Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Lich su dang bo tinh Hai Duong

.DOCX
18
286
55

Mô tả:

Ngày 10 tháng 6 năm 1940, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Liên Tỉnh uỷ B (gồm các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Kiến An và Quảng Yên) đã tổ chức thành lập Ban Tỉnh uỷ Lâm thời tỉnh Hải Dương tại thôn Tạ Xá, xã Hợp Tiến, huyện Nam Sách. Đây là một sự kiện chính trị quan trọng không chỉ trong đời sống chính trị của Hải Dương mà còn là sự kiện có ý nghĩa to lớn về sự phát triển của Đảng ta trong tiến trình vận động, lãnh đạo cách mạng Việt Nam . Việc thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Hải Dương, đánh dấu mốc lịch sử ra đời của Đảng bộ Hải Dương. Ngược dòng thời gian, trong quá khứ lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta, Xứ Đông - Hải Dương luôn là mặt trận nóng bỏng; đồng thời cũng là địa danh ghi đậm dấu ấn chiến công oanh liệt của dân tộc, là nơi gắn bó với sự nghiệp và chiến tích anh hùng của các danh nhân vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam. Vì vậy mà ngay từ giai đoạn vận động cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vào Việt Nam để chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (3-2-1930), ở Hải Dương đã có lớp thanh niên giác ngộ sớm nên đã tham gia hoạt động cách mạng, tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Lương Bằng (xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện). Đồng chí đã tham gia tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên của Nguyễn Ái Quốc và được huấn luyện. Từ năm 1927, Nguyễn Lương Bằng đã cùng với một số hội viên của Việt Nam Cách mạng Thanh niên như Nguyễn Văn Cừ (sau này là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam), Nguyễn Văn Ngọ, Nguyễn Văn Lịch, Nguyễn Hới, Trần Cung...đã về Hải Dương thực hiện vô sản hoá, thâm nhập vào thợ thuyền, dân cày để tuyên truyền, vận động cách mạng, gây dựng lực lượng nòng cốt, thành lập các chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tổ chức quần chúng công nhân, nông dân đấu tranh chống ách áp bức tàn bạo, đòi quyền dân sinh, dân chủ.Tài liệu “Đường Kách Mệnh” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã được lưu hành ở Thanh Hà (Hải Dương) ngay từ năm ấy; Nhiều cơ sở cách mạng đã hình thành ở mỏ than Mạo Khê, Tràng Bạch (Đông Triều), Thượng Cốc (Gia Lộc), Đọ Xá (Chí Linh), phố Cựu Thành (thành phố Hải Dương), Thanh Hồng (Thanh Hà)...ở những nơi này đã thành lập được chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Công hội đỏ...Từ đây, phong trào tiếp tục phát triển sang các huyện Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo (thời kỳ này huyện Đông Triều, Vĩnh Bảo thuộc tỉnh Hải Dương). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chưa đầy một tháng, Hải Dương đã có hai Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ là Chi bộ mỏ than Mạo Khê, do đồng chí Nguyễn Văn Cừ thành lập và Chi bộ Đọ Xá ( xã Hoàng Tân, huyện Chí Linh) do đồng chí Trần Cung thành lập. Hải Dương cũng là địa chỉ ra đời một trong những tờ báo Đảng sớm nhất. Đó là vào cuối năm 1932, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã vượt ngục Hoả Lò về ấp Dọn ( huyện Bình Giang) hoạt động và ra báo “Công Nông” để tuyên truyền vận động quần chúng công nông làm cách mạng vô sản. Mùa hè năm 1936, nhằm phối hợp với cuộc đấu tranh của Mặt trận Bình dân Pháp chống nguy cơ của chủ nghĩa phát xit, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương để tập hợp mọi lực lượng cho cuộc đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, đòi dân sinh, dân chủ, hoà bình. Phong trào cách mạng ở Hải Dương lại tiếp tục phát triển. Nhiều tổ chức của Mặt trận Dân chủ được thành lập ở thị xã Hải Dương, các huyện Ninh Giang, Thanh Hà, Nam Sách, Thanh Miện, Chí Linh, Kim Thành, Cẩm Giàng, Vĩnh Bảo... Cuối năm 1937, đồng chí Lê Thanh Nghị được Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ cử về Hải Dương hoạt động. Đồng chí đã chủ trì cuộc họp thống nhất phong trào Mặt trận Dân chủ trong phạm vi toàn tỉnh. Tháng 8-1938, đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định cho thành lập ba Chi bộ Đảng Cộng sản: Chi bộ thị xã Hải Dương, Chi bộ Nhà máy nước Ninh Giang, Chi bộ Cổ Am (huyện Vĩnh Bảo). Từ đây, cuộc đấu tranh của nhân dân trong tỉnh đã được tiếp thêm sức mạnh mới. Sách báo công khai của Đảng, của các đoàn thể Dân chủ như tờ “Tin tức”, “Dân chúng”,“Đời nay”...được truyền bá rộng. Công nhân, nông dân Đảng bộ tỉnh Hải Dương qua các kỳ Đại hội Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã trải qua 15 kỳ đại hội và nay đang chuẩn bị bước vào Đại hội lần thứ XVI. Mỗi kỳ Đại hội là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ và nhân dân Hải Dương trên con đường xây dựng quê hương giàu mạnh, văn minh 1. Đảng bộ tỉnh Hải Dương thời kỳ từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ V (1946 - 1967) Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mang lại nền độc lập cho dân tộc ta sau gần thế kỷ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Trong suốt 5 kỳ Đại hội, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ nền độc lập non trẻ của nước nhà. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ nhất được tiến hành vào tháng 61946 tại xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng. Dự Đại hội có 80 đại biểu, đại diện cho 250 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 05 đồng chí uỷ viên chính thức, 02 đồng chí uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Kha được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đến tháng 11 năm 1946, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh họp bầu bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lên 11 đồng chí; đồng chí Đặng Tính được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ II được tiến hành vào tháng 4-1947 tại xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện. Dự Đại hội có 150 đại biểu, đại diện cho trên 1.300 đảng viên ở các đảng bộ trong toàn tỉnh. Đại hội đã bầu ra 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, đồng chí Vũ Duy Hiệu được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ III được tiến hành vào tháng 21948 tại xã Đông Xuyên huyện Ninh Giang, Đại hội đang tiến hành thì địch càn tới nên phải chuyển sang Đan Giáp (Thanh Miện). Dự Đại hội có l50 đại biểu chính thức, 10 đại biểu dự khuyết đại diện cho trên 3.500 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 13 đồng chí uỷ viên chính thức. Đồng chí Vũ Duy Hiệu được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Sau Đại hội III, do điều kiện kháng chiến diễn ra rất ác liệt, Đảng bộ tỉnh không có điều kiện triệu tập Đại hội. Trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến, một số đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh được Khu uỷ Khu Tả Ngạn và Trung ương điều đi công tác nơi khác, một số đồng chí tỉnh uỷ viên anh dũng hy sinh, do vậy hàng năm Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh chỉ được bổ sung. Trong thời kỳ này, các đồng chí: Đặng Tính, Nguyễn Năng Hách, Võ Thanh Hoà, Nguyễn Ngọc Sơn, Lương Quang Chất, Lê Đức Thịnh, Dương Quang Thuỳ (tức Trần Tạo) lần lượt được cử giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ IV diễn ra 2 vòng: Vòng 1 từ ngày 21-6 đến ngày 2-7-1960, tại Hội trường tỉnh (nay là Nhà văn hoá Trung tâm tỉnh), với trên 200 đại biểu về dự Đại hội. Vòng 2 từ ngày 23-2 đến ngày 3-3-l961 cũng tại Hội trường tỉnh. Dự Đại hội có 242 đại biểu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 27 đồng chí uỷ viên chính thức và 8 đồng chí uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Chương được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ V tiến hành từ ngày 24-4 đến ngày 28-4-1963 tại thị xã Hải Dương. Về dự Đại hội có 320 đại biểu chính thức. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá V gồm 27 đồng chí uỷ viên chính thức và 4 đồng chí uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Chương được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. 2. Đảng bộ tỉnh Hải Hưng thời kỳ từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ VII (1968 - 1996) Nhằm xây dựng hậu phương lớn ở miền Bắc phục vụ cho chiến tuyến lớn ở miền Nam. Năm 1968, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định sáp nhập một số tỉnh ở miền Bắc, trong đó có sáp nhập hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Theo đó, hai Đảng bộ Hải Dương và Hưng Yên sáp nhập thành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng. Tháng 2-1968, Ban Chấp hành Đảng bộ Hải Hưng đã họp tại huyện Ân Thi nhất trí với Nghị quyết Bộ Chính trị về cơ cấu Ban Chấp hành Tỉnh uỷ Hải Hưng gồm 46 đồng chí. Đồng chí Lê Quý Quỳnh (Bí thư Tỉnh uỷ Hưng Yên) được Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định giữ cương vị Bí thư Tỉnh uỷ Hải Hưng từ 01/3/1968. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ I tiến hành từ ngày 24-3 đến ngày 14-1975 tại thị xã Hải Dương, với sự tham dự của 450 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 7 vạn đảng viên của toàn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 33 đồng chí uỷ. Đồng chí Ngô Duy Đông được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ II tiến hành năm 1976 đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 38 đồng chí. Đồng chí Ngô Duy Đông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ III tiến hành năm 1979 đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 43 đồng chí. Đồng chí Ngô Duy Đông tiếp tục được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ IV tiến hành năm 1983 đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 45 đồng chí. Đồng chí Ngô Duy Đông tiếp tục được Đảng bộ tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ V tiến hành vào tháng 10 năm 1986. Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 43 đồng chí . Đồng chí Lê Đức Bình được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VI diễn ra 2 vòng. Vòng I từ ngày 28-3 đến 30-3-1991, tại thị xã Hải Dương với 450 đại biểu chính thức. Vòng II từ 15-8 đến 17-8-1991 tại thị xã Hải Dương. Về dự Đại hội có 403 đồng chí là đại biểu đại diện cho hơn 12 vạn đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành khoá VI. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII diễn ra từ ngày 6-5 đến 9-5-1996 tại thị xã Hải Dương với sự tham dự của 350 đại biểu đại diện cho hơn 12 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 49 đồng chí. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. 3. Đảng bộ tỉnh Hải Dương từ Đại hội lần thứ XII đến đại hội XV (1997 2010) Căn cứ vào tỉnh hình chung của cả nước và đặc điểm của tỉnh Hải Hưng, ngày 611-1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá IX đã quyết định việc tái lập hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Từ tháng 1-1997, tỉnh Hải Hưng tách ra thành tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên, đồng thời Đảng bộ tỉnh Hải Hưng cũng được tách ra thành hai Đảng bộ tỉnh Hải Dương và Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Sau khi được chia tách, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ định Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Hải Dương (gồm 30 đồng chí) để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII (5- l996) và thực hiện nhiệm vụ năm 1997. Đồng chí Phạm Văn Thọ được Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định giữ chức vụ Bí thư Tỉnh uỷ Hải Dương. Tháng 10-1997, Trung ương Đảng chỉ định đồng chí Nguyễn Đức Kiên làm Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương từ tháng 11-1997 thay đồng chí Phạm Văn Thọ nhận nhiệm vụ mới. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XII diễn ra từ ngày 16-11 đến 1811-1997 tại thành phố Hải Dương. Về dự Đại hội gồm có 249 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 7 vạn đảng viên trong đảng bộ tỉnh. Đại hội đã bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành. Đồng chí Nguyễn Đức Kiên được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hải Dương và giữ chức đến tháng 10-1999. Thay thế cho đồng chí Nguyễn Đức Kiên là đồng chí NguyễnVăn Chiền. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII diễn ra từ ngày 15-12 đến 1712-2000 tại thành phố Hải Dương. Về dự Đại hội có 350 đại biểu đại diện cho gần 8 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII. Đồng chí Nguyễn Văn Chiền được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đến tháng 9-2002, Bộ Chính trị đã điều động đồng chí Nguyễn Văn Chiền về Trung ương công tác và cử đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ tài chính giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hải Dương. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIV diễn ra từ ngày 16 đến 18 tháng 12 năm 2005 tại thành phố Hải Dương. Về dự Đại hội gồm có 299 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 8 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu 49 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đồng chí Bùi Thanh Quyến được bầu giữ chức Bí Thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XV diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 9 năm 2010 tại thành phố Hải Dương. Dự Đại hội có 315 đồng chí đại diện cho đảng viên của 16 Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy. Đại hội đã bầu 55 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đồng chí Bùi Thanh Quyến tiếp tục được Đảng bộ tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy. ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI 21 Tháng 10 2015 lúc 23:31 Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã trải qua 15 kỳ đại hội và nay đang chuẩn bị bước vào Đại hội lần thứ XVI. Mỗi kỳ Đại hội là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ và nhân dân Hải Dương trên con đường xây dựng quê hương giàu mạnh, văn minh 1. Đảng bộ tỉnh Hải Dương thời kỳ từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ V (1946 - 1967). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mang lại nền độc lập cho dân tộc ta sau gần thế kỷ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Trong suốt 5 kỳ Đại hội, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ nền độc lập non trẻ của nước nhà. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ nhất được tiến hành vào tháng 61946 tại xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng. Dự Đại hội có 80 đại biểu, đại diện cho 250 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 05 đồng chí uỷ viên chính thức, 02 đồng chí uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Kha được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đến tháng 11 năm 1946, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh họp bầu bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lên 11 đồng chí; đồng chí Đặng Tính được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ II được tiến hành vào tháng 4-1947 tại xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện. Dự Đại hội có 150 đại biểu, đại diện cho trên 1.300 đảng viên ở các đảng bộ trong toàn tỉnh. Đại hội đã bầu ra 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, đồng chí Vũ Duy Hiệu được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ III được tiến hành vào tháng 21948 tại xã Đông Xuyên huyện Ninh Giang, Đại hội đang tiến hành thì địch càn tới nên phải chuyển sang Đan Giáp (Thanh Miện). Dự Đại hội có l50 đại biểu chính thức, 10 đại biểu dự khuyết đại diện cho trên 3.500 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 13 đồng chí uỷ viên chính thức. Đồng chí Vũ Duy Hiệu được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Sau Đại hội III, do điều kiện kháng chiến diễn ra rất ác liệt, Đảng bộ tỉnh không có điều kiện triệu tập Đại hội. Trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến, một số đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh được Khu uỷ Khu Tả Ngạn và Trung ương điều đi công tác nơi khác, một số đồng chí tỉnh uỷ viên anh dũng hy sinh, do vậy hàng năm Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh chỉ được bổ sung. Trong thời kỳ này, các đồng chí: Đặng Tính, Nguyễn Năng Hách, Võ Thanh Hoà, Nguyễn Ngọc Sơn, Lương Quang Chất, Lê Đức Thịnh, Dương Quang Thuỳ (tức Trần Tạo) lần lượt được cử giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ IV diễn ra 2 vòng: Vòng 1 từ ngày 21-6 đến ngày 2-7-1960, tại Hội trường tỉnh (nay là Nhà văn hoá Trung tâm tỉnh), với trên 200 đại biểu về dự Đại hội. Vòng 2 từ ngày 23-2 đến ngày 3-3-l961 cũng tại Hội trường tỉnh. Dự Đại hội có 242 đại biểu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 27 đồng chí uỷ viên chính thức và 8 đồng chí uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Chương được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ V tiến hành từ ngày 24-4 đến ngày 28-4-1963 tại thị xã Hải Dương. Về dự Đại hội có 320 đại biểu chính thức. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá V gồm 27 đồng chí uỷ viên chính thức và 4 đồng chí uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Chương được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. 2. Đảng bộ tỉnh Hải Hưng thời kỳ từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ VII (1968 - 1996) Nhằm xây dựng hậu phương lớn ở miền Bắc phục vụ cho chiến tuyến lớn ở miền Nam. Năm 1968, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định sáp nhập một số tỉnh ở miền Bắc, trong đó có sáp nhập hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Theo đó, hai Đảng bộ Hải Dương và Hưng Yên sáp nhập thành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng. Tháng 2-1968, Ban Chấp hành Đảng bộ Hải Hưng đã họp tại huyện Ân Thi nhất trí với Nghị quyết Bộ Chính trị về cơ cấu Ban Chấp hành Tỉnh uỷ Hải Hưng gồm 46 đồng chí. Đồng chí Lê Quý Quỳnh (Bí thư Tỉnh uỷ Hưng Yên) được Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định giữ cương vị Bí thư Tỉnh uỷ Hải Hưng từ 01/3/1968. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ I tiến hành từ ngày 24-3 đến ngày 14-1975 tại thị xã Hải Dương, với sự tham dự của 450 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 7 vạn đảng viên của toàn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 33 đồng chí uỷ. Đồng chí Ngô Duy Đông được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ II tiến hành năm 1976 đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 38 đồng chí. Đồng chí Ngô Duy Đông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ III tiến hành năm 1979 đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 43 đồng chí. Đồng chí Ngô Duy Đông tiếp tục được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ IV tiến hành năm 1983 đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 45 đồng chí. Đồng chí Ngô Duy Đông tiếp tục được Đảng bộ tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ V tiến hành vào tháng 10 năm 1986. Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 43 đồng chí . Đồng chí Lê Đức Bình được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VI diễn ra 2 vòng. Vòng I từ ngày 28-3 đến 30-3-1991, tại thị xã Hải Dương với 450 đại biểu chính thức. Vòng II từ 15-8 đến 17-8-1991 tại thị xã Hải Dương. Về dự Đại hội có 403 đồng chí là đại biểu đại diện cho hơn 12 vạn đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành khoá VI. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII diễn ra từ ngày 6-5 đến 9-5-1996 tại thị xã Hải Dương với sự tham dự của 350 đại biểu đại diện cho hơn 12 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 49 đồng chí. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ. 3. Đảng bộ tỉnh Hải Dương từ Đại hội lần thứ XII đến đại hội XV (1997 2010) Căn cứ vào tỉnh hình chung của cả nước và đặc điểm của tỉnh Hải Hưng, ngày 611-1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá IX đã quyết định việc tái lập hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Từ tháng 1-1997, tỉnh Hải Hưng tách ra thành tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên, đồng thời Đảng bộ tỉnh Hải Hưng cũng được tách ra thành hai Đảng bộ tỉnh Hải Dương và Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Sau khi được chia tách, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ định Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Hải Dương (gồm 30 đồng chí) để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII (5- l996) và thực hiện nhiệm vụ năm 1997. Đồng chí Phạm Văn Thọ được Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định giữ chức vụ Bí thư Tỉnh uỷ Hải Dương. Tháng 10-1997, Trung ương Đảng chỉ định đồng chí Nguyễn Đức Kiên làm Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương từ tháng 11-1997 thay đồng chí Phạm Văn Thọ nhận nhiệm vụ mới. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XII diễn ra từ ngày 16-11 đến 1811-1997 tại thành phố Hải Dương. Về dự Đại hội gồm có 249 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 7 vạn đảng viên trong đảng bộ tỉnh. Đại hội đã bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành. Đồng chí Nguyễn Đức Kiên được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hải Dương và giữ chức đến tháng 10-1999. Thay thế cho đồng chí Nguyễn Đức Kiên là đồng chí NguyễnVăn Chiền. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII diễn ra từ ngày 15-12 đến 1712-2000 tại thành phố Hải Dương. Về dự Đại hội có 350 đại biểu đại diện cho gần 8 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII. Đồng chí Nguyễn Văn Chiền được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đến tháng 9-2002, Bộ Chính trị đã điều động đồng chí Nguyễn Văn Chiền về Trung ương công tác và cử đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ tài chính giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hải Dương. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIV diễn ra từ ngày 16 đến 18 tháng 12 năm 2005 tại thành phố Hải Dương. Về dự Đại hội gồm có 299 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 8 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu 49 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đồng chí Bùi Thanh Quyến được bầu giữ chức Bí Thư Tỉnh uỷ. - Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XV diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 9 năm 2010 tại thành phố Hải Dương. Dự Đại hội có 315 đồng chí đại diện cho đảng viên của 16 Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy. Đại hội đã bầu 55 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đồng chí Bùi Thanh Quyến tiếp tục được Đảng bộ tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy. ======================== 75 năm Ngày thành lập Đảngbộ tỉnh Hải Dương (10/6/1940 - 10/6/2015) Cuốinhững năm 20 của thế kỷ XX, một số thành viên của tổ chức Việt Nam cách mạngthanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng, như các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, NguyễnVăn Ngọ, Nguyễn Hới, Trần Cung... đã về Hải Dương truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyên truyền vận động cách mạng, xây dựng tổ chức và lãnh đạo công nhân,nông dân đấu tranh chống áp bức, đòi quyền dân sinh, dân chủ. Nhiều nơi, cơ sởcách mạng đã được hình thành như: Mỏ than Mạo Khê (Đông Triều), Thượng Cốc (GiaLộc), Đọ Xá (Chí Linh), phố Cựu Thành (thành phố Hải Dương)… và những nơi nàyđã thành lập được các tổ chức chi hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Từ đâyphong trào tiếp tục phát triển sang các huyện Thanh Hà, Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo[1]... Trong2 năm 1928 - 1929, dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân trong tỉnh đã liên tiếp nổ ra,tiêu biểu như cuộc đấu tranh của công nhân mỏ than Mạo Khê[2],nhà máy rượu Hải Dương, cuộc đấu tranh của nông dân Thanh Hà, Vĩnh Bảo, Tứ Kỳ... Phongtrào vận động cách mạng giai đoạn này tuy chưa phát triển rộng khắp ở tỉnh nhà,nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin,giác ngộ quần chúng cách mạng, chuẩn bị cơ sở chính trị xã hội cho việc thànhlập các tổ chức Đảng sau này. Ngày3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đưa dân tộc ta bước sang một trang sửmới, thời kỳ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Mácxít, đấu tranh có mục tiêu,đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn. Ngaysau khi Đảng ta ra đời, hai chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Hải Dương đã đượcthành lập: Chi bộ mỏ than Mạo Khê, do đồng chí Nguyễn Văn Cừ tổ chức và chi bộĐọ Xá (Chí Linh) do đồng chí Trần Cung tổ chức. Đượcsự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ, các chi bộ đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền vậnđộng quần chúng, gây dựng cơ sở cách mạng, kịp thời kêu gọi nhân dân đấu tranh,hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Chi bộ Đọ Xá (Chí Linh) đã rải truyềnđơn và treo cờ búa liềm ở chợ Chi Ngãi. Chi bộ mỏ than Mạo Khê treo cờ búa liềmtrên cột điện, vận động công nhân đấu tranh. Từsau cuộc khởi nghĩa Xô Viết -Nghệ Tĩnh, kẻ thù ra sức khủng bố, đàn áp phongtrào cách mạng, hàng nghìn cán bộ của Đảng đã bị chúng bắt, tra tấn, tù đày,hãm hại. Phong trào cách mạng trong nước tạm thời lắng xuống. ỞHải Dương, cuối năm 1932, đồng chí Nguyễn Lương Bằng (quê Thanh Tùng, ThanhMiện), một cán bộ cách mạng của Đảng, đã vượt ngục Hoả Lò (Hà Nội) về ấp Dọn(Bình Giang) hoạt động. Tại đây, đồng chí đã viết và phát hành báo “Công nông”để tuyên truyền, vận động quần chúng, phát triển cơ sở cách mạng. Mặc dù kẻ thùđàn áp và tiêu diệt nhưng ngọn lửa cách mạng đã được Đảng ta thắp sáng vẫn đangâm ỉ trong lòng quần chúng, chỉ chờ thời cơ sẽ lại bùng lên mãnh liệt. Mùahè năm 1936, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và để phối hợp với cuộc đấutranh của Mặt trận bình dân Pháp, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trungương Đảng đã họp và đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới, thành lập Mặt trận dân chủĐông Dương, nhằm tập trung mọi lực lượng trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dânchủ, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Từ đây,phong trào cách mạng ở tỉnh ta lại được phục hồi phát triển. Nhiều tổ chức dân chủđã được thành lập ở thị xã Hải Dương, Ninh Giang, Thanh Hà, Thanh Miện, NamSách, Chí Linh, Kim Thành, Cẩm Giàng, Vĩnh Bảo... Năm 1937, đồng chí Lê ThanhNghị (quê Thượng Cốc, Gia Lộc) được Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ cử về Hải Dươngxây dựng cơ sở cách mạng, đã chủ trì cuộc họp thống nhất phong trào thanh niêndân chủ trên phạm vi toàn tỉnh. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào dân chủ, tháng8/1938, với tư cách là Xứ uỷ viên Bắc Kỳ, đồng chí Hoàng Văn thụ đã về HảiDương kiểm tra, chỉ đạo phong trào vàcông nhận việc thành lập 3 chi bộ Đảng, bao gồm: Chi bộ nhà máy nước Ninh Giang,chi bộ thị xã Hải Dương, chi bộ xã Cổ Am (Vĩnh Bảo). Saukhi các chi bộ được thành lập, phong trào cách mạng ở các địa phương được tiếpthêm sức mạnh mới. Sách báo công khai của Đảng, của các đoàn thể dân chủ như“Tin tức”, “Dân chúng”, “Đời nay”...được truyền bá rộng rãi, kêu goi công nhân,nông dân rầm rộ xuống đường đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánhđập, chống sưu cao thuế nặng, chống cường hào áp bức... tiêu biểu như cuộc đấutranh của công nhân nhà máy Rượu, Sở Lục Lộ Hải Dương, nhà máy Nước Ninh Giang,mỏ than Mạo Khê, nhà thương Hải Dương..; của nông dân Thanh Hà, Vĩnh Bảo...;của học sinh, trí thức đòi tự do lập hội... Cáccuộc đấu tranh trên, bước đầu, đã đem lại một số quyền lợi thiết thực cho quầnchúng, nhưng ý nghĩa quan trọng là nó góp phần tích cực bồi dưỡng tinh thầncách mạng, sự giác ngộ về chính trị và củng cố lòng tin của nhân dân vào tiềnđồ cách mạng. Tháng9/1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Chính phủ Pháp đã phản bội nhân dânPháp và đi theo con đường phát xít. Ở Đông Dương, chính quyền thực dân cũngthẳng tay đàn áp cách mạng. Các tổ chức Đảng, đoàn thể, các hội yêu nước... bịsăn lùng ráo riết, hàng loạt cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị địchbắt, tù đày, sát hại. Trước tình hình trên, hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI(11/1939) đã quyết định chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với tình hình mới,đặt vấn đề giải phóng dân tộc thành nhiệm vụ khẩn cấp trước mắt, thành lập Mặttrận phản đế và chuyển trung tâm hoạt động về nông thôn. Thựchiện chủ trương của Trung ương, Liên Tỉnh ủy B (gồm các tỉnh Hải Dương, HưngYên, Kiến An, Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai) được thành lập và chọn Tạ Xá (HợpTiến, Nam Sách) làm trung tâm hoạt động. Tháng 5/1940, chi bộ Tạ Xá (Nam Sách),chi bộ Trại Chua, Hàm Ếch (Chí Linh) được thành lập. Nhiều nơi trong tỉnh đãhình thành tổ chức phản đế và hoạt động tích cực như ở Nam Sách, Thanh Hà, KimThành, Chí Linh, thị xã Hải Dương... Trướcsự phát triển mạnh mẽ và rộng khắp của phong trào cách mạng, đòi hỏi phải có sựlãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất trong toàn tỉnh, được sự đồng ý của Xứuỷ Bắc Kỳ và Liên Tỉnh ủy B, ngày 10/6/1940, Đảng bộ tỉnh Hải Dương với BanTỉnh uỷ lâm thời được thành lập (tại nhà cụ Lê Thị Thạnh, thôn Tạ Xá, xã HợpTiến, Nam Sách), gồm 3 đồng chí: Nguyễn Mạnh Hoan, Chu Thị Kim Sơn, Nguyễn TấnPhúc, do đồng chí Nguyễn Mạnh Hoan làm Bí thư. Ngày10/6/1940 đã đi vào lịch sử của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương là một sựkiện chính trị trọng đại, đánh dấu một mốc mới trên con đường đấu tranh cùng cảnước vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dướisự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương và Xứ uỷ, ngay sau khi thành lập, Đảng bộđã tăng cường xây dựng lực lượng, giác ngộ quần chúng, chuẩn bị cùng cả nướctiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 17/8/1945 trong khí thế cáchmạng sục sôi, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh nổi dậy giành chính quyềnthắng lợi, đập tan xích xiềng nô lệ của chế độ thực dân, phong kiến, thành lậpchính quyền cách mạng ở các cấp. Chínhquyền cách mạng vừa mới ra đời đã phải đương đầu với những thử thách cực kỳnghiêm trọng, đối mặt với sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc ngoài. Dướisự lãnh đạo của Trung ương, từ 8/1945-12/1946, dựa vào sức mạnh của khối đạiđoàn kết toàn dân, Đảng bộ Hải Dương đã vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạtcác chủ trương, đường lối của Đảng, tranh thủ thời gian, tích cực củng cố, xâydựng lực lượng mọi mặt, quyết tâm bảo vệ chính quyền mới được thành lập, giữvững thành quả cách mạng. Ngày 26/4/1946 - ngày bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnhvà cấp xã khoá đầu tiên ở Hải Dương đã thắng lợi, góp phần xây dựng chính quyềncách mạng của dân, do dân, vì dân. Saumột thời gian chuẩn bị, đầu tháng 6/1946, Đại hội Đảng bộ Hải Dương lần thứnhất với 80 đại biểu đại diện cho 250 đảng viên toàn tỉnh được tiến hành. Tháng12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, Đảng bộvà nhân dân Hải Dương lại bước vào vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thựcdân Pháp. Với trên 13 ngàn trận đánh lớn nhỏ, quân và dân Hải Dương đã tiêu diệt,bắt sống và gọi hàng gần chục vạn tên địch, thu hàng nghìn súng các loại, pháhuỷ hàng trăm đầu tàu, toa xe, xe cơ giới, ca nô, tàu chiến, thu hồi hàng tấnquân trang, quân dụng làm nên “Tiếng sấm đường 5” anh hùng, góp phần cùng cảnước đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắnglợi, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh lại cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dâncả nước tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ miền Bắc XHCN, giảiphóng miền Nam khỏi ách xâm lược của đế quốc Mỹ. Từtháng 01/1968, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và quyết định của Uỷ banthường vụ Quốc hội, tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên hợp nhất thành tỉnh HảiHưng, Đảng bộ tỉnh Hải Dương hợp nhất với Đảng bộ tỉnh Hưng Yên thành Đảng bộtỉnh Hải Hưng. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ,Đảng bộ tỉnh Hải Hưng đã đưa quân và dân trong tỉnh vượt qua mọi hy sinh, giankhổ, làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Con em HảiDương đã lên đường vào Nam chiến đấu, đồng thời quân và dân Hải Dương đã phốihợp cùng bộ đội chủ lực tham gia chiến đấu 2.630 trận, bắn rơi 83 máy bay Mỹ,trong đó có 13 chiếc do lực lượng vũ trang tỉnh bắn rơi, bắt sống hàng chụcgiặc lái, góp phần tích cực đập tan cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc củakhông quân Mỹ, cùng cả nước đi tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóngmiền Nam, thống nhất đất nước. Tổng kết 2cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tỉnh Hải Dương có gần 40 nghìn liệt sỹ,trên 14.000 thương binh, gần 9.000 bệnh binh, hơn 4.000 người là nạn nhân củachất độc da cam Dioxin. Thời kỳ bảo vệ Tổ quốc (1976- 2000), Hải Dương có 2.384liệt sỹ, 1.275 thương binh. Toàn tỉnh có 1.645 bà mẹ được Nhà nước phong, truy tặngdanh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương, Đảng bộvà nhân dân 12/12 huyện, thành phố, thị xã, và 64 xã, phường, thị trấn của tỉnhđã được Đảng và Nhà nước tuyên dương đơn vị anh hùng, 34 cá nhân được truy tặngvà phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Saunăm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân tỉnhnhà bước vào thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chấtcho CNXH và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Tháng1/1997, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trịvà quyết định của Quốc Hội, tỉnh Hải Dương và Đảng bộ tỉnh Hải Dương được táilập. Trảiqua 75 năm, kể từ ngày thành lập, với 15 kỳ Đại hội (trong đó có 7 kỳ Đại hộicủa Đảng bộ tỉnh hợp nhất Hải Hưng), Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã không ngừng pháttriển, trưởng thành. Đến hết tháng 4/2015, toàn Đảng bộ đã có 99.935 đảng viênsinh hoạt ở 786 chi, Đảng bộ cơ sở thuộc 12 Đảng bộ huyện, thị ủy, thành ủy và4 Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy. Pháthuy truyền thống vẻ vang, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã lãnh đạo nhân dân trongtỉnh phát huy sức mạnh đại đoàn kết, triển khai thắng lợi sự nghiệp đổi mới doĐảng ta khởi xướng và lãnh đạo, thu được thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực.Kinh tế liên tục phát triển. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) giai đoạn2011 - 2015 tăng bình quân 7,2%/năm, cao hơn bình quân cả nước. Năm 2015, quymô kinh tế tỉnh (GRDP giá hiện hành) đạt 74.550 tỷ đồng, gấp 1,83 lần năm 2010;GRDP bình quân đầu người đạt 42 triệu đồng, tương đương 1.950 USD. Cơ cấu kinhtế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp tăng nhanh. Tỷ trọng nông, lâmnghiệp, thủy sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ chuyển dịch từ 20,6% - 46,3%- 33,1% năm 2010 sang 15,6% - 52,3% - 32,1% năm 2015. Cơ cấu lao động tương ứng chuyển dịch mạnh, từ 47,9%- 31,4% - 20,7% năm 2010 sang 36,5% - 35,0% - 28,5% năm 2015. Triển khai và đạtkết quả bước đầu chủ trương tái cơ cấu kinh tế, nhất là tái cơ cấu hệ thốngngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu đầu tư công. Tỷ trọng huy độngvốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng từ 68,4% năm 2010 lên 72,1% năm 2015. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷtrọng giá trị sản xuất chăn nuôi - thuỷ sản, giảm tỷ trọng giá trị sản xuấttrồng trọt - lâm nghiệp. Tỷ trọng giá trị chăn nuôi - thủy sản tăng từ 36% năm2010 lên 41,7% năm 2015. Giá trị chăn nuôi chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trongngành nông nghiệp, tăng từ 28,9% năm 2010 lên 33,4% năm 2015. Tỷ trọng nuôitrồng thủy sản tăng từ 10,1% năm 2010 lên 12,5% năm 2015. Tổngthu ngân sách nhà nước trên địa bàn trong 5 năm đạt 67.174 tỷ đồng, trong đóthu ngânsách nội địa đạt 27.488 tỷ đồng (bình quân đạt 5.497 tỷ đồng/năm), tăng bình quân 7,1%/năm. Tổng chicân đối ngân sách tăng bình quân 4,8%/năm. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch theohướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo. Một số ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh phát triển khá, giá trị sản xuấttăng bình quân 10,4%/năm, từng bước trở thành nhóm ngành công nghiệp chủ lựccủa tỉnh. Công nghiệp cơ khí - điện tử tăng bình quân 11,1%/năm, công nghiệpsản xuất vật liệu xây dựng tăng bình quân 8,3%/năm, công nghiệp may giày tăngbình quân 7,7%/năm, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm tăng bình quân13,3%/năm. Tiểu thủcông nghiệp và làng nghề phát triển ổn định, giá trị sản xuất tăng bình quân6,1%/năm. Toàn tỉnh có 65 làng nghề, đã công nhận danh hiệu nghệ nhân làng nghềcho 24 người, bình chọn công nhận 92 sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu. Quy hoạch,phát triển 18 KCN, trong đó có 10 KCN đã được đầu tư hạ tầng và đi vào hoạtđộng, thu hút nhiều dự án đầu tư có quy mô khá, tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt60%; quy hoạch 36 cụm công nghiệp với tổng diện tích 1.403 ha, thu hút 301 dựán đầu tư với diện tích thuê đất 601 ha. Phong tràoxây dựng nông thôn mới đã được sự quan tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị,tạo được sự đồng thuận của nhân dân. Bằng nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợvà các biện pháp triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả, đến hết năm 2014, toàntỉnh đã có 13 xã đạt tiêu chí nông thôn mới. Kết cấu hạ tầng ở khu vực nôngthôn được chú trọng đầu tư, làm cho diện mạo nông thôn thay đổi rõ rệt. Xâydựng, cải tạo, nâng cấp 2.350 km đường giao thông nông thôn; đến nay 92,5%đường xã và liên xã, 91,7% đường thôn, 88,6% đường xóm đạt chuẩn nông thôn mới.Mạng lưới cấp nước sạch được đầu tư xây lắp tới 100% các xã. Tỷ lệ hộ dân nôngthôn được sử dụng nước sạch đạt gần 85%.Công tác dồn điền đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng, quy hoạch vùng sảnxuất hàng hóa tập trung được quan tâm thực hiện. Các loại hình tổ chức sản xuấtphát triển tương đối đa dạng, hiệu quả ngày càng được nâng lên. Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người cócông với nước được chú trọng, 100% số Bà mẹ Việt Nam anh hùngcòn sống được phụng dưỡng. Tỉnh đã hoàn thành xoá nhàtranh tre cho các đối tượng gia đình thương binh, liệt sỹ, người nghèo. Công tác bảo tồn, phát huy disản văn hóa được chú trọng, khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc đã được công nhậnxếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt, 02 lễ hội được công nhận di sản văn hóa phivật thể quốc gia. Sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục ngày càng phát triển. Sự nghiệpvăn hóa, thể thao ngày càng phát triển, toàn tỉnh có 85% số gia đìnhvăn hoá, 75,8% số làng, khu dân cư văn hóa, 85% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩnvăn hoá. Các thiết chế văn hoá, thể dục thể thao ở cơ sở được quan tâmđầu tư xây dựng. 94,2% số xã và 97% số thôn có nhà văn hóa. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duytrì và có bước phát triển, thể thao thành tích cao giữ vững thứ hạng trong tốpđầu cả nước. Đời sốngnhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao. Toàn tỉnh không còn hộ đói. Trên 99% số hộ có nhà xây mái ngói, 100% số hộ có điệnsinh hoạt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 10,99% năm2010 xuống còn 3,27% năm 2015, bình quân mỗi năm giảm 1,5%. Tỷ lệ trẻ em dưới 1tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 99%. Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinhdưỡng giảm từ 16,6% năm 2010 xuống còn 12,2% năm 2015. Tỷ lệ người dân có thẻbảo hiểm y tế tăng từ 58,0% năm 2010 lên 75,1% vào năm 2015. Số bác sĩ/vạn dântừ 6 bác sĩ năm 2010, tăng lên 7,9 bác sĩ năm 2015. Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩlàm việc từ 64,2% năm 2010 tăng lên 80% vào năm 2015. Số giường bệnh trên 1 vạndân năm 2015 đạt 30,4 giường bệnh (tính cả giường trạm y tế xã). Cơ sở vật chất trường, lớp học được quan tâm đầu tư theohướng chuẩn hóa. Đến nay, toàn tỉnh có 448 trường học đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷlệ 48,4%, tăng 140 trường so với năm 2010. Đã chuyển đổi 100% các trường THPTvà trường mầm non bán công sang công lập. Mạng lưới hệ thống các trường đạihọc, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh được duy trì, tích cựcmở rộng ngành nghề và hợp tác đào tạo, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đượcnâng lên. An ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, công tácxây dựng Đảng được tăng cường, bình quân hằng năm có trên 70% tổ chức cơ sở đảng đạtdanh hiệu trong sạch vững mạnh, từ năm 2013 đến nay tỉnh Hải Dương không còn cơsở đảng yếu kém. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng vàchất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên. Tổ chức cơ sở đảng ngày càng khẳngđịnh rõ hơn vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở, đưa đường lối, chínhsách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Công tác kết nạp đảngviên được quan tâm, bình quân mỗi năm kết nạp trên 2.600 đảng viên, vượt chỉtiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra. Đời sống nhân dân tiếptục được cải thiện và từng bước được nâng lên, thu nhập bình quân đầu người ướcđạt 31 triệu đồng/năm. Kỷ niệm 75 nămngày thành lập Đảng bộ tỉnh Hải Dương, Đảng bộ và nhân dân Hải Dương tiếp tục phát huy truyền thống văn hiến,cách mạng, kiên định với lý tưởng vàcon đường lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dânta đã lựa chọn, không ngừng tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăngcường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng và hệ thống chính trịtrong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát huy và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xãhội dân chủ, công bằng, văn minh. [1] Thờigian này huyện Vĩnh Bảo thuộc tỉnh Hải Dương. [2] Thờigian này huyện Mạo Khê thuộc tỉnh Hải Dương. Người Chí Linh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan