âm và nghịch âm”, pha trộn rất
nhiều các mã VB khác nhau trong truyền thống phương Đông và phương Tây…
Đúng như Trịnh Bá Đĩnh nhận xét, những phân tích VB của Đỗ Đức Hiểu hiện rõ
dấu ấn của nhiều nhà thi pháp hiện đại như Bakhtin, Barthes, Riffaterre [48, tr4750] và là ví dụ rõ nhất về hướng tiếp cận LVB đối với văn học Việt Nam. Về sau,
Đỗ Đức Hiểu là người chấp bút viết mục Tính liên văn bản trong Từ điển văn học
(Bộ mới) [61], ở đấy trình bày ngắn gọn những quan niệm khác nhau về khái niệm
tính LVB. Sự xuất hiện của nó trong từ điển cho thấy, tính LVB đã có một vị thế
nhất định trong từ vựng nghiên cứu – phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
Từ khoảng năm 2005 trở lại đây, bắt đầu xuất hiện nhiều bài viết giới thiệu
sâu và chi tiết lí thuyết LVB của các nhà nghiên cứu như Nguyễn Hưng Quốc,
Nguyễn Nam, Nguyễn Minh Quân và một số bản dịch những nghiên cứu về lí
thuyết này. Trong Mấy vấn đề phê bình và lí thuyết văn học (2007), Nguyễn Hưng
Quốc đã giới thiệu những vấn đề lí thuyết LVB từ khởi thủy cho đến những nhận
thức gần đây về nó ở các nhà hậu hiện đại. Trong bài Văn bản và Liên văn bản, ông
cho rằng, nếu VB như một phát hiện quan trọng nửa đầu thế kỉ XX thì nửa sau thế
kỉ XX là LVB. Ông phân tích nguồn gốc ra đời của khái niệm, ở Saussure và
Bakhtin; tư tưởng của Kristeva, M.Foucault, H.Bloom, G.Genette; sự khác biệt giữa
LVB và điển cố, điển tích; mối quan hệ giữa những đổi thay văn học: việc phát hiện
ra người đọc, sự thay đổi trong bảng giá trị văn học và tính LVB; LVB với chủ
nghĩa hậu hiện đại, đặc biệt là hiện tượng giễu nhại hậu hiện đại (pastiche). Cho đến
thời điểm bài viết ra đời thì đây được coi là tài liệu có hệ thống đầu tiên về lí thuyết
LVB được viết bằng tiếng Việt. Tác giả là người am tường, sắc sảo trong phân tích,
phản biện, nguồn tài liệu tham khảo dồi dào nên những dẫn giải của ông chính xác
và thuyết phục. Tuy nhiên, do có tham vọng bao quát cả lịch sử lí thuyết LVB trong
gần thế kỉ, từ hiện đại đến hậu hiện đại, với nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí
đối lập…nên bài viết vẫn chưa thoát khỏi tính chất tổng thuật khái quát. Một số tác
giả khác đã vận dụng lí thuyết LVB để nghiên cứu các VB văn học. Đáng kể có
Nguyễn Nam với các bài Khoảng trống văn chương và tiếp cận LVB (Nghiên cứu
văn học, số 4/2004), Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo, LVB trong văn chương và điện
ảnh (Nghiên cứu văn học, số 12/2006), Người đọc am tường, liên tưởng mở rộng,
điểm qua mấy hướng tiếp cận liên văn bản ở nước ngoài (Tạp chí Đại học Sài Gòn,
số chuyên đề 2011), Sự thực tuyệt đối trong tự sự: Tiếp nhận và cải biên Rashõmon
ở Việt Nam (Nghiên cứu văn học số 8/2012). Nhà nghiên cứu Nguyễn Nam thường
ít chú trọng đến việc giới thiệu lí thuyết mà tập trung vận dụng nó để khám phá các
10
hiện tượng chuyển thể văn học – điện ảnh. Ở bài viết thứ nhất, Nguyễn Nam muốn
thông qua hiện tượng cải tác để xem xét mối quan hệ giữa Người con gái Nam
Xương của Nguyễn Dữ với các VB liên thuộc trong lịch sử. Cách tiếp cận của
Nguyễn Nam cho thấy vai trò rất lớn của người đọc trong việc giải mã bản chất
LVB của VB. Người đọc càng am tường, càng có khả năng liên tưởng thì càng có
nhiều khả năng chỉ ra những mối quan hệ liên thuộc giữa các VB. Tiếp cận chi tiết
chỉ bóng dỗ con trong Người con gái Nam Xương, nhà nghiên cứu lưu ý đến hiện
tượng cải tác, cải biên trong truyền thống trứ tác phương Đông và tỏ ra gần gũi với
nghiên cứu VB học, với lí thuyết tiếp nhận. Những hiện tượng như truyện cũ viết
lại, cổ tích viết lại đã bắt đầu hiện ra trong phạm vi của tính LVB. Ở những bài viết
sau đó về các tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ văn học, Nguyễn Nam đã xem sự di
truyền của các mô típ như là những vết tích LVB. Bài viết của ông đã mở ra một
khu vực mới trong nghiên cứu tính LVB. Đó là lĩnh vực của tính năng sản
(productivity) giữa văn chương và điện ảnh, nơi mà mỗi VB đều có khả năng sản
xuất, khả năng phái sinh và lệ thuộc lẫn nhau. Khi phân tích bộ phim Rashõmon
chuyển thể từ truyện ngắn của Akutagawa, tác giả Nguyễn Nam cho ta thấy: không
có cái gì mà không từng được nói, được viết, được đọc và sẽ tiếp tục được nói, được
viết, được sản sinh vô tận, tạo nên tính LVB của mọi VB. Tiếp cận LVB tác phẩm
điện ảnh chuyển thể từ văn học là một hướng tiếp cận thú vị và rất phổ biến ở
phương Tây. Hiện nay, ở Việt Nam, đã bắt đầu manh nha hướng nghiên cứu này
(đáng kể có tác giả Lê Thị Dương với bài Vấn đề chuyển thể văn học – điện ảnh từ
góc độ LVB, Nghiên cứu văn học số 1/2012). Nguyễn Nam cũng đánh giá cao
hướng nghiên cứu của tác giả Kiều Quang Huy “đưa Truyền kỳ mạn lục vào hệ
thống tiểu thuyết của hệ Tiễn đăng” nhằm giải phẫu đầy đủ toàn bộ ý nghĩa của tác
phẩm. Đây là hướng nghiên cứu kiến trúc văn bản (architextuality) theo quan niệm
của Genette. Hướng nghiên cứu này vốn đã có ở Việt Nam nhưng vẫn chưa được ý
thức đầy đủ như là hướng tiếp cận LVB.
Ngoài ra phải kể đến các bài viết của Lê Huy Bắc (Liên văn bản (intertext)
trong Đàn ghi ta của Lorca), Phan Huy Dũng (Đàn ghi ta của Lorca của Thanh
Thảo dưới góc nhìn liên văn bản) [81]. Phan Huy Dũng xem bài thơ của Thanh
Thảo như là một sự “trích dẫn” và “ám gợi tượng trưng” những VB thơ ca, cuộc
đời, số phận, lịch sử và văn hóa của thi sĩ Lorca – hình tượng nhân vật trung tâm
trong bài thơ. Lê Huy Bắc cũng như Phan Huy Dũng, nhận ra những hình ảnh, ngôn
từ ám gợi VB thơ Lorca và văn hóa – lịch sử Tây Ban Nha nhưng tác giả còn phát
hiện thêm những vỉa VB văn hóa khác có nguồn gốc phương Đông và Việt Nam. Lê
11
Huy Bắc nhấn mạnh LVB như là một cách đọc: “có bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu
sự hiểu biết của người đọc thì sẽ có bấy nhiêu tầng nghĩa được tái sinh trong VB”.
Tuy nhiên, nếu các tác giả chú ý thêm đến phương pháp phân tích LVB của
Riffaterre hay Bloom – những lí thuyết vốn được xây dựng trên cơ sở thực hành
phân tích thơ ca, thì có thể sẽ khám phá thêm những tầng nghĩa mới của văn bản.
Điều này cho thấy có những khoảng trống trong việc giới thiệu lí thuyết LVB ở
Việt Nam.
Trên đây là những cách hiểu và vận dụng khác nhau của giới nghiên cứu đối
với lí thuyết LVB. Chúng tôi còn muốn lưu ý đến những VB của các nhà khai sáng
thuyết LVB và những cách hiểu, biện giải về lí thuyết này đã được dịch ở Việt Nam
thời gian gần đây. Trước hết, có nhiều công trình của các nhà khai sáng thuyết LVB
đã được dịch ở Việt Nam. Đó là công trình Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của
Saussure, các công trình cơ bản của Bakhtin (Những vấn đề thi pháp Đốt-xtôi-épxki,
Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Sáng tác F.Rabelais và nền văn hóa dân gian trung
cổ và Phục hưng), các công trình của Barthes (Cái chết của tác giả, Từ tác phẩm
đến văn bản, Vương quốc ký hiệu), của Derrida (Về văn phạm học, Chữ ký – sự kiện
– bối cảnh), của Eco (Đi tìm sự thật biết cười)…Tuy vậy, ở Việt Nam, chúng vẫn
chỉ được xem như là những công trình thuần túy ngôn ngữ học, thi pháp học, lí
thuyết thể loại, ký hiệu học, triết học…mà chưa được nhận diện như là những công
trình đặt nền móng và phát triển lí thuyết LVB. Hơn nữa, rất nhiều công trình trực
tiếp đặt ra vấn đề tính LVB và ứng dụng nó trong nghiên cứu văn học vẫn chưa
được giới thiệu đến độc giả. Đó là công trình quan trọng hàng đầu của Kristeva –
Từ, Đối thoại và Tiểu thuyết – nơi thuật ngữ LVB lần đầu tiên xuất hiện. Các công
trình quan trọng khác của R.Barthes, M.Riffaterre, G.Genette, H.Bloom…có bàn
trực tiếp đến thuyết LVB cũng chưa được dịch tại Việt Nam. Chúng ta chỉ mới có
những bản dịch sau đây giới thiệu và phân tích một vài điểm lí thuyết LVB. Đó là
bản dịch của Ngân Xuyên bài nghiên cứu của tác giả người Nga – L.P. Rjanskaya,
Liên văn bản – sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lí thuyết của vấn đề
(Nghiên cứu văn học, số 11/2007). Bản dịch của Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân,
Lại Nguyên Ân mục từ Liên văn bản trong sách Các khái niệm và thuật ngữ của
các trường phái nghiên cứu văn học Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX. Ở đây, một lí
thuyết phương Tây đã được giới thiệu với bạn đọc Việt Nam thông qua nền học
thuật Nga. Đây là hai bản dịch có nhiều ảnh hưởng với những ai quan tâm đến vấn
đề tính LVB. Cũng cần phải kể thêm công trình đáng lưu ý của tác giả người Pháp –
Antoine Compagnon, Bản mệnh của lí thuyết do Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào
12
dịch. Trong công trình này, những luận điểm đang trở thành thời thượng được phân
tích, phê phán thấu đáo. Đó là các vấn đề gắn bó mật thiết với thuyết LVB như luận
đề về cái chết của tác giả, ảo tưởng quy chiếu và tính liên văn bản…Đây là công
trình dịch thuật có giá trị và có sức gợi mở rất lớn. Gần đây, xuất hiện thêm hai bản
dịch của Bửu Nam – Phạm Thị Anh Nga và Nguyễn Văn Thuấn (Một số vấn đề lí
thuyết văn học và ngôn ngữ học, Khoa Ngữ văn – Tập san dịch thuật, tr 7-53.
4/2011). Bản dịch của Bửu Nam – Phạm Thị Anh Nga có nhan đề Lí thuyết về tính
liên văn bản do tác giả người Pháp, Pierre – Marc de Biasi viết. Nội dung của bài
viết trình bày lịch sử lí thuyết LVB, từ lúc hình thành khái niệm đến những cách
tiếp cận đầu tiên trong những năm 1970 và những sự tái lập khái niệm từ những
năm 1980 đến nay. Một hệ thống có tính lịch sử như vậy rõ ràng là rất có ý nghĩa
đối với những ai bước đầu làm quen với lí thuyết. Bản dịch của Nguyễn Văn Thuấn
bài báo của Andrea Lesis – Thomas: Đằng sau Bakhtin: chủ nghĩa hình thức Nga
và thuyết liên văn bản của Kristeva. Bài viết này đề cập đến mối quan hệ và đóng
góp của các nhà hình thức luận Nga, Bakhtin và Kristeva đối với quá trình sinh
thành và sự triển nghĩa của thuyết LVB. Bài viết có cách nhìn nhận mới và thuyết
phục khi khẳng định những đóng góp không thể chối cãi của chủ nghĩa hình thức
Nga với tư cách là những người tiên phong, đặt nền móng cho lí thuyết LVB.
Từ gợi ý của Andrea Lesis – Thomas, chúng tôi đã tiến hành khảo sát những
văn bản của các nhà Hình thức luận Nga được dịch ở Việt Nam và phát hiện ra
nhiều quan điểm của họ có liên quan sâu đậm đến lí thuyết liên văn bản, thậm chí ở
một góc độ nào đó, chính những nhà thực hành trẻ người Nga những năm đầu thế kỉ
XX có thể được xem như những nhà khai sáng và thực hành liên văn bản. Họ cùng
thống nhất trong một niềm tin chung: thủ pháp, thể loại, hình tượng văn học đồng
thời là chất liệu văn học, nghệ thuật có quan hệ với hệ thống nghệ thuật và đây là
những hệ thống mở. Eikhenbaum kết luận: “Tác phẩm nghệ thuật không phải được
tri giác như một sự kiện cô lập mà hình thức của nó được cảm nhận trong mối liên
hệ với những tác phẩm khác chứ không phải ở bản thân nó” [172, tr103]. Còn
Tynianov thì viết: “từ vựng của một tác phẩm có quan hệ tương tác cùng lúc, một
mặt, với từ vựng văn học và từ vựng ngôn ngữ nói chung, mặt khác, với yếu tố khác
của chính tác phẩm đó” [168, tr132]. Những nhận định như vậy, về sau, người ta sẽ
thấy nó âm vọng trong thuật ngữ mới của Kristeva: tính liên văn bản.
Lí thuyết liên văn bản trong tính đương đại của nó không thể tách rời với vấn
đề nghĩa và ý nghĩa của văn bản trong hoạt động tiếp nhận của người đọc. Ở Việt
Nam, người dành nhiều tâm sức nghiên cứu những vấn đề phức tạp trên đây là
13
Trương Đăng Dung. Trong các công trình như Tác phẩm văn học như là quá trình
(NXB KHXH, Hà Nội, 2004), Khoa học văn học hiện đại – hậu hiện đại (Nghiên
cứu văn học, số 8/2011), Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại (Nghiên
cứu văn học, số 1/2012), xuất phát từ cái nhìn hệ thống về ngôn ngữ học và triết học
ngôn ngữ, Trương Đăng Dung đã đề cập đến một vài khía cạnh và nguồn gốc của lí
thuyết LVB. Theo ông, triết học ngôn ngữ đã có cái nhìn mới về bản chất của ngôn
ngữ. Cụ thể, M. Heidegger đã gọi ngôn ngữ là ngôi nhà của Hữu thể. Theo đó, ngôn
ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp mà cao hơn thế, nó có khả năng tạo lập một đời
sống mới của riêng nó [xem 34, tr229-310]. Đến H. G. Gadamer, học trò của
Heidegger thì lời nói không thuộc về chúng ta mà thuộc về các tình huống của Hữu
thể nơi lời nói hình thành và điều muốn nói được tạo ra. Gadamer tuyên bố: nghĩa
của một văn bản văn học không thể hiện trong chủ ý của tác giả mà nó nảy sinh
trong quá trình các văn bản văn học đi từ tình thế văn hóa – lịch sử này đến tình thế
văn hóa – lịch sử khác. Gadamer còn nhấn mạnh tính đối thoại giữa quá khứ và hiện
tại khi người đọc giải thích một tác phẩm xa xưa, vì lúc đó tầm đón đợi của người
đọc quá khứ “dung hòa” nhau. Tức là không còn người diễn giải chủ quan và nghĩa
văn bản khách quan, chỉ còn là khối thống nhất liên chủ thể tồn tại cùng một lúc.
Gadamer đã đặt lại vấn đề liên chủ thể, một vấn đề trọng yếu trong tư tưởng
Bakhtin, có liên quan mật thiết với tính LVB. Tiếp đó, trong bài báo gần đây nhất,
Trương Đăng Dung đã bàn đến tư tưởng của J. Derrida về tri thức và ngôn ngữ.
Theo phân tích của ông, Derrida đã nêu lên một quan niệm khác một cách cơ bản so
với quan điểm của E. Husserl về vấn đề nghĩa và sự tạo nghĩa nơi văn bản văn học.
Derrida cho rằng các kí hiệu không thông báo mà chỉ mang lại khung khổ cho việc
tạo ra nghĩa của văn bản, ý nghĩa của văn bản được hình thành qua việc cá nhân
người đọc đem những cái biểu đạt (CBĐ) đã đối chứng quan hệ với những CBĐ
khác. CBĐ này dẫn đến CBĐ khác, VB này dẫn đến VB khác, không ổn định và
luôn thay đổi. Văn bản văn học luôn cần được sự bổ sung và tạo khả năng bổ sung,
nên việc đọc một văn bản văn học cũng tạo nghĩa như việc viết nó ra [37, tr10].
Như thế, tiếp nhận, diễn giải văn bản, tất yếu đưa văn bản vào không gian liên văn
bản, nơi đó nghĩa không ổn định, không xác quyết mà luôn chao đảo miên man giữa
những nghĩa có thể có…Những phân tích của Trương Đăng Dung vẽ ra một viễn
cảnh mới trong nghiên cứu vấn đề tính liên văn bản – liên văn bản như một sự đọc.
Tuy nhiên, vấn đề mà ông nêu ra vẫn còn để ngỏ, chờ đợi những nghiên cứu chuyên
sâu hơn.
Thực tiễn nghiên cứu lí thuyết LVB ở Việt Nam cho thấy nó vẫn chưa nhận
được nhiều sự quan tâm. Việc giới thiệu lí thuyết này có phần thiếu đồng bộ, chưa
14
- Xem thêm -