Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lễ hội kỳ phúc ở làng phú khê xã hoằng phú huyện hoằng hóa tỉnh thanh hóa...

Tài liệu Lễ hội kỳ phúc ở làng phú khê xã hoằng phú huyện hoằng hóa tỉnh thanh hóa

.PDF
54
674
119

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC PHẠM THỊ THUYẾT LỄ HỘI KỲ PHÚC Ở LÀNG PHÚ KHÊ - XÃ HOẰNG PHÚ - HUYỆN HOẰNG HÓA - TỈNH THANH HÓA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC PHẠM THỊ THUYẾT LỄ HỘI KỲ PHÚC Ở LÀNG PHÚ KHÊ - XÃ HOẰNG PHÚ - HUYỆN HOẰNG HÓA - TỈNH THANH HÓA CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: ThS. Phí Thị Toan SƠN LA, NĂM 2013 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này tôi xin trân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.S Phí Thị Toan - giảng viên hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Đồng thời tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong tổ lịch sử Việt Nam - Trường Đại Học Tây Bắc, các bạn sinh viên trong tập thể lớp K50 ĐHSP Lịch Sử đã động viên giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này. Xin gửi lời cảm ơn tới bác Lê Xuân Quyền, bác Trần Duy Phương, các ban ngành, tổ chức văn hóa huyện Hoằng Hóa đã giúp đỡ cung cấp tài liệu giúp tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin trân thành cảm ơn Sơn La, tháng 5 năm 2013 Tác giả Phạm Thị Thuyết MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 2 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .............................................. 3 3.1. Mục đích .................................................................................................... 3 3.2. Đối tượng ................................................................................................... 3 3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................................. 3 4. Đóng góp của khóa luận ............................................................................... 3 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 3 6. Bố cục của khóa luận.................................................................................... 4 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÀNG PHÚ KHÊ - XÃ HOẰNG PHÚ - HUYỆN HOẰNG HÓA - TỈNH THANH HÓA............................................... 5 1.1. Vị trí địa lý - tài nguyên thiên nhiên ......................................................... 5 1.1.1. Vị trí địa lý .............................................................................................. 5 1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên ........................................................................... 5 1.2. Kinh tế ........................................................................................................ 7 1.3. Văn hóa - xã hội ....................................................................................... 13 CHƯƠNG 2. ĐÌNH LÀNG PHÚ KHÊ ......................................................... 16 2.1 Khái quát về Làng Phú Khê..................................................................... 16 2.2 Tổng quan về đình làng Phú Khê ............................................................ 17 2.2.1. Lịch sử hình thành và tôn tạo .............................................................. 18 2.2.2. Kiến trúc ............................................................................................... 19 2.2.3. Di vật ..................................................................................................... 21 CHƯƠNG 3. LỄ HỘI “KỲ PHÚC” .............................................................. 24 3.1. Vài nét khái quát về hai vị Thành Hoàng .............................................. 24 3.1.1. Hai vị Thành Hoàng trong truyền thuyết và dân gian. ...................... 24 3.1.2. Các sắc phong ....................................................................................... 27 3.2. Không gian lễ hội ..................................................................................... 28 3.2.1. Phần lễ ................................................................................................... 29 3.2.2. Phần hội ................................................................................................ 38 3.3. Nhận xét tín ngưỡng phong tục lễ hội “Kỳ Phúc” thờ cúng hai vị Thành Hoàng ................................................................................................. 39 3.4. Ý nghĩa của lễ hội “Kỳ Phúc” ................................................................. 40 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 45 PHỤ LỤC ẢNH MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thanh Hóa là tỉnh nằm trải dài theo đường cong hình chữ S. Vùng đất này từ lâu đã được biết đến với tên gọi khá ấn tượng “đất Thanh đất học”, là vùng đất tuy khá khô cằn nhưng nơi đây đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt. Có thể nói đây là vùng đất “địa danh nhân kiệt” của nước ta. Không chỉ thế, Thanh Hóa còn được biết đến là vùng đất với nét văn hóa độc đáo lưu giữ nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hằng năm cứ mỗi độ xuân về nhân dân trong tỉnh lại nô nức đón mừng các lễ hội truyền thống của quê hương. Đây cũng chính là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân xứ Thanh. Lễ hội là đối tượng quan trọng của nền văn hóa dân tộc, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người, đồng thời phản ánh rõ nét nhất sinh hoạt tín ngưỡng của người dân đất Việt. Vì vậy, từ lâu lễ hội không chỉ trở thành đối tượng nghiên cứu của các văn hóa, các nhà dân tộc học mà còn là đối tượng nghiên cứu của các nhà sử học. Với những lí lẽ trên, việc lựa chọn vấn đề “lễ hội Kỳ Phúc ở làng Phú Khê - xã Hoằng Phú - huyện Hoằng Hóa - tỉnh Thanh Hóa” làm khóa luận tốt nghiệp tôi mang theo nhiều băn khoăn trăn trở. Bởi lẽ: Lễ hội là đối tượng quan trọng của sử học, có thể coi lễ hội là nguồn tư liệu sống phản ánh một cách rõ nét nhất các sự kiện, nhân vật lịch sử. Lễ hội là nơi bảo lưu các truyền thống văn hóa xã hội của làng, xã, của một địa phương, lịch sử và quá khứ sẽ trở nên rõ nét hơn, sinh động hơn bởi những nguồn tư liệu được cung cấp từ lễ hội. Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, không chỉ ở nước ta, trong khu vực mà còn trên toàn thế giới đang tập trung phát triển kinh tế theo xu hướng “công nghiệp hóa - hiện đại hóa” mà vô tình làm mai một dần các giá trị truyền thống, ngay trong các lễ hội cũng được cải biên đi nhiều cho phù hợp với nền kinh tế thị trường mà lãng quên dần những nguyên tắc truyền thống vốn có. Do đó việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của tất cả người dân đất Việt. Trong văn kiệt đại hội X của Đảng đã chỉ rõ “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của con người và xã hội trong điều kiện đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa” và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Cho nên việc đi sâu tìm hiểu lễ hội “Kỳ Phúc” nhằm 1 mục đích phần nào duy trì, phát huy những truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc và yếu tố tích cực của lễ hội trong đời sống kinh tế hiện nay. Cho đến nay mọi người dân chỉ đơn thuần hiểu cái tên Hán Việt lễ hội “Kỳ Phúc” là lễ hội “rước kiệu mừng sinh nhật Thành Hoàng” cầu mưa thuận gió hòa, may mắn an vui mà ít ai hiểu được nguồn gốc, bản chất và ý nghĩa của lễ hội cũng như xuất xứ, lai lịch của hai vị Thành Hoàng mà làng mình thờ phụng. Lễ hội “Kỳ Phúc” ra đời và phát triển hàng mấy trăm năm nay, đã được chính quyền các cấp công nhận là lễ hội văn hóa cấp tỉnh, nhưng quy mô của lễ hội mới chỉ bó hẹp trong một làng nhỏ hẹp mà chưa được nhân dân tứ phương biết đến với danh nghĩa là một lễ hội lớn, mang nhiều ý nghĩa văn hóa sâu sắc. Với tất cả những lý do trên mà tôi quyết định chọn vấn đề “Lễ hội Kỳ Phúc ở làng Phú Khê - xã Hoằng Phú - huyện Hoằng Hóa - tỉnh Thanh Hóa” làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hiện nay việc nghiên cứu về các lễ hội ở Việt Nam đã và đang được sự quan tâm của giới nghiên cứu, tới nay cũng có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về “Lễ hội Kỳ Phúc ở làng Phú Khê, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa”. Song lại theo nhiều hướng khác nhau, tiêu biểu như: - Cuốn “Hồ sơ lí lịch đình làng Phú Khê - xã Hoằng Phú” của tác giả Nguyễn Ngọc Khiếu viết năm (1990) thuộc Bảo Tàng tỉnh Thanh Hóa đã khái quát về đình làng Phú Khê cũng như xuất xứ hai vị Thành Hoàng và việc ra đời của đình làng Phú Khê cũng như lễ hội “Kỳ Phúc”. - Bản dịch nghĩa từ chữ Hán của tác giả Nguyễn Văn Hải về “Thần tích làng Phú Khê” đã dịch khá chi tiết về hai vị Thành Hoàng được nhân dân thờ cúng và các sắc phong của hai Thành Hoàng. - Văn bản trả lời các câu hỏi về “Phong tục tế lễ thần thánh” ở trong làng do Viện Hán Nôm thực hiện và do tác giả Phạm Văn Thắm dịch đã nói khá chi tiết về các nghi thức tế lễ thần thánh trong những ngày hội làng. - Cuốn sách “Phú Khê trong hồn đất Việt” do tác giả Trần Duy Phương viết cũng đã giới thiệu một cách khái quát nhất về làng Phú Khê, lịch sử ra đời và phát triển của làng cùng với đó là đình làng và lễ hội của làng. - Gần đây nhất là bộ phim tư liệu dài 6 tập do trường ĐH Mỹ Thuật Việt Nam và Viện Mỹ Thuật hợp tác thực hiện đã dựng lại rất chi tiết về quang cảnh đình làng Phú Khê và quy trình tổ chức lễ hội. 2 Tuy nhiên những bài viết, những công trình nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở một góc độ, một khía cạnh nhất định qua cái nhìn của từng tác giả, do đó nó không mang tính tổng thể của ngôi đình Phú Khê cũng như lễ hội “Kỳ Phúc”.Vì thế tôi chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm chỉ ra: Lịch sử hình thành, nội dung, ý nghĩa của “lễ hội Kỳ Phúc ở làng Phú Khê - xã Hoằng Phú - huyện Hoằng Hóa - tỉnh Thanh Hóa”. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3.1. Mục đích Đề tài được tiến hành với mục đích tập hợp có hệ thống nguồn tư liệu về “lễ hội Kỳ Phúc” đồng thời khái quát lại: nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa của lễ hội này. 3.2. Đối tượng Như tên gọi của đề tài, tôi chỉ tập trung vào việc tìm hiểu, nghiên cứu về “lễ hội Kỳ Phúc ở làng Phú Khê - xã Hoằng Phú - huyện Hoằng Hóa - tỉnh Thanh Hóa” 3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài được tiến hành trong phạm vi nghiên cứu là: nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa lễ hội “Kỳ Phúc” ở làng Phú Khê - xã Hoằng Phú - huyện Hoằng Hóa - tỉnh Thanh Hóa. 4. Đóng góp của khóa luận Đề tài được thực hiện nhằm khôi phục một cách tổng thể, toàn diện về lễ hội “Kỳ Phúc” giúp người dân và chính quyền địa phương có cách nhìn đúng đắn hơn về giá trị văn hóa vùng mình. Đóng góp bổ sung thêm nguồn tài liệu sử dụng trong công tác nghiên cứu lịch sử địa phương cũng như văn hóa của tỉnh Thanh Hóa. Đề tài góp phần giúp những ai quan tâm tìm hiểu lễ hội văn hóa của vùng này, tăng cường mối giao lưu hiểu biết lẫn nhau giữa vùng này với vùng khác, giữa các vùng trong cả nước và quốc tế. 5. Phương pháp nghiên cứu Do tính chất của đề tài nên tôi đã vận dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét và đánh giá các vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu. 3 Phương pháp cụ thể được vận dụng là phương pháp truyền thống đó là: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic, ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp như: Phân tích, tổng hợp, điền dã… để nghiên cứu vấn đề. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Nội dung của khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về làng Phú Khê - xã Hoằng Phú - huyện Hoằng Hóa - tỉnh Thanh Hóa. Chương 2: Đình làng “Phú Khê” Chương 3: Lễ hội “Kỳ Phúc” 4 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÀNG PHÚ KHÊ - XÃ HOẰNG PHÚ - HUYỆN HOẰNG HÓA - TỈNH THANH HÓA 1.1. Vị trí địa lý - tài nguyên thiên nhiên 1.1.1. Vị trí địa lý Cũng giống như bao miền quê hương Bắc Trung Bộ khác, tỉnh Thanh Hóa mang đầy đủ đặc trưng của khu vực miền Trung, địa hình được đan xen cả đồng bằng và miền núi trong đó huyện Hoằng Hóa là một trong những huyện có địa hình khá đa dạng của tỉnh. Hoằng hóa là một huyện đồng bằng ven biển tỉnh Thanh Hóa thuộc 19,46° đến 19,54° vĩ bắc và 105,45° đến 105,58° kinh đông. Trong quá trình tồn tại theo chiều dài của lịch sử địa danh huyện cũng theo đó mà thay đổi qua nhiều thời kỳ, thời Đinh - Lê huyện Hoằng Hóa được gọi là giáp cổ Hoằng, thời Lý - Trần gọi là Cổ Đằng, thời nhà Hồ đổi là huyện Cổ Linh, thời thuộc Minh lại gọi là huyện cổ Đằng, đến thời Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470) đổi là huyện Hoằng Hóa. Dưới triều Minh Mệnh năm thứ 19 (1838), một số làng, tổng ở phía bắc được cắt ra cùng với tổng Đại Ly ở huyện Hậu Lộc lập nên huyện Mỹ Hóa do huyện Hoằng Hóa kiêm nhiệm. Đầu thế kỉ XX, huyện Mỹ Hóa giải thể, các làng tổng trên lại nhập về Hoằng Hóa. Từ đó đến nay, Hoằng Hóa có địa giới ổn định với diện tích tự nhiên gồm 226,94 km2. Phía Bắc huyện giáp Hậu Lộc, phía Tây giáp huyện Đông Sơn và thành phố Thanh Hóa, phía tây bắc giáp huyện Vĩnh Lộc, huyện Hà Trung, phía nam và Tây Nam giáp huyện Quảng Xương thị xã Sầm Sơn, phía đông là biển. 1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên Huyện Hoằng Hóa có bờ biển dài 12km, giáp 2 cửa Lạch Trường (tức cửa Y Bích) rộng khoảng 300m, làm ranh với Hậu Lộc và Lạch Trào (tức Cửa Hội Triều) còn gọi Cửa Hới, rộng khoảng 400m đến 500m làm ranh giới với Quảng Xương. Cả hai nơi đều là vùng tiềm năng sinh sản tôm, cua, cá nước lợ, riêng Lạch Trào có thêm rau câu. Hai lạch trên là nơi thuyền bè ra vào trú ngụ dễ dàng. Từ xưa đã là cửa ngõ lớn của tỉnh phía đông. Sử cũ có ghi: “Thanh Hóa có nhiều cửa biển nhưng có hai cửa Hội Triều và Y Bích là đường biển phải đi qua 5 để thông lên sông Mã và sông Lương. Nếu có việc cần kíp thì Hoằng Hóa và Hậu Lộc giữ vị trí xung yếu”. Đoạn quốc lộ 1A và đoạn đường sắt Bắc Nam chạy song song xuyên qua lòng huyện 11km có cầu Hàm Rồng thông với thành phố, cầu Tào thông thương giữa hai vùng trong huyện, là trục giao thông chính vào Nam ra Bắc rất thuận lợi. Về khoáng sản, Hoằng Hóa có mỏ sắt ở Núi Trà, nhôm, a-mi-ăng, mica… ở núi Trường và thạch anh ở dải cát Hoằng Hải. Là huyện ven biển nên được hưởng trực tiếp khí hậu đại dương nhiệt đới. Nhìn chung bốn mùa cây cối tốt tươi, môi trường thoáng mát. Huyện Hoằng Hóa có hai con sông chính chảy qua là sông Mã và sông Tuần. Sông Mã từ ngã Ba Bông (giáp Hoằng Khánh) đến Lạch Trào (giáp Hằng Châu) làm ranh giới huyện ở phía tây và nam, hàng năm bồi đắp một lượng phù sa màu mỡ. Còn sông Tuần, một nhánh của sông Mã từ Cầu Tào (giáp Hoằng Lý) đổ về Lạch Trường (giáp Hoằng Trường). Đoạn đầu thường gọi là sông Tào, đoạn giữa là sông Bút, đoạn cuối là sông Ngu cũng mang về một lượng phù sa vô cùng lớn cho các xã ven sông. Ngoài ra, vùng phía đông huyện còn có sông Cung thông với hai cửa lạch, chảy thành vòng cung ôm lấy 8 xã miền biển là tuyến vận tải hàng hải qua nội địa kín đáo. Ở một vài vùng trong huyện còn có thêm vài khúc sông nhỏ như sông Gòng, sông Ấu, sông Đằng… Hoằng hóa có hai dãy núi chính thuộc hai tuyến biên giới huyện. Dãy Kim Trà ở phía tây bắc còn gọi là núi Nghĩa Trang làm ranh giới với Vĩnh Lộc, Hà Trung, Hậu Lộc, đỉnh cao nhất gần 300m. Sử cũ ghi rằng: “Ái Châu có nhiều ngọn núi gần biển, duy chỉ có núi Nghĩa Trang là cao hơn cả. Thuyền đi biển trông vào đấy để làm tiêu chí” [7,1]. Dãy Kim Chuế thường gọi là núi Hà Rò hay núi Trường nằm ở phía đông bắc huyện, làm ranh giới với Hậu Lộc, chạy từ xã Hoằng Yến đến xã Hoằng Trường, đỉnh cao nhất là 205m, có mỏm đá ăn lan ra biển như mũi giày (tức mũi Hài). Đây là đồn biên phòng quan trọng của tỉnh cũng là nơi có cảnh chí thiên nhiên đẹp, gắn liền với chiến tích của con người. Từ xưa vua Lê Thánh Tông đã có lần đến du ngoạn. Rải rác trong lòng huyện còn vài ngọn núi nhỏ không cao quá 200m như núi Tiên tức Trinh Sơn ở Hoằng Giang), núi Bưng (tức Băng Sơn ở Hoằng Sơn) và núi Đẻn ở Hoằng Trinh… riêng núi Ngọc ở đầu cầu Hàm Rồng (thuộc xã Hoằng Long) tức núi Hỏa Châu, một ngọn núi nhỏ tròn như xếp đá, cao khoảng 100m, trông xa tựa như hòn ngọc nhả ra từ miệng rồng thuộc núi Long Hạm uốn khúc bên kia sông Mã. Trên núi Ngọc có đền thờ “thần đồng”, dưới chân núi 6 mọc tách ra một tảng đá giống hệt hình trẻ con đứng thẳng, có tên là “đá Thần Đồng”, người xưa thường gọi là núi Nít. Đây là vùng “sơn thủy hữu tình”. Thuở trước một số nhà thơ như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Nguyễn Trãi đã từng đến thưởng ngoại. Từ khi có cầu Hàm Rồng thì nơi này là một thắng cảnh và đã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều thi sĩ. Đất đai canh tác của Hoằng Hóa chia làm ba vùng rõ rệt: phía bắc huyện thuộc tả ngạn sông Tuần và sông Mã gồm 17 xã vùng đất thịt, thích hợp thâm canh cây lúa nước cả hai vụ chính. Phía nam huyện thuộc hữu ngạn sông Tuần và tả ngạn sông Mã, gồm 22 xã phần lớn là đất cát pha, thích hợp thâm canh lúa và hoa màu. Vùng phía đông sông Cung gồm 8 xã vùng biển hầu hết là đất cát vừa sản xuất nông nghiệp, vừa có nghề đánh cá lâu đời. Quan trọng hơn cả là Hoằng Hóa giáp thành phố Thanh Hóa nơi trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của tỉnh. Đây là một thuận lợi lớn. Bên cạnh những thuận lợi do điều kiện tự nhiên mang lại, huyện cũng gặp phải nhiều khó khăn như: mưa lũ, hạn hán gây thiệt hại nhiều cho người và của, khoáng sản nhiều nhưng rải rác và khó khăn cho việc khai thác. 1.2. Kinh tế Do có vị trí đại lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi về đất đai, sông, biển như trên nên từ lâu nhân dân huyện Hoằng Hóa đã sớm tìm ra cách làm ăn phù hợp để phát triển kinh tế. Về nông nghiệp: Việc thâm canh cây lương thực và cây thực phẩm nhằm nâng cao sản lượng đều được đẩy mạnh thường xuyên. Hiện nay toàn huyện có trên 44.843 mẫu bắc bộ trong đó có 28.851 mẫu ruộng và 15.992 mẫu đất. Ngoài việc trồng lúa nước, nhân dân còn có nghề làm màu khá thành thục đạt năng xuất cao như trồng khoai, đậu, lạc… và những cây công nghiệp như dừa, đay, bông, mía, dâu tằm. Nhiều vùng chuyên canh giỏi còn để lại những câu ca như: “Đồn rằng kẻ trọng lắm cau - kẻ Cát lắm lúa, kẻ Mau lắm tiền”. hoặc “Ai về nhớ táo Phương Giai. Nhớ ổi Đa Bút, nhớ khoai chợ Gòng”[8,1]. Nhiều loại cây con đã được thuần chủng và nhiều giống mới được lai tạo để có thu hoạch cao. Vùng phía bắc huyện, một số cánh đồng đất thịt được bồi đắp để có thêm diện tích trồng màu. Ở nhiều làng xã đã tôn tạo thành những khu thổ cư trù mật, có vườn cây ăn quả, có hoa màu phục vụ đời sống hàng ngày. 7 Vùng giữa do có đất cát pha nên việc cải tạo để có thêm diện tích gieo cấy hai vụ lúa cũng được đẩy mạnh. Vùng ven biển là nơi cát bỏng đồng khô, việc đào ao khơi ngòi được quan tâm thường xuyên để có đủ nước tưới cho cây trồng và chọn lựa được nhiều giống cây lương thực, thực phẩm chịu hạn có kết quả. Hệ thống mương máng tưới tiêu trong huyện xưa kia chưa được quy hoạch thống nhất, nhưng ở mỗi vùng, các làng xã cũng đã liên kết với nhau, đào đắp thành những con kênh, con ngòi lớn nhỏ giúp ích cho việc sản xuất bốn mùa thông suốt. Nhiều cầu cống bằng đá phiến được vận chuyển về xây lát ở những đường đi lối lại trên nhiều cánh đồng vừa thông thủy, vừa thuận tiện giao lưu. Mặc dù trước kia dưới chế độ cũ, có những khi giai cấp thống trị tha hóa, không quan tâm đến đời sống, tính mạng nhân dân nhất là việc phòng chống thiên tai, nhưng nhiều nơi trong huyện quần chúng đã đoàn kết tự chủ lo liệu phòng đê, lập, sửa chữa đê điều để kịp thời hạn chế lũ lụt. Ngoài nghề nông là chủ yếu Hoằng Hóa còn là mảnh đất có nhiều nghề truyền thống nổi tiếng, nhiều nghề truyền thống đến nay vẫn được người dân trong huyện phát triển đi lên theo vòng quay của cuộc sống. Song bên cạnh đó, cũng có nghề đã mai một, hoặc không còn tồn tại cho đến ngày nay. * Nghề thợ mộc ở Ðạt Tài, Hạ Vũ, Hà Thái Ba làng Ðạt Tài, Hạ Vũ, Hà Thái thuộc xã Hà Dương, tổng Bút Sơn (cũ). Theo lời kể của các cụ ở Hoằng Ðạt, Hoằng Hà, nghề mộc ở 3 làng này nổi tiếng cách đây đã ba, bốn trăm năm. Người truyền nghề cho dân vùng này quê gốc ở Ý Yên, trấn Nam Sơn (cũ), nay là Hà Nam. Ông vốn là thợ cả của một đoàn thợ mộc, vào đây làm nhà, lấy vợ người Ðạt Tài, truyền nghề cho dân Ðạt Tài, sau đó lan sang Hạ Vũ, Hà Thái,... Thợ mộc ở ba làng này không chỉ làm nhà - đình - chùa - nghè - nhà thánh, cung điện mà còn kiêm cả nghề thợ khảm, chạm cửa võng hoàng phi, chạm long - ly - quy - phụng, chạm ngư tiều canh mục, chạm bát bửu và làm kiệu, hương án, khám thờ, tạc tượng phật, tượng thần. Giờ đây, sắt thép và xi măng đang dần thay thế đồ gỗ trong các công trình kiến trúc. Vì thế, những người thợ mộc ở Ðạt Tài, Hạ Vũ, Hà Thái tài năng đang phải đa dạng hoá sản phẩm, để phù hợp với điều kiện xã hội và tâm lý con người trong thời đại mới nhằm bảo tồn và phát huy nghề truyền thống của cha ông. 8 * Nghề dệt vải tơ lụa ở Nghĩa Hưng Nghề dệt vải đã có từ rất lâu đời ở nhiều làng của huyện Hoằng Hoá. Vải của mỗi làng đều mang nét riêng độc đáo và gắn với tên tuổi của làng đó như: vải kẻ Ðừng (Phú Khê), vải kẻ Tổ (Quỳ Chử), vải kẻ Nhợm (Thanh Nga), vải kẻ Tào (Tào Xuyên), vải kẻ Ðằng (Ðằng Xá), vải làng Phùng (Phùng Dực), vải Ðại Ðồng (Hoằng Ðồng),... Song có lẽ nổi tiếng hơn cả là vải Nghĩa Hưng, hay còn gọi là vải vùng chợ Quăng. Bí quyết làm nên sự nổi tiếng của vải Nghĩa Hưng chính là ở đôi bàn tay khéo léo với tay nghề tinh sảo, kỹ thuật điêu luyện của những cô gái vùng chợ Quăng, nhờ đó hàng dệt ra đã đẹp lại bền. Vải nhuộm nâu hoặc nhuộm màu thì càng đẹp, càng bền, làm say lòng khách hàng thuộc mọi lứa tuổi. Người kẻ Quăng dệt vải quanh năm, hầu như nhà nào cũng có khung dệt. Tuy không hợp thành phường, nhưng họ vẫn thường xuyên trao đổi và truyền lại kinh nghiệm cho nhau. Thậm chí, người dân trong vùng còn thi dệt tốt, dệt đẹp, để vải dệt ra "có tiếng". Vải "có tiếng" mới được nhiều người tiêu thụ, mới giữ được phẩm giá cho cá nhân và cả gia đình. Do vậy có câu ca dao: “Ai về Hoằng Nghĩa mà xem, Chợ Quăng một tháng bốn mươi hai phiêu điều (đều) Trai mỹ miều gắng công đèn sách Gái thanh tân chăm mạch cửi canh Gái thì dệt cửi vừa nhanh vừa tài” Phải "dệt cửi vừa nhanh vừa tài" và giữ tiếng thì "gái thanh tân" mới được các chàng thư sinh mến, mới được các nhà khoa bảng "nhăm nhe" cho con trai mình. Do vậy, đến phiên chợ Quăng, đình làng vải đông nghịt người. Người đi mua vải, mua tơ lụa đã đông mà các chàng trai đi ngắm nhìn các cô gái Hằng Nghĩa, Nguyệt Viên,... ngồi bán vải, bán tơ lụa cũng đông không kém. Ngày nay, bà con vùng kẻ Quăng dệt vải thước, vải màn bằng khung cải tiến, song chất lượng cũng không kém bất cứ nơi nào trong cả nước. * Nghề đúc lưỡi cày ở Ðồng Lạc (Hoằng Trạch) Người dân Ðồng Lạc làm nghề đúc lưỡi cày đã gần 300 năm nay. Theo bà con trong làng kể lại: một người ở Thác Nghè (Thiệu Yên, Thanh Hoá) đã truyền nghề này cho họ Lê Thiệu. Lưỡi cày Ðồng Lạc bán khắp huyện Hoằng Hoá, sang cả huyện Quảng Xương, Ðông Sơn, qua Hậu Lộc, Hà Trung. Lưỡi cày và diệp cày được đúc 9 bằng gang, nên người đi bán lưỡi cày, diệp cày cũng chính là người đi đổi lưỡi cày và diệp cày cũ đã cùn hoặc bị gãy mang về làm nguyên liệu. Dụng cụ đúc lưỡi cày gồm một cái bễ, làm bằng cây gỗ lim chẻ đôi, lọng ruột, ốp lại rồi gắn bằng hồ đặc biệt gồm vôi, lá bới lời, bồ hóng giã kỹ trộn với mật. Ðường kính của bễ khoảng 30 - 40cm, thân dài khoảng 4m. Gương bễ hay lòng bễ (piston) được kết bằng lông cổ gà trống. Lúc kéo gương bễ phải dùng đến sức người để điều khiển lòng bễ. Quan trọng nhất là người cầm cái guốc của cán lòng bễ phải khoẻ và có kỹ thuật cao. Lòng bễ có một cái rãnh, lỗ hơi ra để phụt vào nồi gang nằm giữa ống bễ. Lúc đúc lưỡi cày, bễ phải để nghiêng. Nồi đúc bằng gang, mặt nồi có trát một lớp đất mỏng. Gang chảy theo một cái khe, từ đó đổ vào khuôn. Khuôn làm bằng đất, cốt bằng gang. Gang đổ vào khuôn để nguội, dỡ khuôn ra, lấy lưỡi cày và diệp cày. Tất nhiên phải dùng dao, cái giũa,... kỳ cọ không nhiều để lưỡi cày và diệp cày được tinh tươm. Ngoài ra, muốn xem kỹ thuật cao hay thấp, lưỡi và diệp cày đẹp hay không còn phụ thuộc vào dòng chảy của gang, kỹ thuật đổ khuôn, và tay nghề của người thợ khi làm khuôn nữa. Có thể nói, nghề đúc lưỡi cày ở Ðồng Lạc khá vất vả. Song điều khiến nông dân huyện Hoằng Hoá luôn tự hào chính là ở danh tiếng của lưỡi cày Ðồng Lạc. * Nghề làm nước mắm ở Khúc Phụ (Hoằng Phụ) Không phải làng nào có nghề đánh cá biển cũng làm được nước mắm. Trong số 5 xã biển huyện Hoằng Hoá chỉ có làng Khúc Phụ (giờ đây có thêm Hoằng Trường cũng ướp chượp và nấu nước mắm) làm nước mắm. Ðể làm nước mắm ngon, công đoạn đầu tiên là phải chọn cá. Cá nục hoặc cá thu ù, nhưng thường là cá nục (vì cá nục có nhiều đạm) là nguyên liệu được người dân Khúc Phụ "ưu tiên" lựa chọn. Nước mắm Khúc Phụ loại nỏ đầu, loại đặc biệt, để lâu là một "tài sản quý". Uống một chén nhỏ sẽ tăng sức chịu rét cho người đi biển vào mùa đông, tăng sức khoẻ cho người thợ lặn, chữa được bệnh đau bụng gió, đau bụng bão. * Nghề nhuộm ở Trinh Hà (Hoằng Trung) Nghề nhuộm ở Trinh Hà đã có từ rất lâu đời và cũng do một người gốc Bắc truyền cho bí quyết làm nghề. Nghề nhuộm ở Trinh Hà cũng phân ra nhiều loại: Nhuộm chàm: nguyên liệu nhuộm được lấy từ cây chàm. Khi cây chàm đã tốt, bà con bứt lá bỏ vào những chiếc thùng đặt cạnh rệ bờ sông và đổ nước vào ngâm. Ngâm đến khi lá mục ra, lấy gậy quấy lên, vừa quấy vừa vớt xương lá ra, quấy đến khi nào mặt nước sóng sánh màu xanh rồi chờ tinh bột lắng xuống. Khi 10 tinh bột đã lắng hết, người dân Trinh Hà tháo nỏ cho nước trong chảy ra và gạn lấy tinh bột. Sau đó, làm cho tinh bột đặc quánh lại rồi mới đem cô để bỏ vào chum. Khi nhuộm chàm, thợ nhuộm múc tinh bột chàm hoà với nước. Tạp chất này tạo ra một loại vi khuẩn tựa như dấm thanh, để tinh chàm cắn vào vải, màu sẽ bền. Nhuộm thâm: nguyên liệu chính để nhuộm thâm chính là bùn ao. Bùn càng dẻo càng đen thì vải nhuộm càng tốt. Ðể nhuộm thâm, vải, lụa khi mua về phải giặt cho hết hồ rồi nấu nước lá sòi, lá trâm, lá bàng cho thật đặc. Nếu là tơ, lụa thì lá sòi nhiều; nếu là vải thì lá trâm, lá bàng nhiều. Khi nhuộm thì phải nhuộm ba lần, mỗi lần nhuộm xong đem ra thổ lại cho hết bùn rồi lại nhuộm tiếp. Không chỉ có vậy, người thợ nhuộm Trinh Hà còn bỏ vải hoặc tơ lụa trên một hòn lăn nhẵn bóng, dùng vồ đập cho vải đều sợi, láng sợi rồi mới gấp lại đem bán. Nhuộm nâu: nguyên liệu chủ yếu bằng củ nâu và vỏ rà. Vỏ rà phải nấu sôi lên để thật lâu, củ nâu phải giã nhỏ, giã xong đổ nước vào quấy đều, để bã lắng xuống rồi múc lấy nước đổ vào một cái chậu đem vải hoặc tơ lụa bỏ vào nhuộm. Nhuộm xong đem phơi khô rồi lại nhuộm tiếp, cứ thế nhuộm đi, nhuộm lại nhiều lần. Bà con làng nghề thường nhuộm nâu trước, nhuộm vỏ rà sau. Nhuộm đến khi đạt yêu cầu rồi hồ với nước keo da trâu, da bò hoặc nước cháo gạo nếp. Trước khi đem bán, thợ dệt cũng để lên hòn đá lăn đập qua cho bải hoặc tơ lụa đều sợi, mướt màu như nhuộm thâm. Nghề nhuộm ở Trinh Hà nay không còn, nhưng nhân dân cả vùng Hoằng Hoá và Hậu Lộc vẫn còn nhắc đến những người thợ nhuộm ở Trinh Hà đã đem lại cho họ những tấm quần, tấm áo bền màu để dãi dầu cùng sương gió trong những ngày lao động vất vả. * Nghề đục đá ở Xa Vệ (Hoằng Trung) Ông tổ họ Lê Văn tên là Du đã khai sinh ra nghề này cách đây khoảng 300 năm. Xa Vệ ở dưới chân núi Trán Voi trong dãy núi Sơn Trang. Tương truyền rằng: tại núi Tráng Voi có loại đá, người dân ở đây thường lấy về làm đá tảng kê cột nhà, làm đá ghép mép hè, đá bao quanh sân, xây cống... Cụ Lê Văn Du thấy những hòn đá ấy trước mềm sau cứng, nhặt về mấy hòn đẽo làm đá mài, trước làm để dùng, sau đem đi bán. Do học hỏi được kinh nghiệm ở nhiều nơi, cụ nảy ra sáng kiến, lên núi vác nhiều hòn đá về, hý hoáy ngồi đục: mấy cái chậu (như chậu sành) đựng nước, đục đá gác cửa, đá tai cửa, đá ghép mép hè, đá ghép quanh sân... cho phẳng và đẹp. Công việc ngày càng hấp dẫn, cụ đục đá máng, đá cột nhà, đá cột nanh, đá tảng... sau đó là cối xay bột, cối xay ngô. 11 Lúc này, nhiều người ở Xa Vệ đã thấy được tác dụng của loại đá ở núi Trán Voi. Nhờ đó, nghề đục đá bắt đầu phát triển. Thợ đục đá ở Xa Vệ đã đục được cả cột hè, trếnh, rui mái hắt,... Nhưng có lẽ gay go nhất vẫn là việc tiêu thụ các sản phẩm này. Vì hàng đá nặng, cồng kềnh nên những ngày phiên chợ Già, họ phải đặt lên xe cút kít nào là đá mài, cối xay bột, cối xay ngô,... đẩy ra chợ bán. Còn máng, cột, đá tảng, đá ghép hè, ghép sân, trếnh,... phải có người đặt theo kích thước nhất định, họ mới làm. Nghĩa là, những loại hàng hoá ấy, những người thợ đục đá ở Xa Vệ đều làm theo các đơn đặt hàng của khách. * Nghề đan ở Ðoan Vĩ (Thái Hoà ). Nghề đan lát ở Ðoan Vĩ và Thái Hoà (thuộc xã Hoằng Thịnh và Hoằng Thái bây giờ) có từ khi nào không ai nhớ, chỉ biết là đã từ rất lâu, cách đây hàng trăm năm, ở hai làng này, không chỉ đàn bà đan giỏi mà đàn ông làm nghề này cũng tài. Có một bài thơ trong đó có câu đã miêu tả về người thợ đan ở đây: " Nhe răng xấu đá ngàm cái cạp Thè lưỡi thờn bơn vuốt sợi mây”. Những dụng cụ phục vụ cho nghề này cũng khá đơn giản như: mấy con dao dùng để chặt, chẻ nan, vót, vài cái dùi: dùi to nứt cạp nong, dùi nhỏ nứt cạp rổ rửa rau, một cái đòn kê, các loại rá, dùi vừa nứt cạp rổ gòng, rổ xảo,... cùng các loại nguyên liệu như: tre, mây, nứa, vầu, luồng,... Gần đây, người Ðoan Vĩ, Thái Hoà còn đan đồ mỹ nghệ như: hộp đựng đồ trang sức của phụ nữ, đồ chơi của thiếu nhi,… Hàng đan của Ðoan Vĩ, Thái Hoà đã có mặt ở khắp các chợ trong huyện, sang các huyện bạn, lên chợ tỉnh và đã xuất khẩu sang các nước như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. Hiện tại, người Ðoan Vĩ, Thái Hoà đang gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của một số mặt hàng nhựa. Do vậy, họ cần phải nâng cao tay nghề để những mặt hàng đan thật đẹp, thật tinh sảo, thật bền, thật sáng tạo, để giữ gìn nghề truyền thống của cha ông, có thêm uy tín với các khách hàng trong huyện, trong nước và nước ngoài. * Nghề ép dầu ở Ðại An và Tào Xuyên Người làng Ðại An (Hoằng Lương) và Tào Xuyên (Hoằng Lý) trước đây có nghề ép dầu bông, dầu lạc, đem dầu và khô dầu đi bán khắp vùng. Dầu bông, dầu lạc dùng để thắp đèn. Riêng dầu lạc còn dùng để thay mỡ, nấu thức ăn. Cũng như các làng nghề thủ công khác ở Hoằng Hoá dầu và khô dầu các loại của Ðại An và Tào Xuyên đã có mặt ở khắp các chợ trong vùng và được đông đảo người tiêu dùng ưa chuộng. 12 Ðây chỉ là một số nghề tiêu biểu trong rất nhiều những làng nghề truyền thống ở Hoằng Hoá. Chính những người thợ này đã nâng cao nền văn hoá vật chất và tinh thần của Hoằng Hoá, làm cho nền văn hoá nơi đây không những có bề dày, mà còn có chiều cao tô thêm rạng rỡ cho mảnh đất Hoằng Hoá. Bởi nghề thủ công truyền thống xét cho cùng cũng là kỹ thuật và mỹ thuật. Là một huyện giáp biển, với hệ thống sông ngòi phong phú nên từ lâu nghề đánh cá và khai thác thủy sản đã hình thành và phát triển từ rất sớm. Những nghề chế biến thủy sản được coi là những nghề chính, các cơ sở chế biến hải sản tập trung nhiều ở Hoằng Phụ, Hoằng Trường, Hoằng Thanh, phát triển với số lượng lớn, không những tạo ra mạng lưới dịch vụ lưu thông cho ba xã mà còn mở rộng ra tám xã vùng biển, gắn với việc khai thác, nuôi trồng với chế biến, lưu thông, thúc đẩy hàng hải - thủy sản trong huyện phát triển. 1.3. Văn hóa - xã hội Bên cạnh truyền thống lao động cần cù và yêu nước nồng nàn là điểm nổi bật ấy, truyền thống văn hóa, xã hội còn là điểm sáng chói, đáng tự hào của lớp lớp nhân dân Hoằng Hóa. Với bề dày của một huyện có thể gọi là đầy đủ các “duyên cách lịch sử”, nhân dân hoằng Hóa, đi đôi với việc xây dựng bảo về quê hương, đã sớm ý thức được bản sắc dân tộc. Càng về sau, ý thức đó càng bền vững bởi giao thông thêm mở rộng bằng đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển. Khả năng giao lưu tiếp xúc, đổi mới ngày càng nhiều. Trong quá trình lao động sáng tạo và đấu tranh dũng cảm, năng lực tổ chức của đời sống nhân dân cũng ngày một phát triển. Trên cơ sở ấy, sắc thái văn hóa trong huyện sớm được hình thành và phát triển hòa đồng với văn hóa dân tộc. Ở mỗi làng xã đều có những thuần phong mỹ tục với những nét sinh hoạt văn hóa đáng quý như hát ghẹo, hát chèo, hát hội, bơi thuyền, đấu vật, đấu cờ… Nhiều làng xã, nhiều dòng họ còn có những công trình kiến trúc đẹp đẽ, khang trang với những họa tiết tinh vi, sắc sảo từ thời Lý đến thời Lê trong các đình chùa, đền ,miếu, nghè, phủ uy nghi tráng lệ, nhằm thờ cúng các bậc tiền bối anh linh. Có những công trình khá vĩ đại như nghè thượng( Phú Khê). Cột nghè có chu vi hai người ôm không khít. Những long ngai, tán lọng đều có kích thước vừa cao, vừa rộng mà nhân dân trong tỉnh thường truyền tụng “cờ Nam Ngạn, tán Phú Khê”. Trông nghè được gọi là trông rồng, mỗi khi vang lên thì nửa huyện cũng nghe tiếng. 13 Đình Bảng chợ Quảng cũng vậy, cột đình, trống đình đều thuộc cỡ lớn. nhân dân trong tỉnh cũng đã ví “ trống chợ Quăng, lăng chợ Nghè”. Trong quá trình lịch sử, phần thì do thiên tai, dịch họa, phần thì do nhận thức mơ hồ, phiến diện thiếu thận trọng của một số người có trách nhiệm trước đây ở cơ sở nên có một số công trình đã bị phá hủy. Đó là điều thật đáng tiếc. Đến năm 1994, trong số còn lại đã có 21 công trình được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử và văn hóa quốc gia hoặc địa phương. Bên cạnh đó một số công trình đã, đang được trùng tu, tôn tạo, nhiều thuần phong mĩ tục cũng được khơi dậy như hội hát chèo Hoằng Phượng, hát bội Hoằng Quỳ, Hoằng Phú, đấu vật ở Hoằng Lưu, Hoằng Phong… Trong lòng đất, ngoài những hiện vật khảo cổ đã tìm được cũng còn tàng ẩn những công trình văn hóa khác có giá trị như lăng mộ bà Chúa Mây, tượng Ngọc Dung công chúa thời Lê, được xây cất tại cồn chúa (Hoằng Đức). Trong thập kỉ 50, lăng mộ bà đã bị đào nhưng đã được đưa về bảo tàng lịch sử Việt Nam. Gắn liền với việc kiến tạo văn hóa, nhiều truyện cổ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc cũng còn được lưu truyền trong nhân dân ở nhiều làng, xã qua nhiều thế hệ. Việc giao lưu văn hóa đã góp phần đẩy mạnh việc học tập trong nhân dân. Vì vậy nổi nên trong truyền thông văn hóa là truyền thống hiếu học. Nói đến truyền thống hiếu học, nhân dân trong huyện thuộc nhiều đời cũng có nhiều người ở nhiều nơi đều có chung niềm tự hào về Hoằng Hóa là đất văn vật. Trong kho tàng ca dao tục ngữ Thanh Hóa đã có câu vè như “Thi Hoằng Hóa, khóa Đông Sơn”. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của nhà sử học phong kiến nổi tiếng Phan Huy Chú cũng đã ghi “huyện Hoằng Hóa thường có nhiều văn nho đỗ đạt rất nhiều”. Điều đó giải thích rằng Hoằng Hóa là mảnh đất có truyền thống học giỏi đỗ cao. Quả thật từ thời xưa, thời nào cũng vậy, mặc dù đời sống vật chất còn nhiều khó khăn nhưng ông cha ta đã tự vươn lên bằng nhiều hình thức để mở mang dân trí cho con cháu. Ở nhiều gia đình, nhiều làng tổng đều có phong trào nuôi thầy dạy học, trước kia là thầy đồ dạy chữ nho, sau là thầy giáo dạy chữ quốc ngữ. Bởi thế hầu hết khắp làng tổng dưới thời phong kiến đều có rất nhiều người đạt trình độ học vấn cao. Hàng trăm người thi đỗ tú tài, cử nhân, hàng 14 chục người đỗ tiến sĩ trở lên trong đó có người là hội nguyên, đình nguyên và cả trạng nguyên. Tự hào hơn nữa là phần đông các nhà khoa bảng trong huyện đều là những người đã đem nhiệt huyết của mình để giúp dân, giúp nước, giúp đời với tấm lòng thanh cao, chân thực. Nhiều người đã để lại những tác phẩm giá trị, những tấm gương chân, thiện, mỹ gắn liền với truyền thống đạo lý dân tộc trong sáng. Có người được sử sách ghi nhận là doanh nhân quốc gia, được đông đảo các tầng lớp nhân dân truyền tụng. Tiểu kết Với những nét dẫn chứng cụ thể trên chúng ta có thể phần nào hình dung được sự phồn thịnh và khá phát triển của nhân dân trong huyện Hoằng Hóa ở tất cả các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa và xã hội tất cả những kết quả đạt được đó phải kể đến một phần đóng góp không nhỏ của sự ưu đãi về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý mà thiên nhiên đã ban tặng cho huyện. Đó là những tài nguyên khoáng sản quý giá sinh ra nguồn lợi lâu dài cho người dân huyện, là những địa hình địa vật phong phú và đa dạng mang lại những thuận lợi to lớn cho người dân. Dù vậy đó chỉ là những yếu tố khách quan còn yếu tố chủ quan mới là yếu tố mang tính quyết định, đó là yếu tố con người, chính con người nơi đây với những bản chất cần cù lao động sáng tạo đã tạo nên nét tươi sáng trù phú cho huyện Hoằng Hóa, đưa huyện trở thành một trong những huyện phát triển nhất tỉnh Thanh Hóa. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất