Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lập luận trong truyện dân gian việt nam...

Tài liệu Lập luận trong truyện dân gian việt nam

.PDF
165
335
142

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHÒNG KHCN & SĐH ---------- NGUYỄN THỊ YẾN PHƯỢNG LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM Chuyên ngành Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 Luận văn thạc sỹ Người hướng dẫn: GS. TS Nguyễn Đức Dân Thành phố Hồ Chí Minh tháng 3 năm 2012 Cảm ơn Luận văn được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực học hỏi nghiên cứu của bản thân, còn nhờ có sự chỉ bảo, giúp đỡ, động viện tận tình của quý thầy cô, gia đình, bạn bè và các bạn đồng ngiệp. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đức Dân, người đã tận tâm hướng dẫn khoa học, giúp tôi giải quyết các vấn đề trong đề tài, định hướng, gợi mở, truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Xin cảm ơn Phòng sau đại học, thư viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, thư viện trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, thư viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành và bảo vệ luận văn này. Xin cảm ơn Ban giám hiệu, tổ Ngữ Văn trường trung học phổ thông Đức Linh huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận đã tạo mọi thuận lợi trong công tác. Sau cùng xin cảm ơn chồng và hai con đã động viên, ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Mục lục MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................... 1 1.1 Cơ sở lí luận ...................................................................................................................... 1 1.2 Cơ sở thực tiễn .................................................................................................................. 2 2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................................... 2 2.1. Tình tình nghiên cứu lí thuyết lập luận trên thế giới ....................................................... 2 2.2. Nghiên cứu lí thuyết lập luận ở Việt Nam ....................................................................... 3 3. Giới hạn đề tài ..................................................................................................................... 4 4. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................ 5 6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................................ 5 7. Cấu trúc của luận văn.............................................................................................................. 6 CHƯƠNG I LÍ THUYẾT LẬP LUẬN ..................................................................................... 7 1.1. Thế nào là lập luận? ............................................................................................................. 7 1.1.1. Trước hết cần phân biệt hai kiểu hành động lập luận: “lập luận theo diễn từ chuẩn mực” (sự lập luận trong khoa học tự nhiên) và lập luận qua ngôn ngữ (đối tượng của luận văn này). .......................................................................................................................... 7 1.1.2. Sự khác nhau về phương pháp của hai loại lập luận ..................................................... 9 1.2. Mô hình khái quát của một lập luận .................................................................................. 11 1.2.1. Tiền đề (luận cứ) ..................................................................................................... 11 1.2.1.1Tiền đề là gì? ......................................................................................................... 11 1.2.1.2. Tác tử (Operator) và định hướng lập luận .......................................................... 12 1.2.2 Kết đề (kết luận) ....................................................................................................... 14 1.2.2.1 Kết đề là gì? .......................................................................................................... 14 1.2.2.2 Kết tử (connector) ................................................................................................. 14 1.3. Lập luận theo logic tự nhiên: lí lẽ chung cũng gọi là lẽ thường (Topos, topoi) ................ 16 1.3.1 Thuật ngữ Topos .......................................................................................................... 16 1.3.2 Lí lẽ chung: một hệ thống logic xã hội đời thường.................................................. 17 1.3.2.1 Lí lẽ khách quan .................................................................................................... 17 1.3.2.2 Lí lẽ nội tại ............................................................................................................ 18 1.3.3 Một số kiểu lí lẽ để thuyết phục ............................................................................... 18 1.3.4 Những quan hệ logic và hình thức ngôn ngữ trong lập luận tự nhiên..................... 21 CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG THỨC LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM ......................................................................................................................................... 27 2.1. Sơ lược về truyện cổ tích ................................................................................................... 27 2.1.1. Phân biệt truyện cổ tích với các loại truyện cổ khác .................................................. 27 2.1.2. Đặc trưng thể loại cổ tích ............................................................................................ 29 2.1.3. Các loại truyện cổ tích ................................................................................................ 29 2.2. Phương thức lập luận trong truyện cổ tích ......................................................................... 31 2.2.1 Lập luận bằng lí lẽ ....................................................................................................... 31 2.2.1.1 Lí lẽ về hành vi con người..................................................................................... 31 2.2.1.2 Lí lẽ dựa vào thang độ .......................................................................................... 35 2.2.1.3 Lí lẽ theo quyền uy ................................................................................................ 40 2.2.1.4 Lí lẽ chung dựa vào kinh nghiệm của bản thân .................................................... 43 2.2.1.5 Lí lẽ đạo đức ......................................................................................................... 50 2.2.1.6 Lí lẽ nội tại và lí lẽ khách quan ............................................................................ 57 2.2.1.7 Các loại lí lẽ khác ................................................................................................. 60 2.2.2 Lập luận bằng các hình thức ngôn ngữ ........................................................................ 64 2.2.2.1 Các hình thức ngôn ngữ thể hiện quan hệ nghịch nhân quả ................................ 64 2.2.2.2 Cấu trúc ngôn ngữ có chức năng tăng cường luận cứ ......................................... 67 2.2.2.3 Lập luận bằng các cấu trúc thể hiện quan hệ nhân quả ....................................... 70 2.2.2.3.1 Cấu trúc “Nếu A thì B” ..................................................................................... 70 2.2.2.3.2 Cấu trúc “Chỉ A mới B”, “Không B nếu không A”........................................... 72 2.2.2.4 Cấu trúc “Nếu A thì B” ........................................................................................ 73 2.2.2.5 Cấu trúc “Hễ A thì B” .......................................................................................... 76 2.2.2.6 Cấu trúc “Giá A thì B” ......................................................................................... 76 2.2.3 Lập luận bằng các phương thức đạt hiệu quả .............................................................. 77 2.2.3.1 Phương thức trích dẫn .......................................................................................... 77 2.2.3.2 Phương thức giải thích ......................................................................................... 79 2.2.3.3 Phương thức dung câu hói và chất vấn ................................................................ 80 2.2.4 Lập luận bằng các từ tình thái ................................................................................. 81 CHƯƠNG III LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH SO SÁNH VỚI LẬP LUẬN CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI KHÁC .......................................................................................... 84 3.1. Nhận xét bước đầu về cách sử dụng các phương thức lập luận trong truyện cổ tích ........ 84 3.1.1. Sử dụng các loại lí lẽ................................................................................................... 84 3.1.2. Sử dụng các cấu trúc ngôn ngữ ................................................................................... 87 3.1.3. Sử dụng các từ tình thái .............................................................................................. 89 3.2. So sánh với phương thức lập luận trong một số thể loại khác ........................................... 90 3.2.1 Những điểm giống và khác nhau giữa lập luận trong truyện cổ tích và lập luận trong phê bình văn học.......................................................................................................... 90 3.2.1.1 Về lí lẽ ................................................................................................................... 90 3.2.1.2 Về cấu trúc ............................................................................................................ 93 3.2.1.3 Các từ tình thái ..................................................................................................... 97 3.2.2 Những điểm giống và khác nhau khi lập luận ở truyện cổ tích và tranh cãi pháp lí ... 98 3.2.2.1 Về lí lẽ ................................................................................................................... 98 3.2.2.2 Về cấu trúc .......................................................................................................... 102 3.2.2.3 Các từ tình thái ................................................................................................... 105 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 112 TÀI LIỆU KHẢO SÁT........................................................................................................... 119 PHỤ LỤC (1) .......................................................................................................................... 120 PHỤ LỤC (2) .......................................................................................................................... 130 MỞ ĐẦU Cho đến nay tất cả mọi người đều không nghi ngờ gì khi khẳng định ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với chức năng, vai trò chủ yếu là “công cụ giao tiếp đắc lực”, ngôn ngữ là vốn quý của con người, là kho báu mà chúng ta chẳng bao giờ khai thác, tận dụng hết mọi giá trị của nó. Gần đây, sự phát triển của ngành Ngữ dụng học (Pragmatics) chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ (một hệ thống kí hiệu) và việc sử dụng ngôn ngữ đã mở ra nhiều cánh cửa mới. Trong đó lí thuyết lập luận là một vấn đề rất thú vị cả về mặt lí thuyết lẫn thực tế ứng dụng. Vì nó giúp chúng ta sử dụng ngôn ngữ một cách có hiệu quả trong giao tiếp xã hội. Tuy nhiên không phải cho đến khi Lí thuyết lập luận ra đời con người mới biết đến hành vi lập luận. Có thể nói, khi con người biết dùng ngôn ngữ để diễn đạt, để thực hiện các mục đích giao tiếp trong cuộc sống, con người đã biết lập luận. 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Cơ sở lí luận Trong cuộc sống con người luôn cần dùng đến lập luận để đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động giao tiếp. Có thể nói lập luận và vận động lập luận là một chiến lược hội thoại nhằm dẫn dắt người nghe, người đọc đến chỗ nắm bắt được cái kết luận mà người lập luận muốn đi tới. Chính khả năng lập luận của người nói sẽ tạo ra một định hướng, liên kết cả hai bên: bên nhận tin và bên phát tin để có được sự thống nhất cần thiết trong cách nhìn nhận và xử lí vấn đề. “Con người dùng lập luận để chứng minh một điều gì đó, để thanh minh, giải thích một sự việc nào đó, để thuyết phục người khác, và cũng có thể lập luận để bác bỏ một ý kiến khác” [10, 164]. Lập luận có tầm quan trọng đặc biệt. Bất cứ ai cũng cần nó để giao tiếp…Tuy nhiên việc lập luận không phải bao giờ cũng có kết quả tốt đẹp. Có người được tôn là ‘thầy cãi” vì khả năng diễn đạt đầy sức thuyết phục do có những lí lẽ chặt chẽ. Nhưng cũng có người luôn thất bại trong việc thuyết phục người khác. Từ đó chúng ta nhận thấy rằng lập luận chỉ đạt được mục đích, chỉ phát huy giá trị khi nó là một lập luận đúng đắn, được xây dựng trên các lí lẽ chuẩn mực. 1.2 Cơ sở thực tiễn Lí thuyết lập luận ngày nay đã được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều người, nhiều giới ở các lĩnh vực khác nhau. Phương thức lập luận tranh cãi ở tòa án, ở các cuộc đàm phán ngoại giao đã được nghiên cứu nhiều, lí lẽ trong tục ngữ cũng được nhắc đến, nhưng phương thức lập luận trong truyện dân gian còn để ngỏ, chưa được sự quan tâm nghiên cứu thích đáng. Đây là đề tài khá thú vị bởi truyện dân gian, tiêu biểu là truyện cổ tích, từ lâu đã trở thành “nguồn tài liệu quý báu giúp chúng ta hình dung một cách cụ thể con đường riêng biệt mà cộng đồng người Việt đã tự vạch cho mình, trên quá trình vật lộn gian nan để tồn tại và phát triển… Truyện cổ tích cũng là nguồn tư liệu vô giá, có khả năng làm sống lại diện mạo tổng hợp của một kiểu thức sinh hoạt văn hóa dân gian, trong đó nghệ thuật ứng tác, trần thuật được đan chéo, hỗn hợp với các loại hình thức biểu hiện của tín ngưỡng, tôn giáo, tâm lí, phong tục,…” [96, 1583]. Tất cả những điều này đến nay vẫn còn nguyên giá trị của nó. Khả năng lập luận không còn là đòi hỏi chỉ đặt ra với một số người theo các ngành nghề đặc thù, mà nó đã trở thành nhu cầu của xã hội, yêu cầu bắt buộc cần được trang bị, rèn giũa cho mọi người. Vậy lập luận là gì? Nó đã được quan tâm nghiên cứu từ khi nào? 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tình tình nghiên cứu lí thuyết lập luận trên thế giới Ngay từ thời cổ đại, thế kỉ V trước công nguyên, lập luận đã được chú ý nghiên cứu. Buổi đầu nó được xem là một lĩnh vực thuộc phạm vi của “thuật hùng biện”, một nghệ thuật nói năng, nên được trình bày trong “Tu từ học” (Rhetoric) của Aristote. Sau đó, sự lập luận cũng được trình bày trong những cuộc nghị luận, tranh cãi ở tòa án. Mãi đến nửa sau thế kỉ XX, lí thuyết lập luận mới được quan tâm trở lại. Mở đầu cho thời kì này là công trình “Khảo luận về sự lập luận – Tu từ học mới” của Perelman và Olbrechts – Tyteca (1958), ngoài ra còn có “Sử dụng luận cứ” của S. Toulmin (1958), sau đó Grize (1982). Nói chung, lập luận vẫn được nghiên cứu trong tu từ học và logic học. Phải đến công trình của Oswald Ducrot và Jean Claude Anscombre (1983) mới đưa ra một kiến giải mới, căn bản và độc đáo: xem xét lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học. Hướng nghiên cứu này đã gặt hái được nhiều kết quả thú vị, bất ngờ. Hiện nay nghiên cứu lập luận theo hướng này được nhiều người quan tâm. Năm 1985, trung tâm châu Âu về nghiên cứu lập luận (Centre Europeén pour l’Etude de l’ Argumentation) đã được thành lập và tổ chức những cuộc hội thảo chuyên về lập luận. Hội thảo đầu tiên được tổ chức vào cuối tháng 8/1987. 2.2. Nghiên cứu lí thuyết lập luận ở Việt Nam Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về Lí thuyết lập luận như các tác giả của “Đại cương ngôn ngữ học” tập II đã nhận định: “Lập luận là một lĩnh vực mới trong Ngôn ngữ học thế giới. Ở Việt Nam, nó còn hoàn toàn lạ lẫm với các nhà Ngôn ngữ học, kể cả các nhà nghiên cứu quan tâm đến dụng học.” Thực vậy, cho đến hôm nay, ngoài vài bài báo đăng rải rác trên tạp chí Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và đời sống, Kiến thức ngày nay,… thì chính thức trình bày về lí thuyết lập luận tương đối có hệ thống chỉ có ở chương IV trong “Đại cương ngôn ngữ học” tập II của Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toán dài 47 trang, chương IV trong “Ngữ dụng học” của Nguyễn Đức Dân gồm 87 trang và chương VIII trong “Nhập môn logic hình thức và logic phi hình thức” cũng của Nguyễn Đức Dân. Và đây có lẽ là các công trình tương đối chi tiết về Lí thuyết lập luận. Tuy nhiên các tác giả trên cũng chỉ mới tập trung nghiên cứu lập luận về mặt lí thuyết. Gần đây có thêm một số đề tài nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ,luận văn thạc sỹ ứng dụng lí thuyết lập luận vào các tình huống cụ thể như tranh cãi trong pháp lí, phê bình văn học, một vài thể loại văn khác… Như luận văn “Ngôn ngữ và lập luận trong tranh cãi phápn lí” (2000) của Lê Tô Thúy Quỳnh, “Ngôn ngữ và phương pháp lập luận (dựa trên cứ liệu phê bình văn học bằng tiếng Việt) (2001) của Đào Mục Đích, “Lập luận pháp lí” (so sánh tiếng Anh và tiếng Việt) (2005) tác giả Nguyễn Ngọc Thủy… Dù chưa có những đóng góp mới về mặt lí thuyết, nhưng các tác giả trên cũng đã cho thấy rõ tầm quan trọng của lập luận trong giao tiếp. 3. Giới hạn đề tài Luận văn giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu như sau: Lập luận là hành vi ngôn ngữ được nhiều người thực hiện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống vốn rộng lớn và đa dạng. Trong khuôn khổ một luận văn chúng tôi khoanh vùng tìm hiểu lập luận trong truyện dân gian Việt Nam. Cụ thể chúng tôi vận dụng lí thuyết lập luận để tìm hiểu các phương thức lập luận trong truyện cổ tích Việt Nam. (Ngữ liệu chúng tôi lấy làm căn cứ khảo sát là bộ truyện “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” gồm 2 tập (200 truyện) của cố tác giả Nguyễn Đổng Chi sưu tầm biên soạn do nhà xuất bản Giáo dục tái bản lần thứ VIII năm 2000. Cho đến nay công trình này được giới nghiên cứu đánh giá là một công trình đầy đủ và có hệ thống nhất). 4. Mục đích nghiên cứu Đề tài nhằm thực hiện những mục đích Nghiên cứu phương thức lập luận trong truyện cổ tích. Chỉ ra được các phương thức lập luận đạt hiệu quả giao tiếp trong truyện cổ tích. Nêu rõ đặc trưng lập luận của truyện cổ tích. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu vấn đề mà luận văn đã đặt ra, trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã kết hợp, vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu, cụ thể là Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để nghiên cứu lịch sử vấn đề và phát hiện rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thông qua việc tìm hiểu các tư liệu, giáo trình, các bài nghiên cứu thuộc các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến phạm vi đề tài. Phương pháp thống kê: được sử dụng để xử lí các số liệu thu thập trong quá trình nghiên cứu, bổ trợ cho phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm đạt tới những kết luận chính xác, khách quan. Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng để nhận xét về tần số xuất hiện, về hiệu quả sử dụng của các loại lí lẽ, các phương tiện ngôn ngữ (kiểu cấu trúc câu, các liên từ…) khi chúng tham gia vào lập luận. Qua đó chúng ta sẽ càng thấy rõ vai trò quan trọng của ngôn ngữ hoạt động trong lập luận nói riêng và trong giao tiếp nói chung, đồng thời cũng nhận ra được đặc thù lập luận của truyện cổ tích Việt Nam. 6. Đóng góp của đề tài Luận văn không có tham vọng giải quyết những vấn đề lí thuyết, vì như đã nói, lập luận là một vấn đề còn đang bàn cãi. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của Dụng học, lí thuyết lập luận còn trong quá trình khẳng định mình. Có điều tiếp cận từ các khoa học liên ngành, rõ ràng lập luận cũng không phải là cái gì quá mới mẻ, bằng chứng là toán học từ lâu đã đề cập đến. Tuy nhiên, lập luận ngôn ngữ vẫn là vấn đề còn mới, thành tựu của nó chưa nhiều. Hy vọng rằng việc nghiên cứu phương thức lập luận trong truyện cổ tích sẽ góp phần nhất định trong việc xác lập và cung cấp tư liệu về vấn đề lập luận ngôn ngữ, cũng như nghiên cứu văn học dân gian nói chung và nghiên cứu làm rõ đặc trưng lập luận của truyện cổ tích nói riêng. Bên cạnh đó công việc nghiên cứu này sẽ góp phần không nhỏ vào quá trình định hướng giảng dạy truyện cổ tích trong nhà trường phổ thông. Bởi vì ở bậc phổ thông, truyện cổ tích chiếm một vị trí khá quan trọng trong phần văn học dân gian (lớp 6, lớp 7 và lớp 10). Đề tài tuy có tính hấp dẫn riêng, song cho đến nay hầu như chưa được quan tâm nhiều. Mặc dù truyện cổ tích được khai thác ở nhiều phương diện nhưng chưa có công trình nào tập trung đi sâu vào vấn đề mà luận văn đang nghiên cứu: ứng dụng lí thuyết lập luận vào nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương Chương 1 sẽ làm rõ bản chất của lí thuyết lập luận, từ đó tạo cơ sở lí luận vững chắc để vận dụng vào nghiên cứu lập luận trong truyện cổ tích. Chương 2 chúng tôi tìm hiểu phương thức lập luận có trong truyện cổ tích. Chương 3 sẽ nhận xét cách sử dụng các phương thức lập luận của truyện cổ tích và so sánh với lập luận trong một số thể loại khác. CHƯƠNG I: LÍ THUYẾT LẬP LUẬN Lập luận có vai trò rất quan trọng. Song, là “một khoa học – khoa học của lời nói”, lập luận còn có ý nghĩa hơn trong xu hướng toàn cầu hóa, khi mà lập luận càng sắc bén, thuyết phục thì mục đích đạt được càng cao. 1.1. Thế nào là lập luận? Một các khái quát lập luận được định nghĩa như sau: “Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (hay một số) kết luận hay chấp nhận một (hay một số) kết luận nào đó.” [17, 196] Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toán đã định nghĩa: “Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới.” [9, 155] Nhìn chung các tác giả trên có sự thống nhất trong định nghĩa lập luận. Để đi sâu hơn vào khái niệm này, chúng ta cần phân tích các phương diện khác nhau của nó. 1.1.1. Trước hết cần phân biệt hai kiểu hành động lập luận: “lập luận theo diễn từ chuẩn mực” (sự lập luận trong khoa học tự nhiên) và lập luận qua ngôn ngữ (đối tượng của luận văn này). 1.1.1.1 Lập luận trong khoa học tự nhiên Người ta dựa trên các sự kiện (luận cứ) và các quy tắc suy diễn logic để tạo nên một lập luận (các phát ngôn miêu tả sự kiện làm luận cứ và các phát ngôn nêu kết luận có quan hệ suy diễn logic tất yếu với nhau). VD1: Nếu hai tam giác có các cặp cạnh tương ứng bằng nhau thì chúng bằng nhau. Ở đây ta có sự kiện: tam giác ABC và tam giác A’B’C’ có: AB=A’B’, AC=A’C’, BC=B’C’; điều này sẽ tất yếu dẫn đến kết luận: tam giác ABC=A’B’C’ 1.1.1.2 Lập luận qua ngôn ngữ Sự lập luận qua ngôn ngữ lại khác. Thay cho các quy tắc suy diễn logic (dựa trên những lí lẽ khoa học) là những quy tắc ngôn từ trong lập luận. “Hayakawa trong “On pense avec les mots”, France- empire, 1996 có nhận xét rằng trong giao tiếp thông thường – không kể các văn bản khoa học – các phát ngôn miêu tả thuần túy (miêu tả chỉ để miêu tả) có số lượng rất thấp. Thường thì người ta miêu tả một cái gì đấy là để hướng người nghe tới một cái gì đấy nằm ngoài sự vật, hiện tượng, sự kiện được miêu tả” [10, 154]. Thực vậy, hoạt động ngôn từ trong thực tế đã thể hiện điều này rất rõ. Chúng ta hãy khảo sát: VD2: “Thấy bác là tá điền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng, phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu.” (số 8, tr 124) Cụm từ “tính nết thật thà chăm chỉ” trong phát ngôn “Thấy bác là tá điền cũ, tính nết thật thà, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng” không chỉ miêu tả thuần túy về “nhân cách” mà với nội dung “người thật thà chăm chỉ đáng tin cậy” rất phù hợp để hướng tới, kết hợp với “(nên) phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu”. Cụm từ “tính nết thật thà chăm chỉ” với ý nghĩa đó không thể kết hợp với một phát ngôn theo hướng ngược lại: “(vì) thấy bác thật thà chăm chỉ (nên) phú ông không giao cho bác nuôi trâu.” Nói rõ hơn, “Thấy bác là tá điền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ” đã báo trước, đã định hướng cho kết luận “phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu”. VD3: Nhân giàu nhưng không quên tình bầu bạn. (số 7, tr 120) Kết cấu “A nhưng B” cho biết trước B bao giờ cũng hướng tới một kết luận đi ngược với kết luận tất yếu rút ra từ A. Nói cách khác, câu này luôn bộc lộ một lí lẽ (/gọi là lẽ thường) “A thì không B”. Câu trên bộc lộ một lẽ thường là “Người giàu thì quên mất tình nghĩa”. Vì thế phát ngôn “Nhân giàu” không thể kết hợp với “quên tình bầu bạn” mà phải “không quên tình bầu bạn”. Một cách cụ thể, chính cấu trúc nghịch nhân quả “A nhưng B” này đã định hướng cho kết luận. Và ở đây “lập luận là hành động bằng logic ngôn từ mà người nói thực hiện nhằm tác động tới người nghe (quần chúng)” [16, 168] 1.1.2. Sự khác nhau về phương pháp của hai loại lập luận 1.1.2.1 Lập luận khoa học Loại lập luận này sẽ dùng phương pháp suy luận hình thức, theo những khuôn mẫu suy luận chặt chẽ. Ở đấy, chân lí được khẳng định qua các tiền đề và các quy tắc suy diễn theo một ngôn ngữ hình thức, nhân tạo và phổ quát cho mọi nơi, mọi lúc. VD4: ta có một lập luận kiểu “tam đoạn luận” của Aristote, một logic hình thức cổ điển như sau (ví dụ dẫn theo Jacques Moeshler, có tính khôi hài): Tất cả các nhà ngôn ngữ học đều tâm thần. (Mà) Ông X là nhà ngôn ngữ học. (Vậy) Ông X bị tâm thần. Hoặc lập luận có thể dùng hai quy tắc suy diễn của logic mệnh đề: Modus Ponens: a→b a b Modus Tollens: a →b -b -a 1.1.2.2 Lập luận thuyết phục Lập luận thuyết phục là một hành vi tại lời. Phương pháp ở loại lập luận thuyết phục được gọi là “logic không hình thức”. Lí lẽ ở đây theo những tri thức, phong tục, tập quán, nhân sinh quan,…của một xã hội, của một dân tộc mà hầu hết cá thể sống trong xã hội đó đều tôn trọng và tuân thủ. Tuy nhiên không nên đồng nhất thuyết phục và lập luận. Không phải cứ lập luận là thuyết phục được người tiếp nhận. Aristote nói tới ba yếu tố phải đạt được để lời nói của mình thuyết phục người nghe. Đó là: (1) Yếu tố lí lẽ. Muốn thuyết phục được phải có lí lẽ. (2) Yếu tố biểu cảm, gây xúc động. Có lí chưa đủ thuyết phục. Lời nói phải gây được tình cảm, thiện cảm của người tiếp nhận. (3) Yếu tố về đặc điểm tâm lí, tính chất, dân tộc, văn hóa của người nghe. Lời nói chẳng những phải có lí, phải có tình cảm mà còn phải phù hợp với sở thích, tính chất hoặc truyền thống dân tộc, văn hóa người tiếp nhận. Khi nhấn mạnh tới yếu tố lí lẽ, lập luận được xếp vào logic hình thức của Aristote. Nhấn mạnh tới yếu tố biểu cảm, lập luận được xếp vào khoa hùng biện, tu từ học (Rhetoric). Nhấn mạnh tới yếu tố thứ ba, lập luận được xếp vào khoa tâm lí học. Lập luận chỉ là một điều kiện để thuyết phục, còn kết luận có thuyết phục được hay không lại là chuyện khác. Về phương diện này, “lập luận là thao tác mà người nói biểu hiện những lí lẽ tốt nhất làm người nghe chấp nhận hoặc đi tới một xác tín nào đó”. [16, 169] Qua những điều phân tích trên, chúng ta có thể rút ra một định nghĩa hẹp hơn, gần hơn về “lập luận”: “Lập luận trong ngôn ngữ tự nhiên là loại lập luận nhằm thuyết phục người khác nghe theo điều mà mình đề ra, dựa trên các lí lẽ thực tiễn và sử dụng cả phương pháp logic hình thức hoặc không hình thức”. 1.2. Mô hình khái quát của một lập luận Một mô hình lập luận có 3 thành tố logic: tiền đề (luận cứ), kết đề và lí lẽ. D (Tiền đề, luận cứ) C (Kết đề) L (Lí lẽ, luật suy diễn) 1.2.1. Tiền đề (luận cứ) 1.2.1.1Tiền đề là gì? Tiền đề là một hay nhiều dữ kiện xuất phát làm căn cứ cho lập luận, từ đó suy ra kết đề. Các sự kiện chỉ có trở thành luận cứ khi nào nó có khả năng “định hướng rõ ràng cho một kết luận” (định hướng lập luận). Thường thì luận cứ đó là một phát ngôn với nội dung miêu tả thuộc tính, có kèm thái độ đánh giá của người nói về sự kiện đó. VD5: “Ngày xưa, một nhà nọ có Tân và Lang là hai anh em ruột, đặc biệt dáng người và mặt mày giống nhau như đúc, đến nỗi chính người trong nhà cũng nhiều phen lầm lẫn.” (Số 2, tr 101) Tiền đề: “hai anh em ruột, đặc biệt dáng người và mặt mày giống nhau như đúc” đã định hướng cho kết luận “đến nỗi chính người trong nhà cũng nhiều phen lầm lẫn” theo lí lẽ nội tại: người, vật quá giống nhau thì khó phân biệt. Có những lập luận chỉ cần một luận cứ. Nhưng có thể xuất hiện nhiều luận cứ khác nhau cho một kết luận. Các luận cứ này có thể xuất hiện trong cùng một phát ngôn hay ở những phát ngôn khác nhau, liền kề, điều bắt buộc là chúng phải cùng hướng: có nghĩa là luận cứ này phải bổ sung cho luận cứ kia, chúng cùng giúp nhau, hỗ trợ nhau để cùng đi đến, hướng đến một kết luận. Những luận cứ xuất hiện sau được gọi là những “luận cứ tăng cường, luận cứ bổ sung” (thường thì có hiệu lực lập luận yếu hơn luận cứ được nêu đầu tiên). Đây cũng chính là biện pháp “tăng cường luận cứ” nhằm nâng cao sức thuyết phục cho lập luận. VD6: Trở lại với ví dụ 2: “Thấy bác là tá điền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng, phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu.” Để dẫn ra kết luận “phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu” người nói đã đưa ra ba luận cứ: bác là tá điền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng. Ba luận cứ này làm tăng sức thuyết phục cho kết luận: phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu. Như đã được đề cập từ trước, đến đây chúng ta càng thấy rõ “định hướng lập luận” được tạo nên do cấu trúc và nội dung của các phát ngôn làm tiền đề. Tuy nhiên việc “định hướng lập luận” không chỉ do tiền đề đảm trách mà trong một lập luận vai trò này còn do Tác tử thực hiện. 1.2.1.2. Tác tử (Operator) và định hướng lập luận Trong ngôn ngữ tồn tại một lớp từ định hướng lập luận. Mỗi khi có sự xuất hiện của một từ trong lớp từ này trong câu, người ta chỉ có thể rút ra một kết luận về sự kiện được đề cập đến trong câu đó theo hướng nhất định, “không thể rút ra một kết luận theo hướng ngược lại”. VD7: Quan truyền cho mấy cơ lính dùng đòn dây xúm vào khiêng nhưng rốt cuộc tượng vẫn không nhúc nhích. (số 41, tr 344) Cấu trúc “A nhưng B” đã định hướng cho một kết luận B trái ngược với những gì được nói ở A. Ta nói “nhưng” là tác tử đảo hướng lập luận. VD8: Bác bỏ những lời can ngăn việc nhà vua hiến đất để lấy công chúa Đại Việt, vua Chàm đã nói: “Tất cả những đất đai này đều là của trẫm. Mà trẫm chả vui gì nếu không lấy được công chúa Đại – Việt. Hơn nữa, giữa hai nước máu chảy đã nhiều rồi. Ngày nay trẫm muốn mượn mối nhân duyên để dẹp yên can qua khốc hại.” (Số 34, tr 283) Từ “hơn nữa” đã cộng hướng nghĩa cho hai luận cứ: “tất cả đất đai này đều là của trẫm; trẫm chả vui gì nếu không lấy được công chúa Đại – Việt” với luận cứ “giữa hai nước máu đã chảy nhiều rồi”; để đưa đến kết luận: “trẫm muốn mượn mối nhân duyên để dẹp yên can qua khốc lại”. Từ “hơn nữa” cho thấy luận cứ “giữa hai nữa máu đã chảy nhiều rồi” là nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng để vua Chàm quyết định dâng đất cưới công chúa Đại- Việt. Sau “hơn nữa” không thể nói “hai nước lâu nay đã có mối giao hòa tốt đẹp”. Vậy, “Tác tử là những yếu tố tác động vào một phát ngôn sẽ tạo ra một định hướng nghĩa tạo nên tiềm năng cho một lập luận xác định” [18, 202]. Trong tiếng Việt, các từ định hướng nghĩa: vả, vả lại, hơn nữa, có, những,…đều là các tác tử lập luận. 1.2.2 Kết đề (kết luận) 1.2.2.1 Kết đề là gì? Là khẳng định đích hay là một khẳng định mục tiêu. Kết đề là điểm cuối cùng mà tiền đề hướng tới (và người nói cũng muốn người nghe tin theo). Ở các ví dụ đã nêu kết đề lần lượt là: - Phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu. (VD2) - Không quên tình bầu bạn. (VD3) - Ông X bị bệnh tâm thần. (VD4) - Người nhà cũng nhiều phen lầm lẫn. (VD5) Trong thực tế, nhiều khi lập luận không nêu ra trực tiếp kết đề mà để cho người nghe tự rút ra kết luận (đặc biệt trong những lập luận dùng hình thức là câu hỏi). Nhưng cho dù kết đề có hàm ẩn như vậy thì nguyên tắc lập luận vẫn đòi hỏi phải làm sao cho người nghe rút ra được chúng một cách dễ dàng, đúng như ý người nói. VD8: Nhưng tính vợ Nhân không được như chồng. Xưa nay đối với những người rách rưới, chị ta thường tỏ vẻ coi thường. Vả, chị ta không cùng sống những ngày hàn vi với Nhân nên có thấy đâu tình nghĩa giữa Nhân và Quắc như thế nào. (Số 7, tr 120) Tuy không nói trực tiếp nhưng với nội dung của các luận cứ được nêu ra cùng tác tử “vả” đã giúp người đọc dễ dàng rút ra kết luận: vợ Nhân đối xử không tốt với Quắc (bạn của Nhân). 1.2.2.2 Kết tử (connector) Đó là những yếu tố tác động vào một hay nhiều phát ngôn để làm thành một lập luận. Kết tử liên kết luận cứ với kết luận. Vì thế các kết tử thường là các (cặp) liên từ, các từ tình thái, các từ biểu hiện quan hệ mục đích. Có thể nói nhờ có kết tử mà các phát ngôn trở thành luận cứ hay kết luận trong một lập luận. Có thể phân kết tử ra thành hai loại: • Kết tử dẫn nhập luận cứ: (bởi) vì, nếu, hễ,… • Kết tử dẫn nhập kết đề: nên, thì, tất nhiên, chắc chắn, nhất định, để, và,… VD9: Hễ nó vác mặt về Phong – Châu thì cho phép lạc tướng chém chết trước, tâu sau. (Số 2, tr 255) VD10: Trong người bần tăng có một tờ lệnh chỉ của hoàng đế. Trong đó hoàng đế đã ra lệnh hễ người nào phạm vào người bần tăng (thì) sẽ bị án trảm quyết. Vậy bần tăng mong người đừng phạm vào phép của thiên tử. (Số 10, tr 134) Và cũng do thói quen rút gọn khi dùng ngôn ngữ để giao tiếp của con người, không phải lúc nào các cặp liên từ cũng xuất hiện đầy đủ. VD11: Hãy gọi nó là dưa Tây, vì thứ dưa này được bầy chim đưa từ phương Tây lại, từ đất liền ra cho chúng ta. (Số 1, tr 99) Do đó, vị trí của tiền đề và kết đề khá linh hoạt. • Tiền đề - kết đề • Kết đề - tiền đề Không chỉ rút gọn bớt một trong một cặp kết từ mà có cả những LẬP LUẬN VẮNG KẾT TỬ. Cũng như các câu ghép có thể bỏ liên từ, lập luận không chỉ rút bớt mà còn có thể bỏ hẳn các kết tử. Lúc này, quan hệ logic ngữ nghĩa giữa các phát ngôn đã làm nên sự liên kết để tạo thành một lập luận. VD12: (Vì) anh chàng đánh giậm không biết từ chối thế nào, (nên) cuối cùng dẫn người đàn bà kia về túp lều của mình dựng bên bờ sông. (Số 41, tr 342) Có những lập luận được trình bày thành một chuỗi câu thể hiện hành vi mệnh lệnh không cần kết tử. VD13: Chú nhớ chèo cho vững nghe không. Che mui cho kín. Để chúng ta mà ước thì liệu chừng kẻo roi quắn đít đó. (Số 6, tr 118) Tóm lại, tác tử và kết tử là những “chỉ dẫn lập luận”. Đó là những dấu hiệu hình thức, nhờ chúng mà ta có thể nhận ra định hướng lập luận (kết đề) và các đặc tính lập luận của các luận cứ trong một quan hệ lập luận. 1.3. Lập luận theo logic tự nhiên: lí lẽ chung cũng gọi là lẽ thường (Topos, topoi) 1.3.1 Thuật ngữ Topos Các phát ngôn làm nên tiền đề và kết đề trong một lập luận được nối kết với nhau trên bề mặt hình thức là những kết tử. Nhưng quan trọng hơn, ở bề sâu, cơ sở để nối kết các nội dung phát ngôn này lại, theo O. Ducrot chính là Topos (số nhiều Topoi). Thuật ngữ trên dựa theo thuật ngữ “Lieux communes” của tiếng Pháp. “Lieux communes” lại có gốc La tinh là “Loci cummunes”. Từ La tinh này lại được dịch từ một thuật ngữ Hy lạp “To poi koinoi”. Theo nghĩa cổ, những từ ngữ đã nói đều có nghĩa là “những lập luận, những lí lẽ vận dụng chung cho mọi trường hợp, mọi chủ đề”. Trong tiếng Pháp, ngoài “Topos” còn có “Lieux”, “Loci” là ba từ dùng để trỏ khái niệm này.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan