Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Liên minh giữa công nhân và tri thức ở tỉnh nam định trong thời kỳ hội nhập...

Tài liệu Liên minh giữa công nhân và tri thức ở tỉnh nam định trong thời kỳ hội nhập

.PDF
92
8
82

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  PHAN THỊ DIỄM LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN VỚI NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC Ở TỈNH NAM ĐỊNH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  PHAN THỊ DIỄM LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN VỚI NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC Ở TỈNH NAM ĐỊNH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 85 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH HÀ NỘI - 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Đức Bách. Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2010. Tác giả luận văn Phan Thị Diễm MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức” [26, tr.23] là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo cả trong giai đoạn giành chính quyền và trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này đã được các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học luận chứng và thực tiễn cách mạng thế giới (Công xã Pari 1871, cách mạng Tháng Mười Nga 1917…), Việt Nam chứng minh. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhờ vận dụng sáng tạo lý luận liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam mà Đảng ta đã xây dựng được liên minh một cách vững chắc và nhờ liên minh này mà cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền thuộc về tay nhân dân lao động, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, nước nhà thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đã gặt hái được những thành tựu lớn. Đặc biệt là từ khi đổi mới (năm 1986), chúng ta đã đạt được những thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, trong đối ngoại và hợp tác quốc tế: Việt Nam gia nhập khối ASEAN, APEC, WTO và là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc… Việt Nam đã dần khẳng định được vị thế, vai trò của mình trên trường quốc tế. Với những thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và những năm đầu đổi mới, nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp, tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, do đó bên cạnh những thuận lợi chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Điều này đòi hỏi khách quan phải tăng cường liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức; mặt khác, do điều kiện kinh tế - xã hội nước ta sau 20 năm đổi mới đã có nhiều thay đổi, đặt ra nhiều vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết cần giải quyết nhằm tăng cường liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Để có những chính sách và giải pháp đúng đắn cần phải nghiên cứu thực trạng liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương cụ thể, để góp phần vào giải quyết vấn đề này trước hết là ở Nam Định, tôi lựa chọn đề tài: “Liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định trong thời kỳ hội nhập” làm luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta trong những năm gần đây, đã có một số công trình, bài viết của các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu đề cập đến vấn đề liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức như: - PGS, TS. Nguyễn Đức Bách chủ nhiệm đề tài cấp Bộ năm 1999 - 2000: Những căn cứ lý luận và thực tiễn cấp thiết để thực hiện tốt liên minh công - nông trí thức ở nước ta hiện nay, Hà Nội, 2000. Trong đề tài này, các tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện liên minh công nông trí thức ở nước ta qua tư liệu đồng bằng sông Hồng. - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: Những bài giáo dục chính trị cơ bản trong công nhân lao động, NXB. Lao động, Hà Nội, 1998. Trong công trình này, các tác giả đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của liên minh công - nông - trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá và đưa ra những nội dung cơ bản của liên minh này trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB Lao động, Hà Nội, 1999. Trong tài liệu này, các tác giả nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn của các quan hệ chính trị - xã hội; vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; hoạt động của Công đoàn đối với việc tăng cường quan hệ chính trị - xã hội của các giai cấp, tầng lớp và phát huy vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân. TS. Nguyễn Quang Du: Tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2 - 2002. Trong bài viết này tác giả đã nêu lên thực trạng của liên minh công nhân nông dân - trí thức, từ đó đưa ra một số giải pháp để tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. - Trang Web: WWW. Google.com.vn, bài: Xây dựng liên minh công, nông và trí thức trong cách mạng Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu quá trình thực hiện liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức của Đảng ta trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và khẳng định trong thời kỳ này Đảng ta xây dựng khối liên minh trên cơ sở nhận thức và giải quyết sớm các vấn đề như: sớm nhận thức được ví trí của các giai cấp trong liên minh; giải quyết kịp thời quyền lợi thiết thân của công nhân, nông dân, trí thức; xác định đúng các mối quan hệ trong quá trình cách mạng, từ đó tác giả đi vào nghiên cứu liên minh trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra bước phát triển mới của liên minh và vai trò của công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa củng cố liên minh giữa công nhân nông dân và trí thức như thế nào, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong xây dựng và củng cố liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. - PGS, TS. Phan Thanh Khôi (chủ biên): Hoạt động khuyến nông Việt Nam. Ý nghĩa chính trị- xã hội, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006. Tác giả đã tiếp cận vấn đề liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức qua việc nghiên cứu hoạt động và vai trò của tổ chức Khuyến nông Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của tổ chức khuyến nông, coi tổ chức này như là cấu nối giữa người nông dân và trí thức, nông dân với công nhân và ngược lại, thông qua các lĩnh vực mà các giai tầng tham gia như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học công nghệ, giáo dục. Tác giả đã đưa ra một số mô hình liên minh giữa công nhân nông dân và trí thức hiện nay. - TS. Phạm Công Nhất, PGS, TS. Phan Thanh Khôi (đồng chủ biên): Một số chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, tập III, chuyên đề 3. Trong chuyên đề này tác giả tiếp cận và làm sáng tỏ về mặt lý luận về liên minh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đưa ra quan niệm về liên minh, vị trí, vai trò của liên minh; tính tất yếu và nội dung của liên minh trong thời kỳ quá độ; khái quát quá trình thực hiện liên minh, khẳng định quan điểm của Đảng ta về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức là động lực chủ yếu để phát triển đất nước hiện nay, từ đó, đưa ra một số phương hướng cơ bản nhằm tăng cường khối liên minh ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở nước ta hiện nay cần phải nghiên cứu thêm cả về mặt lý luận và thực tiễn; nghiên cứu trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, đánh giá cho đúng thực trạng để có cơ sở để bổ sung chính sách, giải pháp nhằm tăng cường khối liên minh này. Ở tỉnh Nam Định, đã có nhiều đề tài, bài viết phản ánh đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên về liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức còn là đề tài bỏ ngỏ, do vậy, tôi lựa chon vấn đề liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định làm đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài * Mục đích: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giữa công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác, kết hợp với khảo sát, làm rõ thực trạng liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường khối liên minh, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ hội nhập, công nghiêp hoá, hiên đại hóa, chủ yếu là của tỉnh Nam Định những năm tới. * Nhiệm vụ của đề tài: + Tìm hiểu những quan điểm của C.Mác-Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giữa công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng. + Khảo sát và phân tích thực tiễn việc tiến hành liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở Nam Định gắn với thực trạng liên minh này ở nước ta hiện nay. + Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tăng cường liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những cơ sở khoa học có giá trị của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Phạm vi khách thể nghiên cứu của đề tài là liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định và trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay. 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: * Nguồn tài liệu: + Những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp và liên minh giai cấp. + Những văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài. + Các bài viết, đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học. + Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Nam Định, niên giám thống kê tỉnh Nam Định. * Phương pháp nghiên cứu của đề tài: + Phương pháp lịch sử - logic + Phân tích tổng hợp + Khảo sát thực tế 6. Đóng góp của luận văn * Về mặt lý luận: góp phần làm rõ hơn việc nhận thức khoa học về liên minh công nhân - nông dân - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước. * Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến nhận thức và hoạch định chính sách, giải pháp đối với quá trình tăng cường liên minh công nông - trí thức, trước hết ở Nam Định và có thể tham khảo trên phạm vi cả nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương, 8 tiết: Chương 1: Cơ sở khoa học và thực tiễn của liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Chương 2: Thực trạng liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định trong những năm gần đây. Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức ở tỉnh Nam Định. Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN VỚI NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về liên minh giữa công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa 1.1.1. Khái lược về các quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen Liên minh giữa công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác đã được C.Mác, Ph. Ăngghen vào những năm 40 của thế kỷ XIX khi nghiên cứu và luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân về cách mạng vô sản các ông đã đề cập đến. Sau cuộc cách mạng 1848- 1852 ở Pháp và ở Đức, đặc biệt là sau Công xã Pari 1871, C. Mác, Ph. Ăngghen trong các tác phẩm như: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Ngày Mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapac”, “Nội chiến ở Pháp”, “Vấn đề của nông dân ở Pháp và Đức”… đã chú ý tới việc xây dựng khối liên minh công - nông và các tầng lớp lao động, coi đây là nhân tố quan trọng, quyết định cho sự thành bại của cách mạng vô sản. C. Mác đã chỉ rõ: “Công nhân Pháp không thể tiến thêm một bước nào và cũng không thể đụng tới một sợi tóc nào của chế độ tư sản trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản chưa nổi dậy chống lại sự thống trị của tư sản, chưa bị tiến trình cách mạng buộc phải đi theo những người vô sản như là đi theo đội tiên phong của mình” [51, tr.26-27]. Theo C. Mác, giai cấp công nhân nếu không liên minh được với giai cấp nông dân thì sẽ không hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, vì cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn thành công ngoài vai trò lãnh đạo của công nhân thông qua đảng của nó còn cần lực lượng cách mạng tạo nên sức mạnh to lớn; và nếu công - nông liên minh với nhau nhưng lại không thực hiện liên minh với các tầng lớp lao động khác, đặc biệt là trí thức thì giai cấp công nhân cũng không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, cách mạng vô sản trở thành bài ca ai điếu. Thực tế lịch sử đã chứng minh, bất kỳ một giai cấp thống trị nào, bất kỳ một xã hội có giai cấp nào cũng cần đến đội ngũ trí thức và giai cấp công nhân để xóa bỏ được chế độ tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản cũng phải liên minh với trí thức vì “Sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân cần phải có những bác sỹ, kỹ sư, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy quản lý không phải bộ máy chính trị mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần đến nhiều kiến thức vững chắc” [50, tr.613-614] của người trí thức. Như vậy, ngay từ khi phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C. Mác, Ph. Ăngghen cũng hết sức quan tâm đến các lực lượng đồng minh, đặc biệt là nông dân và các tầng lớp lao động khác, coi đây là điều kiện tiên quyết cho việc giành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân. 1.1.2. Khái lược về các quan điểm của V.I.Lênin Tiếp thu, vận dụng và phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về liên minh, V.I Lênin trong một loạt tác phẩm như: “Nhà nước và cách mạng”, “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết”, Đại hội VIII toàn Nga, “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”, “Bàn về chế độ hợp tác”… đã rút ra kết luận: Ở những nước nông nghiệp, trong đấu tranh cách mạng, giai cấp nào lôi kéo được quần chúng, đặc biệt là nông dân, thì giai cấp đó sẽ giành được thắng lợi và V.I.Lênin phát triển khẩu hiệu của C. Mác “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại” thành khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”; coi liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức là cơ sở vững chắc của chuyên chính vô sản: “Chuyên chính vô sản là hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với những tầng lớp lao động không phải là vô sản (tiêu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức…) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội” [46, tr.452]. Theo V.I.Lênin liên minh không chỉ trong thời kỳ giành chính quyền mà cả trong thời kỳ cải tạo và xây dựng xã hội mới. Việc giành chính quyền đã khó, việc bảo vệ, xây dựng xã hội mới còn khó khăn hơn, “Chỉ khi nào nước ta đã điện khí hóa, chỉ khi nào công nghiệp, nông nghiệp và vận tải đã đứng vững trên cơ sở kỹ thuật của đại công nghiệp hiện đại, thì lúc đó, chúng ta mới có thể đạt được thắng lợi hoàn toàn” [48, tr.195]. Để có được nền đại công nghiệp hiện đại thì giai cấp công nhân cần liên minh với trí thức, “sự hợp tác của các đại biểu khoa học và công nhân, chỉ có sự hợp tác như thế mới có thể thủ tiêu được toàn bộ nạn nghèo khổ, bệnh tật và bẩn thỉu… Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được” [47, tr.218]. Có thể nói, xuất phát từ yêu cầu xây dựng lực lượng cách mạng, từ yêu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội, từ vai trò, vị trí của nông dân, trí thức trong lĩnh vực kinh tế, cũng như về mặt xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, coi đây là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. 1.2. Một số quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về liên minh công - nông - trí thức Thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm quan tâm đến vế đề nông dân và liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, một trong những vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản và là nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản. 1.2.1. Một số quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về liên minh công nông - trí thức trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Khi còn ở nước ngoài, với tư cách là một chiến sỹ hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế (tham gia Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế Cộng sản…), Người đã đánh giá đúng đắn lực lượng cách mạng và khả năng cách mạng vô cùng to lớn của quần chúng lao động các nước thuộc địa, nửa thuộc địa và phụ thuộc, mà tuyệt đại đa số là nông dân. Người đã đặc biệt nhấn mạnh luận điểm của V.I.Lênin về mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vô sản ở các nước đế quốc với phong trào giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc của các nước thuộc địa, Người khẳng định vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản, không có sự tham gia của quần chúng lao động các nước thuộc địa và phụ thuộc thì cách mạng thế giới không thể thành công. Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến với khoảng 90% là nông dân. Công nhân và nông dân hợp thành bộ phận đông đảo nhất, bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, do đó có đầy đủ cơ sở để liên minh với nhau đề chống lại kẻ thù chung của họ là đế quốc, phong kiến và tay sai. Hồ Chí Minh đã nhận định, nông dân nước ta là “bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân”, “công nông là người chủ cách mạng”. Người chỉ rõ: phải “thực hiện cho được liên minh công- nông vì đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công- nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội” [8, tr.302]. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhấn mạnh: Chủ nghĩa Mác-Lênin đã giúp ta thấy rõ rằng trong điều kiện một đất nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, và chính quyên nhân dân thực chất là chính quyền của công - nông. Muốn xác lập quyền lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta, Đảng ta phải xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với đông đảo nhân dân lao động. Trong “Sách lược vắn tắt” của Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu rõ “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo”, trong “Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam” (2/1951) xác định: Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là nhân dân bao gồm có công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, rồi đến những thân sĩ, địa chủ yêu nước và tiến bộ. Nền tảng của nhân dân là công - nông và lao động trí óc. Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng chỉ ra nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta là đánh đuổi đế quốc, lật đổ phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, rồi tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy, các văn bản của Đảng và của Người, đã thể hiện đầy đủ nội dung dân tộc dân chủ của phong trào cách mạng ở nước ta và phù hợp với nguyện vọng thiết tha của nhân dân ta trong đó đại đa số là nhân dân lao động. Chính trên cơ sở đó mà quyền lãnh đạo cách mạng của Đảng ta không ngừng được củng cố và tăng cường. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tuỳ theo tình hình cụ thể, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối giai cấp đúng đắn, lập ra các tổ chức thích hợp để tập hợp và đoàn kết chặt chẽ nông dân và các tầng lớp khác như: lập ra nông hội, hội văn hoá cứu quốc, các đoàn thể thanh niên, phụ nữ… Những nguyên tắc của liên minh công - nông và các tầng lớp lao động được Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng sáng tạo: trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, liên minh về chính trị và quân sự giữa công nhân với nông dân và trí thức là quan trọng nhất, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo cách mạng của Đảng, nhằm giành chính quyền và bảo vệ được chính quyền cách mạng; đồng thời Đảng ta luôn củng cố liên minh kinh tế. Để phát huy lực lượng cách mạng vĩ đại của nông dân trong kháng chiến kiến quốc, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những biện pháp cụ thể nhằm bồi dưỡng lực lượng nông dân, đặc biệt để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ; giữa nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo từng bước cương lĩnh ruộng đất. 1.2.2. Một số quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về liên minh công nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam * Liên minh công - nông - trí thức thời kỳ 1954 - 1969 Trong giai đoạn này Hồ Chí Minh vừa có những quan điểm cơ bản, vừa trực tiếp lãnh đạo thực hiện liên minh công - nông - trí thức. Hồ Chí Minh đã khẳng định Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước dân chủ dựa trên nền tảng liên minh công - nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo” [39,tr.264]. Đảng ta xác định nông dân ở nước ra “là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Cho nên, Đảng ta đã kịp thời đề ra đường lối, chính sách mới phù hợp với những nhiệm vụ của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ và xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm không ngừng củng cố khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội ở nước ta chủ yếu là cuộc đấu tranh đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh đó, công cuộc cải tạo và phát triển nền nông nghiệp có vị trí hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh nói: Ở miền Bắc nước ta, nông nghiệp chiếm một bộ phận lớn trong nền kinh tế, mà sản xuất nhỏ lại chiếm bộ phận lớn trong nông nghiệp. Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lượng thực và nguyên liệu, đồng thời là một nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải cải tạo và phát triển nông thôn thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, phải cải tạo và phát triển nông thôn để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà. Căn cứ vào tình hình cụ thể của cách mạng và đặc điểm của giai cấp nông dân, Hồ Chi Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối, chính sách, những hình thức tổ chức, những biện pháp thích hợp để thực hiện hợp tác hoá nông nghiệp khi chưa có nền công nghiệp phát triển, thực hiện hợp tác hoá đi đối với thuỷ lợi hoá và cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở tự nguyện của nông dân, Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ chức đổi công tiến lên hợp tác xã cấp thấp… rồi tiến lên hợp tác xã cấp cao- từng bước đưa nông dân lên chủ nghĩa xã hội cùng giai cấp công nhân xây dựng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, đó là mục tiêu cảu liên minh trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhấn mạnh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì liên minh về kinh tế nổi lên hàng đầu. Lúc này nội dung liên minh là phải đẩy mạnh việc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, làm cho nông nghiệp thực sự trở thành cơ sở để phát triển công nghiệp, Người nói “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân, cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè…) cho nhà máy. Cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay…) để xuất khẩu đổi lấy máy móc. Công nghiệp phải phát triển để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hoá học, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là, thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân” [37, tr.544-545]. Nhưng để có thể đảm bảo cho công nhân và nông dân phát triển thì theo Hồ Chí Minh còn cần có một yếu tố rất quan trọng là người trí thức: “Cách mạng cũng cần có trí thức… thí dụ: cần có thầy thuốc để săn sóc sức khoẻ cho nhân dân; cần có thầy giáo để dạy văn hoá và đào tạo cán bộ; cần có kỹ sư để xây dựng kinh tế… Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lao động tró óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí thức cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối” [36, tr.214-215], “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân. Những người trí thức của chúng ta đã đóng góp một phần xứng đáng trong kháng chiến. Họ đã được Đảng luôn luôn giúp đỡ để tiến bộ. Cho nên họ đi theo chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân đoàn kết chặt chẽ với trí thức để giúp học phục vụ cách mạng, phục vụ chủ nghĩa xã hội” [38, tr.165]. Như vậy, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá rất cao vai trò của trí thức trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Trí thức công nông hoá, trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần. Tiến lên xã hội chủ nghĩa cũng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần” [7, tr.472]. * Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thực hiện liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ nước ta đổi mới, hội nhập quốc tế Hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới ở Việt Nam được tiến hành song song với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực sự được đẩy mạnh từ năm 1995 với việc xúc tiến gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Năm 2007 Việt Nam được công nhận là thành viên của tổ chức này. Việc gia nhập tổ chức WTO vừa đem lại những cơ hội thuận lợi (như sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế; tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển, sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới, tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới; Việt Nam có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới của nước ngoài; nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra mội trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam…), vừa gặp những thách thức, bởi lẽ Việt Nam còn là một trong những nước nghèo với mức GDP đạt gần 1000 USD/người/năm, hệ thống chính sách kinh tế - xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý… có sự chênh lệch lớn so với các nước phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải thực thi đầy đủ các cam kết của mình, đặc biệt là các cam kết trong một số lĩnh vực như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đảm bảo thương mại công bằng, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch động thực vật và hàng rào kỹ thuật thương mại… nên việc thực thi sẽ rất khó khăn. Điều này không chỉ yêu cầu Việt Nam phải thông qua các luật lệ, quy định phù hợp với WTO và nền kinh tế thị trường, mà còn đòi hỏi tình hình thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu của WTO. Cụ thể, Việt Nam phải nâng cao đáng kể năng lực cho các cơ quan có liên quan cũng như thay đổi cơ bản về quản lý và tổ chức, đầu tư đáng kể cho nguồn nhân lực, hợp lý hóa công tác tổ chức thương mại và phân bổ ngân sách. Nếu không, sẽ phát sinh hai vấn đề: thứ nhất, Việt Nam không thể thực hiện các nghĩa vụ WTO của mình; thứ hai là Việt Nam không thể tận dụng được hết các cơ hội khi gia nhập WTO, từ đó sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng, có thể gây tổn hại cho nền kinh tế. Để tranh thủ được thời cơ thuận lợi, vượt qua thách thức cần phải có sự đoàn kết, sự đồng thuận của toàn dân tộc mà nòng cốt là khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức - nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ghi rõ: “Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [27, tr.116]. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, thì tính tất yếu của liên minh có yêu cầu mới: Về chính trị, sự tồn tại của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức còn lâu dài, cho dù vẫn luôn có sự biến động về số lượng, chất lượng trong nội bộ từng giai cấp, từng tầng lớp; có sự giao thoa, chuyển hoá lẫn nhau giữa các giai tầng đó thì con đường phát triển hợp quy luật tiến hoá ngày nay là hiện đại, văn minh, dân chủ, công bằng cũng vẫn là lý tưởng và ước mơ của công nhân, nông dân, trí thức. Định hướng xã hội chủ nghĩa là điểm tương đồng của cả công nhân, nông dân, trí thức. Đó là điều kiện khách quan và là cơ sở tư tưởng quan trọng nhất cho liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong thời kỳ mới. Về mặt kinh tế, nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến, để trở thành một nước công nghiệp, đi lên chủ nghĩa xã hội thì buộc phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp to lớn đòi hỏi một trình độ nhất định, phải có sự ổn định về chính trị xã hội, có tích luỹ vốn; xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân có đủ số lượng và chất lượng đảm bảo cho việc tổ chức, triển khai và thực hiện thành công những chủ trương, biện pháp xây dựng và phát triển kinh tế. Cơ cấu đội ngũ này phải đồng bộ, bao gồm cán bộ khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ kinh tế, cán bộ các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật… Những cán bộ này phải giỏi về chuyên môn, trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối. Do vậy, mỗi giai cấp, tầng lớp muốn tồn tại, phát triển, không bị phụ thuộc vào nước khác thì không còn con đường nào khác là phải chủ động tăng cường hợp tác quốc tế để tự hiện đại hoá mình. Hiện đại hoá công nghiệp mà công nhân là đại biểu quyết đinh, kéo theo hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mà giai cấp nông dân là đại biểu. Ngày nay, khi mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàm lượng trí tuệ đã và đang chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp vừa là môi trường hành nghề vừa là môi trường dung dưỡng sự tồn tại và phát triển của trí thức. Cái tất yếu gắn bó về kinh tế này là cơ sở vật chất cho sự liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Về mặt xã hội: Theo quy luật của kinh tế thị trường “mạnh được yếu thua”, trên phạm vi quốc gia và quốc tế… đòi hỏi công nhân, nông dân, trí thức phải cố kết với nhau, thực sự là nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì mới đảm bảo được sự phát triển của công nhân, nông dân, trí thức và của cả dân tộc ta theo mục tiêu mà Đảng đã đề ra. Thực tế cho thấy, giai cấp công nhân dù là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng sản xuất và lực lượng cách mạng tiên phong và triệt để nhất nhưng nếu hoạt động đơn độc trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì không có đủ sức mạnh và trí tuệ; giai cấp nông dân dù là lực lượng đông đảo nhất có khả năng cách mạng to lớn, chiếm đại đa số dân cư nhưng do đặc điểm của họ là gắn với sản xuất lạc hậu, tư tưởng lại phụ thuộc vào giai cấp thống trị xã hội, cho nên nếu giai cấp nông dân không thực hiện liên minh với giai cấp công nhân thì không thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu; đội ngũ trí thức tuy có vai trò quan trọng trong mọi xã hội nhưng lịch sử cho thấy, trí thức chưa bao giờ tự mình giải phóng triệt để cho mình được… Do vậy cả công nhân với nông dân và trí thức phải liên minh chặt chẽ với nhau thì mới hoàn thành được mục tiêu cách mạng đã đề ra. Mặt khác, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội trong khối đại đoàn kết dân tộc. Để phát huy tính năng động, sáng tạo của công nhân, nông dân và trí thức Đảng ta đã đưa ra “Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương koá X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, “Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” và “Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã đề ra những phương hướng cụ thể là: Đối với giai cấp công nhân: Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang có những phát triển mới. Đội ngũ đó bao gồm, những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp. Hiện nay, theo thống kê, giai cấp công nhân nước ra có trên 9,5 triệu người, chiếm 14% dân số, 28% lực lượng lao động xã hội, sản xuất ra khối lượng sản phẩm chiếm khoảng 70% thu nhập quốc dân và đóng góp 65% tổng thu ngân sách. Do vậy, “sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết đảm bảo
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan