Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn ở tỉnh vĩnh phúc...

Tài liệu Làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn ở tỉnh vĩnh phúc

.PDF
120
690
123

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________ VŨ THỊ HỒNG THẮM LÀNG NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NÔNG THÔN Ở TỈNH VĨNH PHÚC LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________ VŨ THỊ HỒNG THẮM LÀNG NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NÔNG THÔN Ở TỈNH VĨNH PHÚC Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. AN NHƢ HẢI HÀ NỘI - 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN................................................ 6 1.1. Làng nghề, đặc điểm và phân loại làng nghề .............................................. 6 1.1.1. Đặc điểm của làng nghề ............................................................................ 6 1.1.2. Phân loại làng nghề ................................................................................ 13 1.2. Vai trò và những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề .................... 14 1.2.1. Vai trò của làng nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn . 14 1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề ........................... 23 1.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề của một số tỉnh trong nước ................... 27 1.3.1. Khái quát sự phát triển làng nghề của một số tỉnh ................................... 27 1.3.2. Một số bài học từ các tỉnh có thể vận dụng vào phát triển làng nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc ....................................................................................... 38 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY ................ 40 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội tỉnh Vĩnh Phúc tác động đến sự phát triển làng nghề ................................................................................ 40 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh ......................................... 40 2.1.2. Những lợi thế và hạn chế của Vĩnh Phúc trong phát triển làng nghề ..................48 2.2. Tình hình phát triển làng nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2000 đến nay ...... 49 2.2.1. Các chủ trương và chính sách nhằm phát triển làng nghề của Nhà nước và chính quyền địa phương ............................................................ 49 2.2.2. Quá trình tổ chức hỗ trợ và khuyến khích phát triển làng nghề ............... 51 2.3. Đánh giá thực trạng làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Vĩnh Phúc....................................................................................... 56 2.4. Những vấn đề đặt ra trong phát triển làng nghề gắn liền với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ............................................................................... 71 Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở TỈNH VĨNH PHÚC ............................................... 77 3.1. Xu hướng vận động của làng nghề Việt Nam và phương hướng phát triển làng nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 ..................................... 77 3.1.1. Xu hướng vận động của làng nghề Việt Nam trong 10 năm tới............... 77 3.1.2. Phương hướng tổng quát và những mục tiêu cụ thể phát triển làng nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 ..................................................... 80 3.2. Các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề ở Vĩnh Phúc trong thời gian tới ............................................................................................ 87 3.2.1. Hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển làng nghề trên toàn địa bàn .... 87 3.2.2. Giải pháp về nguồn lực ........................................................................... 90 3.2.3. Giải pháp về thị trường ........................................................................... 99 3.2.4. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế ở nông thôn ...................................... 103 3.2.5. Nâng cao năng lực quản lý của các cấp chính quyền địa phương ................. 106 KẾT LUẬN...................................................................................................... 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 111 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Làng nghề có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Phát triển làng nghề là một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định tình hình chính trị - xã hội, đặc biệt là đối với khu vực nông thôn. Thực tế đã chứng minh vai trò quan trọng của làng nghề đối với phát triển kinh tế nông thôn. Sự phát triển làng nghề sẽ góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, sử dụng và phát huy các nguồn lực về lao động, vốn và các nguồn lực khác trong nhân dân để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, tác động đến việc phân công lao động xã hội, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Chính vì thế, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp khuyến khích tạo điều kiện để các làng nghề được khôi phục và phát triển. Thực hiện chủ trương đó, các địa phương đã đưa vào quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề, làng nghề truyền thống và xây dựng các làng nghề mới. Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm ở phía bắc khu vực đồng bằng Sông Hồng, một tỉnh đồng bằng có trung du và miền núi, một tỉnh thuần nông. Ngoài nghề nông, toàn tỉnh hiện có 39 làng nghề, trong đó có 8 làng nghề truyền thống, theo đó là những nghề phụ gia đình. Một số làng nghề này đã trở nên quen thuộc và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm tiêu dùng trên địa bàn, trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Những sản phẩm của các làng nghề mang bản sắc văn hoá của địa phương như làng gốm Hương Canh, làng đá Hải Lựu, làng mộc Bích Chu, làng đan lát Triệu Đề, mộc Thanh Lãng. Nghề 1 mây tre đan xuất khẩu đã giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động và tạo nguồn thu nhập cho nhiều hộ nông dân ở xã Cao Phong huyện Lập Thạch… Trong thời gian qua, các cấp đảng và chính quyền trong tỉnh đã có những chính sách và biện pháp khuyến khích khôi phục và phát triển các làng nghề trên địa bàn. Đã tổ chức đào tạo nghề cho nhiều người dân trong tỉnh với nhiều phương thức khác nhau. Đã có những biện pháp hỗ trợ các làng nghề nhằm phát huy lợi thế của các địa phương… Tuy nhiên, phần lớn các làng nghề vẫn trong tình trạng bị mai một hoặc còn tồn tại thì sản xuất cầm chừng, sản xuất chưa ổn định, kém phát triển, quy mô còn nhỏ bé, thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý v.v… Những tiềm năng và lợi thế của làng nghề vẫn chưa được phát huy, thu nhập và đời sống của người dân chưa được cải thiện rõ rệt. Nếu không tiếp tục đẩy mạnh và có những giải pháp thiết thực cho việc khôi phục và phát triển những làng nghề này thì sẽ làm mất đi một nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; những mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không được thực hiện như mong muốn. Nhằm góp phần tìm giải pháp cho việc giải quyết tình trạng trên, tôi chọn đề tài: “Làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Phát triển làng nghề ở nông thôn là vấn đề rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với cả nước nói chung, các tỉnh nói riêng, nên đã thu hút được nhiều người và tổ chức quan tâm nghiên cứu. Đến nay, ở nước ta đã có những công trình nghiên cứu về phát triển tiểu, thủ công nghiệp nông thôn, phát triển làng nghề ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở những khía cạnh và phạm vi khác nhau. Đó là: 2 - Đề tài cấp Bộ: “Bảo tồn và phát triển các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa” của Viện Kinh tế học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, tháng 12 năm 1999. - Đề tài khoa học cấp Nhà nước có mã số KC.0809 “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi trường ở các làng nghề Việt Nam” do PGS.TS Đặng Kim Chi làm chủ nhiệm nghiên cứu chuyên sâu về môi trường làng nghề nói chung. - Đề tài nghiên cứu khoa học do cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chủ trì: “Nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng CNH,HĐH nông thôn VIệt Nam” tháng 9 năm 2003. - Đề tài “Hoàn thiện các giải pháp kinh tế - tài chính nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề ở nông thôn vùng đồng bắng sông Hồng” của Học viện Tài chính (Bộ Tài chính), năm 2004. - Luận án tiến sĩ của tác giả Mai Thế Hởn với đề tài: “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH ở vùng ven thủ đô Hà Nội”, năm 2000. - Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Minh Yến với đề tài: “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH ”, năm 2003. - “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” của Bùi Văn Vượng. Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội 1998. - “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa” của tiến sĩ Dương Bá Phượng, Nxb. Khoa học và Xã hội, 2001. Ngoài ra còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các bài tham luận tại các hội thảo quốc tế và trong nước đề cập đến sự phát triển của làng nghề, làng nghề truyền thống với nhiều nội dung khác nhau. Các công trình và các bài viết trên đã nghiên cứu các vấn đề khác nhau về làng nghề nói chung hoặc một tỉnh nói riêng trong những năm gần đây, 3 như vấn đề: bảo tồn, khôi phục và phát triển làng nghề; giải quyết việc làm và thu nhập thông qua phát triển làng nghề cho lao động nông nhàn; thị trường cho đầu ra cho các làng nghề; giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về làng nghề trong phát triển trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn ở Vĩnh Phúc. Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn là làm rõ vị trí, vai trò, thực trạng làng nghề ở Vĩnh Phúc hiện nay từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm phát triển làng nghề góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc dưới góc độ Kinh tế chính trị học. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên đề tài đặt ra các nhiệm vụ sau đây: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề. - Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội ở Vĩnh Phúc từ năm 2000 đến nay. - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển làng nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Các quan hệ kinh tế xã hội trong phát triển làng nghề trước yêu cầu phát triển kinh tế nông thôn góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. * Phạm vi nghiên cứu: Các làng nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2000 đến nay. 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng, Nhà nước Việt Nam để nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ sử dụng các phương pháp của Kinh tế chính trị học và một số khoa học kinh tế khác bao gồm: trừu tượng hóa, lôgic và lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kê kinh tế, dự báo, điều tra, khảo sát, so sánh… để phân tích thực hiện nội dung nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề trên một địa phương trung du miền núi phía Bắc trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. - Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển làng nghề trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. - Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu, thiết thực nhằm thúc đẩy phát triển đúng hướng, có hiệu quả các làng nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về làng nghề trong phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn. Chƣơng 2: Thực trạng làng nghề trong phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2000 đến nay. Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề ở Vĩnh Phúc. 5 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN 1.1. Làng nghề, đặc điểm và phân loại làng nghề 1.1.1 Đặc điểm của làng nghề 1.1.1.1. Khái niệm về làng nghề Làng nghề là phạm trù ghép của hai từ “làng” và “nghề”. Làng là một phạm trù dùng để chỉ một khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến. Làng ở Việt Nam đã xuất hiện từ thời Hùng Vương, nó được hình thành trên cơ sở những công xã nông thôn, trong đó mỗi công xã gồm một số gia đình, có một tinh thần cộng đồng, cộng cảm, sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Sự tập trung đó là do nghề trồng lúa nước (đã có ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ VII TrCN) phải thường xuyên chống thiên tai mà công việc này một gia đình không thể đảm đương được, cần có sự liên kết của cộng đồng, gắn bó với nhau và cùng chung sống chết. Lúc đầu, nguồn sống cơ bản của người dân trong các làng là sản phẩm nông nghiệp. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất làm cho sản xuất nông nghiệp có của dư thừa, làm ra đời kinh tế hàng hoá. Dần dần trong làng có những người làm nghề buôn bán, rồi có những người chế tác công cụ lao động, sản xuất đồ mộc, đan lát đồ dùng, nuôi tằm, kéo tơ, dệt vải... tức là chuyển sang sản xuất thủ nghiệp. Trong thời kỳ đầu, sản xuất công nghiệp chỉ ở quy mô gia đình và bị phụ thuộc kinh tế tự nhiên giống như cách mô tả của V.I.Lênin: "ở đây, nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là một mà thôi" [34, tr.411-412]. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và kinh tế hàng hoá, những người sản làm nghề thủ công vốn coi công việc của mình là một nghề phụ trong nghề nông chuyển sang thành một nghề 6 độc lập. Tuy họ đã rời bỏ sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn gắn chặt với làng quê, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sống bằng nghề thủ công nghiệp. Bên cạnh những người này, trong làng vẫn có những người làm nông nghiệp kiêm thợ thủ công. Trong quá trình phát triển, số người trong làng chuyển hẳn sang sản xuất các mặt hàng thủ công dần tăng lên, có đội ngũ thợ, có quy trình công nghệ, quy mô sản xuất hàng thủ công tăng lên đến một mức độ nhất định làm cho làng thuần nông chuyển biến thành các làng nghề. Tuy đã được hình thành từ lâu, nhưng đến nay, ở nước ta vẫn tồn tại những quan niệm khác nhau về làng nghề. Chẳng hạn, theo giáo sư Trần Quốc Vượng, "Làng nghề là làng tuy vẫn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một số nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp. có phường, có ông trùm, có phó cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định "sinh ư nghệ, tử ư nghệ", "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công" [44, tr.27]. Đây là quan niệm tuy đúng với làng nghề truyền thống, nhưng lại không thích hợp với các làng nghề nói chung và càng không phải là làng nghệ mới được đi vào hoạt động. Nếu cho rằng phát triển làng nghề phải có nghề cổ truyển nổi trội, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp thì ngày nay rất khó có được một loại làng nghề như vậy. Một quan niệm khác cho rằng, "Làng nghề là những làng đã có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm" [23, tr.15]. Còn trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, thì "Làng nghề là tôn, ấp, bản có trên 35% số hộ hoặc lao động 7 tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ ngành nghề nông thôn chiểm trên 50% tổng thu nhập của làng". Các định nghĩa trên đã khắc phục được nhược điểm của quan niệm thứ nhất, quan tâm đến phải có tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ ngành nghề, nhưng lại cố định tiêu chí xác định làng nghề và việc cố định những tiêu chí trong khái niệm sẽ làm cho các nhà hoạch định chính sách khó xử lý khi chế độ ưu đãi đối với làng nghề đã thay đổi thì phải chăng khái niệm cũng thay đổi. Quan niệm thứ tư của Theo TS. Dương Bá Phượng thì “Làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập”. Quan niệm này đã nêu lên được hai yếu tố cơ bản cấu thành của làng nghề là làng và nghề, nêu lên được vấn đề nghề trong làng tách ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập nên phù hợp với điều kiện mới hơn, tránh được hạn chế của quan niệm thứ hai, song vẫn mắc phải hạn chế của quan niệm thứ nhất. Có nhiều chỉ tiêu phản ánh quy mô các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị sản xuất và lao động làm nghề thủ công nghiệp. Song, do nghề gắn với làng vốn có điểm xuất phát là nông nghiệp, nên phải so sánh tỷ lệ lao động (hay hộ) và thu nhập của thủ công nghiệp với tổng số lao động và tổng thu nhập của làng. Nghĩa là, tỷ lệ lao động làm nghề và tỷ lệ thu nhập do nghề mang lại so với lao động và thu nhập của làng là tiêu thức xác định làng đó có phải là làng nghề hay không. Thuật ngữ LÀNG NGHỀ được tạo thành từ hai chủ thể “làng” và “nghề”. Nghề được đề cập ở đây là nghề TTCN được tiến hành trong phạm vi làng và gắn với làng. Có thể hiểu một cách đơn giản làng nghề là làng có hoạt động TTCN. Tuy vậy, không phải quy mô của nghề ở bất cứ mức độ nào thì làng cũng được gọi là làng nghề. Làng được gọi là làng nghề khi các hoạt động TTCN đủ lớn đến một mức độ nào đó và mang tính ổ định. Như vậy, khái niệm làng nghề phải thể hiện cả về định tính và định lượng. Định tính 8 của làng nghề thể hiện sự khác biệt của làng nghề so với làng thuần nông (hoặc có ngành nghề phụ quy mô nhỏ) hoặc với phố nghề ở thành thị. Định lượng của khái niệm làng nghề là chỉ ra làng nghề đạt đến quy mô nào và mang tính ổn định ra sao. Vì có điểm xuất phát là làng gắn với nông nghiệp nên quy mô TTCN của làng phát triển đến mức độ nào đó mới được gọi là làng nghề vì ở trong làng nên việc định lượng, xác định quy mô nghề vừa phải xem xét chính bản thân hoạt động TTCN, vừa phải đặt trong quy mô làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt động kinh tế bởi vì đặc trưng đầu tiên của làng Việt Nam là gắn với số hộ, số lao động và thu nhập từ nông nghiệp. Có nhiều chỉ tiêu phản ánh quy mô các hoạt động TTCN, trong đó hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị sản xuất và lao động làm nghề TTCN. Tuy vậy, do nghề gắn liền với làng vốn có điểm xuất phát là nông nghiệp nên phải so sánh tỷ lệ lao động (hay hộ) và thu nhập của TTCN với tổng số lao động và tổng thu nhập của làng. Như vậy, tỉ lệ lao động làm nghề và tỉ lệ thu nhập do nghề đưa lại so với lao động và thu nhập của làng là bao nhiêu thì được gọi là làng nghề. Vấn đề đặt ra ở đây cũng tương tự như trong kinh tế học thường gặp như khái niệm trang trại và tiêu chí trang trại, khái niệm hộ nghèo và chuẩn phân loại hộ nghèo,… Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những điểm hợp lý của các quan niệm nêu trên và nghiên cứu của bản thân, theo tác giả luận văn thì làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công hầu như được tách hẳn ra khỏi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỉ lệ nhất định về lao động làm nghề cũng như về mức thu nhập từ nghề so với tổng số lao động và thu nhập của làng. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, ươm tơ, dệt vải, dệt tơ lụa... Trước đây, làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển mạnh của ngành kinh tế dịch vụ, nên ở các tỉnh còn có các nghề buôn bán dịch vụ trong nông thôn cũng được gọi là làng nghề. Trong một làng nghề có thể chỉ có một nghề, 9 nhưng cũng có thể có nhiều nghề. Điều này là tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế có trong làng. 1.1.1.2. Đặc điểm của làng nghề Khác với làng thuần nông và phố nghề, làng nghề được ra đời và phát triển ở nông thôn, có mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp, lao động mang tính chất thủ công và chủ yếu là lao động tại chỗ; vốn ít, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu và mang tính chất thủ công; hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu, đa số sản phẩm được sản xuất có tính chất đơn chiếc và nhiều sản phẩm mang bản sắc văn hoá của vùng, của dân tộc. Quá trình phát triển kinh tế thị trường, CNH và HĐH nông nghiệp, nông thôn làm cho các quan hệ kinh tế ở làng xã thay đổi, các làng nghề cũng biến đổi theo. Dưới đây là những đặc điểm chủ yếu của làng nghề. - Làng nghề có quan hệ gắn bó với nông nghiệp, nhưng ít phụ thuộc vào nông nghiệp. Ở nước ta trước đây cũng như hiện nay, hầu hết các nghề đều lấy làng làm địa điểm hoạt động. Do thủ công nghiệp hình thành trong các làng, nên giữa nghề nông và nghề thủ công nghiệp có mối quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Sự phát triển của thủ công nghiệp trong làng phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp. Bên cạnh các hộ chuyên làm thủ công nghiệp, đa số các hộ trong làng làm nông nghiệp kiêm thủ công nghiệp. Sự phát triển của nông nghiệp tạo điều kiện để các hộ chuyển sang làm nghề thủ công nghiệp. Nông nghiệp được coi như "bàn đạp" để phát triển thủ công nghiệp trong làng. Hầu hết nguyên liệu của thủ công nghiệp trong làng do nông nghiệp tao ra (như chế biến nông sản, dệt vải, dệt chiếu...), một phần lớn nguồn vốn để hình thành làng nghề ban đầu có nguồn gốc từ tích luỹ nông nghiệp, sản phẩm làm ra trước hết là phục vụ nông nghiệp và cư dân nông thôn. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, xã hội, khi trình độ kinh tế phát triển cao hơn, hoạt động của làng nghề càng có xu hướng độc lập hơn đối với nông nghiệp. Nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề được đa dạng hoá trong 10 đó có cả sản phẩm của các ngành công nghiệp ở thành thị. Hơn nữa, khi nước ta đã là thành viên chính thức của WTO, nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề còn bị cạnh tranh quyết liệt từ các bạn hàng nước ngoài. Do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lợi thế nguyên liệu có nguồn gốc trực tiếp từ tự nhiên giảm xuống, làm cho sự tồn tại và phát triển của làng nghề gắn liền với nguyên liệu tại chỗ từ nông nghiệp có xu hướng giảm xuống. Làng nghề ngày càng có tính độc lập hơn đối với nông nghiệp. - Lao động trong làng nghề là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật cao với tay nghề khéo léo của thợ thủ công, giữa lao động tại chỗ với lao động từ nơi khác đến. Trong các làng nghề hiện nay, trừ một số khâu công việc hoặc những công việc mang tính bí quyết nghề nghiệp, còn lại là lao động phổ thông, trình độ thấp, hầu hết là lao động tại địa phương. Ngày nay, do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, xu hướng tự do hoá thương mại, nên việc sản xuất của làng nghề phải dựa vào những phương tiện, công cụ lao động mới. Nó đòi hỏi lao động trong làng nghề cũng phải được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật thì sản phẩm làm ra mới đủ sức cạnh tranh. Cũng do những tác động này, cơ cấu lao động trong làng nghề cũng phải thay đổi theo hướng ngày càng hiện đại. - Khả năng tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn. Hiện nay, vốn để các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề chủ yếu là tự có và đi vay trong làng, nhất là của những người họ hàng. Trong những năm gần đây, lượng vốn mà các làng nghề vay của các tổ chức tín dụng tuy đã tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời, do tác động của công cuộc đổi mới và do đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mức sống của người dân tăng lên, lượng tiết kiệm trong dân cư tăng lên và các dịch vụ nhất là dịch vụ tín dụng nông thôn được mở rộng sẽ là 11 điều kiện để các chủ kinh tế trong làng nghề tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn xã hội. - Trong làng nghề, có sự kết hợp công nghệ sản xuất hiện đại với kinh nghiệm, kỹ thuật thủ công theo hướng tiểu thủ công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo. Một số nghề được cơ giới hoá ở một vài công đoạn trong sản xuất (ví dụ xay bột để làm bánh tráng gạo bằng máy thay cho kỹ thuật thủ công trước đây, cưa gỗ và bào trơn bằng máy trong nghề mộc...). Dưới tác động của việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, trình độ cơ giới hoá của các làng nghề ngày càng tăng lên và theo hướng ngày càng hiện đại. Lượng vốn đầu tư cho một chỗ làm việc trong làng nghề theo đó cũng ngày càng tăng lên. - Hoạt động kinh tế của làng nghề, có sự chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên kết giữa các hình thức sản xuất kinh doanh trong làng nghề và giữa các làng nghề với công nghiệp lớn. Do tác động của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các hình thức sản xuất kinh doanh trong làng nghề cũng được cơ cấu lại theo hướng giảm số hộ cá thể, tăng số cơ sở như tổ hợp tác, hợp tác xã, công ty. Có sự liên kết giữa làng nghề với các tổ chức kinh doanh khác như liên kết dịch vụ đầu vào, đầu ra, liên kết giữa các công đoạn sản xuất do phát triển chuyên môn hoá. Các hiệp hội ngành nghề giúp nhau cũng phát triển... Kết cấu hạ tầng cho làng nghề phát triển mạnh mẽ. - Sản phẩm được sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng loạt với sản xuất đơn chiếc mang bản sắc văn hoá dân tộc. Tuy sản xuất trong làng nghề vẫn là sản xuất quy mô nhỏ, nhưng do áp dụng máy móc, nên để tránh lãng phí trong việc sử dụng máy móc thiết bị công nghệ thì việc sản xuất phải có khối lượng đủ lớn mới giảm được chi phí sản xuất, mới có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Đồng thời, do tác động của cạnh tranh, viêc sản xuất sản phẩm có tính đến những nét đặc trưng gắn với 12 các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương thông qua công nghệ thủ công, sản xuất đơn chiếc ở một số công đoạn là cần thiết để phát triển làng nghề hiện đại. Những đặc điểm nêu trên của làng nghề được xem xét gắn với những biến đổi của nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay ở cả nước nói chung và mỗi tỉnh, thành nói riêng. 1.1.2. Phân loại làng nghề Hiện nay, nước ta có có hơn 2.000 làng nghề thủ công và làng nghề truyền thống với rất nhiều nghề khác nhau đang hoạt động. Do sự đa dạng về chủng loại mặt hàng được sản xuất ra, nên ở nước ta có nhiều loại làng nghề. Dưới đây là một số tiêu thức dùng để phân loại làng nghề đã có ở Việt Nam. - Căn cứ vào theo thời gian làm nghề, người ta chia thành làng mới làm nghề (là những làng mới làm nghề tiểu thủ công trong vòng 20-30 năm trở đây) và là làng nghề lâu đời hay làng nghề truyền thống. - Căn cứ vào tính chất cũ mới của nghề, người ta chia thành làng làm nghề mới (là làng những nghề mới xuất hiện trong thời gian gần đây theo yêu cầu của xã hội đòi hỏi hay theo kỹ thuật tạo thành như nghề tái chế phế liệu: tái chế chì, tái chế nhựa…) và làng làm nghề truyền thống (là loại làng làm nghề truyền thống hay rất gần với nghề truyền thống). - Căn cứ vào số lượng nghề của làng, người ta chia ra làng 1 nghề (cả làng chỉ làm một nghề thủ công) và làng nhiều nghề (là làng ngoài nghề nông ra còn làm từ 2 nghề thủ công trở lên hay là loại làng có thêm vừa nghề thủ công, vừa nghề buôn). - Căn cứ vào mặt hàng sản xuất, có thể chia thành làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm; làng nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ; làng nghề làm đồ gốm sứ; làng nghề làm nghề kim khí; làng nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thông thường; làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng. 13 - Theo trình độ kĩ thuật, có các làng nghề kĩ thuật giản đơn, làng nghề có kĩ thuật phức tạp. Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình, tác giả luận văn sử dụng phương pháp phân loại theo ngành nghề nhằm xem xét sự biến động của các ngành nghề, từ đó thấy được khả năng phát triển của các làng nghề qua sự biến động sản phẩm của các ngành nghề. 1.2. Vai trò và những nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển làng nghề 1.2.1. Vai trò của làng nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Làng nghề là một bộ phận trong hoạt động kinh tế ở nông thôn, có vai trò quan trọng về nhiều mặt, không chỉ đối với sự phát triển kinh tế, mà còn đối với sự phát triển xã hội ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Nông thôn là khu vực địa lý trong đó dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông (sản xuất nông nghiệp). Trong nông thôn truyền thống, nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ yếu. Cùng với quá trình phát triển sản xuất xã hội và phân công lao động, ngoài sản xuất nông nghiệp, ở các nông thôn còn có các hoạt động phi nông nghiệp như tiểu, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Lúc đầu, tỷ trọng của những hoạt động này tương đối thấp, nhưng càng về sau tỷ trọng càng được nâng lên. Nói đến nông thôn, người ta thường trước hết quan tâm đến hoạt động kinh tế ở nông thôn. Kinh tế nông thôn là một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông - lâm - ngư nghiệp cùng với các ngành thủ công nghiệp truyền thống, các ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ khác... tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng và lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông thôn là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, ở nước ta, làng nghề được coi là một bộ phận hợp thành trong cơ cấu kinh tế nông thôn. 14 Sự phát triển của làng nghề có tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Vai trò của nó được thể hiện trên các khía cạnh như sau: Một là, sự phát triển của làng nghề là một lĩnh vực quan trọng để thu hút và phát huy các nguồn lực tiềm tàng trong nông thôn. Bất kỳ một khu vực địa lý hay nền kinh tế nào, nguồn lực sản xuất bao gồm nhân lực, vật lực, tái lực và trí lực đều được coi là điều kiện đặc biệt quan trọng tạo nên quá trình sản xuất, cơ sở của sự tăng trưởng kinh tế. Do nguồn lực sản xuất có giới hạn và ngày càng trở nên khan hiếm, nên việc huy động hết các nguồn tiềm năng là một đòi hỏi bức thiết để có sự tăng trưởng kinh tế. Điều này liên quan đến nhiều giải pháp, trong đó có việc tổ chức các hình thức kinh tế. Làng nghề là một hình thức tổ chức kinh tế thích hợp để huy động và phát huy các nguồn lực kinh tế ở nông thôn. Việt Nam là nước đông dân và có tốc độ phát triển dân số và lao động tương đối cao. Do kinh tế nông nghiệp lạc hậu vẫn là chủ yếu, năng suất lao động quá thấp (hiện nay lao động nông nghiệp chiếm gần 60% lao động xã hội và dân số nông thôn khoảng 70% dân số toàn quốc), diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp nên tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm có nguy cơ gia tăng, đời sống của nông dân còn nhiều khó khăn. Sự phát triển của làng nghề tạo thêm điều kiện sử dụng lao động nông nhàn ở nông thôn (hiện nay ở nước ta có khoảng 18% thời gian lao động của người sản xuất nông nghiệp bị rỗi việc do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ), sử dụng lao động người già, trẻ em, làm tăng thu nhập của người dân đồng thời tạo thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp giải quyết việc làm cho cư dân nông thôn và thu được một số kết quả nhất định, nhưng do đất chật người đông nên bản thân nông nghiệp không có khả năng thu hút hết lao động dư thừa ở nông thôn. Trong khi đó hiện nay, khoảng 60 - 65% giá thành 15 sản phẩm TTCN trong làng nghề là chi phí lao động sống, nên việc phát triển làng nghề là phù hợp với yêu cầu giải quyết việc làm dư thừa ở nông thôn. Thực tế ở các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng cho thấy, phát triển làng nghề góp phần đáng kể trong việc giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho nông dân và cư dân nông thôn. Trong những năm cuối thế kỉ XX, các làng nghề ở Đồng bằng sông Hồng đã thu hút khoảng trên 600.000 lao động nông thôn. Một số làng nghề không chỉ thu hút lao động trong làng mà còn sử dụng lao động từ các nơi khác. Ví dụ làng nghề Bát Tràng (Hà Nội) thu hút thêm 3.000 - 5.000 lao động, làng nghề Đồng Kỵ (Bắc Ninh) ngoài 3.000 lao động tại chỗ còn thuê thêm 1.500 lao động từ các nơi khác. Tại tỉnh Hải Dương, các làng nghề thu hút khoảng 80.000 lao động, chiếm trên 8% số lao động xã hội trong tỉnh, thu nhập bình quân của người lao động từ 400 700.000 đồng/tháng, có cơ sở thu nhập của người lao động từ 1 đến 3 triệu đồng/tháng. Tại tỉnh Nam Định, các làng nghề thu hút 108.680 lao động, thu nhập bình quân từ 650 - 850.000đồng/người/tháng. Sự phát triển của các làng nghề đã kéo theo sự phát triển và hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất hiện, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Nghề chế biến lương thực, thực phẩm không chỉ có tác động thúc đẩy nghề trồng các loại cây phục vụ chế biến phát triển, mà còn tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển. Ngoài các hoạt động dịch vụ sản xuất trực tiếp còn có một số loại dịch vụ sản xuất khác nữa, đó là dịch vụ tín dụng, ngân hàng. Các loại dịch vụ này cũng được phát triển do yêu cầu sản xuất trong các làng nghề ngày càng tăng. Do tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, nên các ngành nghề nông thôn còn là động lực làm chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao phúc lợi cho nông dân. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng