Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Làm thế nào tạo thêm hứng thú cho học sinh yêu thích học môn lịch sử lớp 6 thông...

Tài liệu Làm thế nào tạo thêm hứng thú cho học sinh yêu thích học môn lịch sử lớp 6 thông qua việc vận dụng kiến thức liên môn

.DOC
13
86
137

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số: ........................................ 1. Tên sáng kiến: "Làm thế nào tạo thêm hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Lịch sử lớp 6 thông qua việc vận dụng kiến thức liên môn” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lịch sử 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết: “ Học lịch sử để làm gì?”. Hiện nay, các trường Trung học cơ sở đang phải đối mặt với tình trạng học sinh có những biểu hiện chán học lịch sử, ghét học lịch sử. Tâm lí học sinh vẫn xem nhẹ bộ môn Lịch sử và coi Lịch sử là môn phụ, các em chưa thực sự tập trung tìm hiểu sâu bài học mà chỉ dừng lại ở mức độ học thuộc những gì thầy cô cho ghi. Nhưng, chúng ta biết Lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng vì thông qua bộ môn lịch sử học sinh có thể hiểu biết về lịch sử dân tộc và thế giới, sự hình thành và phát triển của lịch sử xã hội loài người, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người. Lịch sử là một một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ mà thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm được mối quan hệ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn. Đó là một thực tế đáng suy ngẫm. Làm sao để biến giờ lịch sử khô khan thành một giờ học hấp dẫn, cuốn hút, khiến học sinh yêu thích môn học này là điều trăn trở có lẽ không chỉ của giáo viên môn Lịch sử. Do đó, điều quan trọng và cần thiết nhất là làm sao tạo cho các em niềm hứng thú, niềm khát khao yêu thích, luôn muốn tìm hiểu lịch sử từ đó biết tự đánh giá và nhận xét khách quan các sự kiện hay nhân vật lịch sử nào đó, khiến các em đam mê thực sự chứ không bị gò bó hay ép buộc bởi bất cứ một lí do nào. Giáo viên còn nhiều lúng túng trong việc tích hợp kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh; khả năng vận dụng kiến thức liên môn của học sinh cũng còn nhiều hạn chế,dẫn đến học sinh không ham thích học lịch sử. Một thực tế mà hầu như ở các trường Trung học cơ sở đều nào đều cũng nhận thấy đó là tình trạng học sinh lớp 6 tiếp thu kiến thức chậm, ghi chép chậm do phương pháp giảng dạy, khối lượng kiến thức ở Trường trung học cơ sở so với trường Tiểu học khác nhiều: ở trường Tiểu học hầu như chỉ chú trọng kiến 1 thức 3 môn học chính Toán,Tiếng Việt, Anh Văn, còn các môn còn lại nói chung, môn Lịch sử nói riêng chỉ ghi tựa bài thôi ít cho học sinh tìm hiểu sâu về kiến thức các môn này. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: 3.2.1. Mục đích của giải pháp - Nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu của môn Lịch sử ở trường Trung học cơ cở, đặc biệt là nâng cao hiệu quả học tập về bộ môn Lịch sử khối lớp 6 ở trường Trung học cơ cở, đào tạo nguồn nhân lực và những học sinh tương lai trở thành công dân mới có ích cho đất nước đòi hỏi người học sinh chẳng những phải hiểu biết về kiến thức sử học mà còn phải biết hệ thống lại đồng thời nắm vững nội dung kiến thức liên môn có liên quan ở trường THCS. - Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh; rèn kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. - Giáo viên và học sinh có sự chủ động chuẩn bị tốt đối với những nội dung liên môn cần tích hợp trong bài giảng lịch sử mà lại không có trong khối lớp. - Yêu cầu học sinh phải hiểu biết lịch sử, đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo viên dạy Lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử? Kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh? Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy Lịch sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn Lịch sử mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn Địa lý, Văn học, nghệ thuật, khoa học…để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng. Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử ở khối lớp 6, bước đầu tạo một không khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các hoạt động dạy học của nhà trường, giúp các em dần dần làm quen với phương pháp, hình thức học tập ở Trường trung học cơ sở. Đây là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai. - “Làm thế nào tạo thêm hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Lịch sử lớp 6 thông qua việc vận dụng kiến thức liên môn” là hình thức tìm tòi những nội dung kiến thức có liên quan với nhau giữa các môn học ở các khối lớp với môn Lịch sử lớp 6, tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng, là một phương pháp dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. 3.2.2. Nội dung của giải pháp * Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp 2 + Trước đây, đa số giáo viên ở trường do điều kiện dạy học, thiết bị còn có phần hạn chế nên khi giảng dạy hầu như giờ học chưa sôi nổi, học sinh chưa có hứng thú học tập, giờ học nhàm chán, nên hiệu quả giờ học đạt kết quả chưa cao + Do nhận thức chưa đúng đắn về vị trí quan trọng của môn Lịch sử trong trường THCS nên trong giảng dạy vẫn còn hiện tượng coi giờ lên lớp mang tính chất tuyên truyền, phổ biến, thuyết minh những nội dung trong sách giáo khoa; học sinh tiếp thu tri thức một cách thụ động, mệt mỏi, chán nản. Những kiến thức về các nhân vật, sự kiện lịch sử… mà giáo viên đưa vào bài giảng chủ yếu là kiến thức về các nhân vật, sự kiện lịch sử được giới thiệu trong sách giáo khoa qua hình thức "Thầy nói- Trò nghe" một cách đơn điệu, nhàm chán. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, Lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế. + Việc sử dụng các phương pháp truyền thống là cần thiết, nhưng sẽ hấp dẫn đối với học sinh hơn nếu giáo viên biết kết hợp với đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo của các khoa học khác. Tạo nên sự gắn kết kiến thức của các môn học, giữa nội dung học tập với thực tiễn cuộc sống, làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn đối với học sinh. + Giáo viên có sự chủ động trong việc soạn giảng theo hướng vận dụng kiến thức liên môn ngay từ đầu năm học. Đây là cơ sở để giáo viên thực hiện tốt kế hoạch dạy học, kiểm tra đánh giá bộ môn; chủ động lựa chọn trang thiết bị, phương tiện dạy học phù hợp với thực tế học sinh và cơ sở vật chất của trường. Khắc phục những khó khăn lúng túng của giáo viên trong việc vận dụng kiến thức liên môn để tích hợp vào bài giảng lịch sử. + Môn Lịch sử là bộ môn góp phần quan trọng trong việc hình thành, bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Như vậy, so với các môn học khác thì môn Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đối với thế hệ trẻ. Những kiến thức Lịch sử không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động mà còn góp phần định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Lịch sử, tôi chọn giải pháp "Làm thế nào tạo thêm hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Lịch sử lớp 6 thông qua việc vận dụng kiến thức liên môn”. Giúp giáo viên lịch sử có thể áp dụng vào giảng dạy môn lịch sử một cách sinh động; giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử trong chương trình Lịch sử cấp THCS; góp phần đổi mới phương pháp dạy học; đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển năng lực; giúp học sinh vận dụng kiến thức liên môn vào thực tế cuộc sống, thúc đẩy việc gắn lý thuyết với thực tiễn đời sống, đẩy mạnh việc thực hiện dạy học theo phương châm “Học đi đôi với hành”. * Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp Một số nội dung tích hợp cụ thể trong chương trình Lịch sử 6: 3 1. Tích hợp với môn Giáo dục công dân Chúng ta biết trong tất cả các trường học đều hướng đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh là trước tiên với khẩu hiệu: “Tiên học lễ, Hậu học văn” nên dạy học lịch sử gắn liền với việc dạy người, việc tích hợp kiến thức môn GDCD trong dạy học lịch sử luôn được bản thân tôi thường xuyên thực hiện trong các bài dạy của mình. Trong nội dung chương trình Lịch sử lớp 6 khi giúp học sinh tìm hiểu quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhiều tấm gương yêu nước, bất khuất xuất hiện. Thông qua những tấm gương này, tôi giáo dục học sinh biết thể hiện lòng biết ơn của mình bằng những việc làm cụ thể, biết noi gương các vị anh hùng, bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước cho học sinh, truyền thống “giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp…” hoặc biết yêu quí, bảo vệ các Di sản văn hóa… + Đối với bài 1: Sơ lược về môn lịch sử. Nội dung phần 2: Học lịch sử để làm gì? Chúng ta giáo dục học sinh thông cảm cuộc sống ngày xưa, lòng biết ơn, tổ tiên, ông cha ta ngày xưa, quý trọng những gì mình đang có, ra sức học tập để trở thành người hữu ích cho đất nước (Bài 6- GDCD lớp 6). Sau khi giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy liên hệ trong cuộc sống của gia đình, quê hương em có những anh hùng, danh nhân nổi tiếng nào? Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Vậy là HS, các em cần phải làm gì để đền đáp công ơn của tổ tiên, ông cha ta?(Học LS là quý trọng, biết ơn những người làm nên cuộc sống ngày nay. Chúng ta phải làm tốt nhiệm vụ của mình để đưa đất nước ta phát triển hơn nữa…) + Đối với bài 3: Xã hội nguyên thủy Nội dung phần 1: Sự xuất hiện của con người trên Trái đất. Sau khi học sinh trả lời câu hỏi: Em nhận thấy lao động có ý nghĩa như thế nào? Giáo viên giáo dục học sinh tinh thần yêu lao động không ngừng sáng tạo vươn lên trong cuộc sống (GDCD 8- bài 11). Sau đó, giáo viên đặt câu hỏi: Vậy là HS em cần phải làm gì để thể hiện tinh thân yêu lao động? (GDCD 9- bài 14). + Đối với bài 4: Các quốc gia cổ đại phương Đông. Nội dung phần 1: Nhà nước chuyên chế cổ đại phương Đông. Để giáo dục học sinh ý thức vươn lên, tiến bộ trong cuộc sống, sau khi HS trả lời câu hỏi: Em có nhận xét gì bộ máy hành chính của các nước cổ đại phương Đông? Giáo viên cho HS liên hệ, so sánh với bộ máy Nhà nước ta hiện nay thông qua sơ đồ phân cấp bộ máy nhà nước ta (GDCD lớp 7- bài 17) + Đối với bài 17: Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40). Nội dung phần 2: Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ. Để giáo dục học sinh tinh thần yêu nước và đoàn kết, sau khi học sinh trả lời xong câu hỏi: Nêu nguyên nhân thắng lợi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng? Giáo viên đặt câu hỏi: Qua cuộc cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng em học hỏi được gì? (tinh thần 4 yêu nước và tinh thần đoàn kết của ông cha ta). Là học sinh em cần phải làm gì để có đức tính đó? (bài 7-GDCD lớp 7) + Đối với bài 18: Trưng Vương và cuộc kháng chiến chống quân xâm lượ Hán. Nội dung phần 2: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán (4243) đã diễn ra như nào; Sau khi cho HS xem ảnh đền thờ hai Bà Trưng. Giáo viên đặt câu hỏi để giáo dục lòng “Biết ơn” (Bài 6- GDCD lớp 6) như: Việc nhân dân ta lập đền thờ Hai Bà Trưng và các vị tướng khắp nơi nói lên điều gì? + Đối với bài 20: Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (tiếp theo) * Nội dung phần 3: Những chuyển biến về xã hội và văn hoá nước ta ở các thế kỉ I - VI; Sau khi học sinh trả lời xong câu hỏi: Vì sao người Việt giữ được phong tục tập quán và tiếng nói của tổ tiên? Giáo viên có thể đặt câu hỏi để giáo dục học sinh “Tinh thần yêu nước”, “Giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc” (bài 10 - GDCD lớp 7) Nội dung phần 4: Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248), sau khi cho HS quan sát ảnh “Lăng Bà Triệu ở núi Tùng (Thanh Hóa), giáo viên đặt câu hỏi để giáo dục lòng “Biết ơn” (bài 6 - GDCD lớp 6) như: Việc nhân dân ta lập đền thờ Bà Triệu nói lên điều gì? + Đối với bài 24: Nước Cham-pa thế kỉ II đến thế kỉ X. Nội dung phần 2: Tình hình kinh tế - văn hóa Cham-pa từ TKII-X, sau khi giới thiệu xong về Khu Thánh địa Mĩ Sơn (Quảng Nam), giáo viên có thể thông qua đó giáo dục học sinh biết “Bảo vệ di sản văn hóa” (bài 15- GDCD lớp 7) + Đối với bài 27. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Nội dung phần 1: Ngô Quyền đã chuẩn bị đánh quân xâm lược Nam Hán như thế nào? giáo viên tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường (bài 14GDCD lớp 7), sau khi hỏi các câu hỏi sau: Vì sao Ngô Quyền quyết định chọn sông Bạch Đằng làm nơi quyết chiến với quân Nam Hán? Kế hoạch của Ngô Quyền chủ động và độc đáo ở điểm nào?(chủ động khi giặc còn ngấp nghé, khẩn trương tổ chức kháng chiến. Dự đoán quân Nam Hán sẽ vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền bàn với các tướng cách đánh giặc. Ông quyết định chọn khu vực cửa sông và vùng trung, hạ lưu làm điểm quyết chiến, chủ động đón đánh quân giặc. Kế hoạch của Ngô Quyền hết sức độc đáo: đẵn hàng ngàn cây gỗ dài, đầu đẽo nhọn… biết tận dụng 3 yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa để đánh giặc). Giáo viên: kết luận và giáo dục học sinh: con người đã khai thác lợi thế của của môi trường tự nhiên vào mục đích chiến lược quân sự, góp phần bảo vệ độc lập. Nội dung phần 2: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938, giáo viên sử dụng lược đồ để trình bày các sự kiện, qua đó thấy tinh thần chiến đấu anh dũng, thông minh sáng tạo của tổ tiên ta, biết lợi dụng những điều kiện tự nhiên để 5 kháng chiến thắng lợi (sưu tầm tranh ảnh về điều kiện tự nhiên, công trình lịch sử văn hóa để giáo dục học sinh ý thức bảo vệ di sản văn hóa ( bài 15 GDCD lớp 7); tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường (bài 14- GDCD lớp 7)- biết phát huy mặt lợi – hại của chế độ thủy triều ven biển, sau khi giáo viên kết luận trận địa cộc ngầm đã giúp cho quân ta đánh thắng quân Nam Hán lần hai dù thuyền ta nhỏ hơn, lực lượng ta ít hơn. 2- Tích hợp với môn Ngữ Văn Văn học và Lịch sử có liên hệ với nhau, kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng những sự kiện lịch sử đã diễn ra. Để tạo cho học sinh những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức văn học vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh. + Đối với bài 12: Nước Văn Lang Nội dung phần 1: Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào? . Khi giáo viên giảng về hoàn cảnh ra đời của nước Văn Lang. Giáo viên có thể liên hệ truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng (bài 3-Ngữ văn lớp 6). . Để giáo dục lòng biết ơn các vua Hùng và trách nhiệm của chúng ta ngày nay giáo viên giáo dục học sinh qua câu nói của Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” + Đối với bài 15. Nước Âu Lạc Nội dung phần 1: Thành cổ Loa và lực lượng quốc phòng . Khi giảng về việc xây dựng thành Cổ Loa và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu, giáo viên có thể đưa vào đó một số truyện cổ tích về Nỏ Thần, về xây dưng thành Cổ Loa…(Ngữ văn lớp 6 và Ngữ văn 10). Đồng thời thông qua trích dẫn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nổi cơ đồ đắm biển sâu." (Tố Hữu – Ngữ văn lớp 10) Qua đó, có thể giáo dục học sinh ý thức không nên lơi là đối với việc phòng thủ quốc gia, coi trọng trách nhiệm bảo vệ tổ quốc, liên hệ ý thức bảo vệ biên giới biển đảo ở Việt Nam hiện nay. Mặt khác, qua các nhân vật Sơn Tinh, Thủy Tinh, Thánh Gióng, Trọng Thủy, Mỵ Châu… dù học sinh đã được học trong chương trình Văn học nhưng qua đây học sinh có điều kiện khắc sâu hơn các kiến thức văn học. 6 + Đối với bài 20. Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế Nội dung phần 4. Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248) - Để khắc sâu hình ảnh oai phong của Bà Triệu khi ra trận, giáo viên nên sử dụng hai câu thơ: Hoành qua đương hổ dị (Vung giáo chống hổ dễ) Đối diện Bà Vương nan (Giáp mặt Vua Bà khó) (Theo Phan Huy Lê…, Lịch sử Việt Nam, tập 1. Sdđ) - Để giáo dục ý chí quyết tâm giành độc lập của nhân dân ta, đồng thời thể hiện niềm tự hào của nhân dân ta về Bà Triệu và tinh thần sẵn sàng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Bà – Người phụ nữ chăm lo việc gia đình cho người chồng yên tâm đi chiến đấu để đánh đuổi quân xâm lược “giành lại giang sang, cởi ách nô lệ”, giáo viên sử dụng 6 câu ca dao: “Ru con con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi. Muốn coi lên núi mà coi, Coi Bà triệu tướng cưỡi voi đánh cồng. Túi gấm cho lẫn túi hồng, Tiêm trầu cánh kiến cho chồng ra quân” + Đối với bài 23. Những cuộc khởi nghĩa lớn trong các thế kỉ VII – IX Nội dung phần 2: Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722) . Để làm rõ sự kiện, nhân vật, giáo viên có thể đưa vào đoạn thơ sau” “Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng Vạn An thành lũy khói hương xông Bốn phương Mai Đế lừng uy đức Trăm trận Lý Đường phạc võ công… …Đường đi cống vải từ đây đứt Dân nước đời đời hưởng phúc chung” . Sau khi tóm lược các cuộc khởi nghĩa được đề cập ở SGK. Giáo viên có thể gây hứng thú cho học sinh bằng đoạn thơ sau (trích: Lịch sử nước ta – Hồ Chí Minh). “Nước Tàu cậy thế người đông Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam Quân Tàu nhiều kẻ tham lam, Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi. Hai bà Trưng có đại tài, 7 Phất cờ khởi nghĩa đuổi loài tà gian. … Anh hùng thay ông Lý Bôn, Tài kiêm văn võ sức hơn muôn người. Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài, Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền.” 3- Tích hợp với môn Mĩ thuật Sử dụng hợp lí, đúng lúc một số hình ảnh nghệ thuật như tác phẩm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, tranh ảnh … sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức sâu sắc hơn và việc học Lịch Sử sẽ hứng thú hơn. Ngày nay, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, giáo viên trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì học sinh được trực quan với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn.. Việc tích hợp kiến thức có liên quan của môn Mĩ thuật vào giảng dạy lịch sử là một phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học Lịch sử, giúp học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt áp dụng vào giảng các bài tìm hiểu về văn hóa xã hội các thời kỳ lịch sử. Ở nội dung này, tập trung vào việc cho học sinh xem các tranh, ảnh về nền văn hóa đưa ra các câu hỏi cho học sinh thảo luận: Ví dụ khi dạy Bài 6: Văn hóa cổ đại; Yêu cầu học sinh xem các quan sát các công trình nghệ thuật của người cổ đại qua hình ảnh: Kim tự tháp ở Ai Cập, thành Ba-bi-lon với cổng đền I-sơ-ta, Đền Pac-tê-nông (Hi-Lạp), Khải hoàn môn ở kinh thành Rô-ma, Tượng lực sĩ ném đĩa…. Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận: Thử đánh giá các thành tựu văn hóa của thời cổ đại? Qua đó thấy được sự sáng tạo, trình độ phát triển của kiến trúc, điêu khắc của nhân loại: vào buổi bình minh của nền văn minh loài người, cư dân phương Đông và phương Tây cổ đại đã sáng tạo nên hàng loạt thành tựu văn hóa phong phú, đa dạng vĩ đại, vừa nói lên năng lực trí tuệ của loài người, vừa đặt cơ sở cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại sau này)(Mĩ thuật lớp 6- bài: Sơ lược mĩ thuật thế giới thời kì cổ đại) Ví dụ khi dạy Bài 24: Nước Cham-pa thế kỉ II đến thế kỉ X, Nội dung mục 2: Tình hình kinh tế - văn hóa Cham-pa từ thế kỉ II đến thế kỉ X: yêu cầu học sinh quan sát hình 52 - Khu Thánh địa Mĩ Sơn (Quảng Nam), hình 53 – Tháp Chăm (Phan Rang) và một số hình ảnh đền , tượng của người Chăm cổ. Giáo viên hỏi: Quan sát H52, 53 SGK, em có nhận xét gì về nghệ thuật kiến trúc của người Chăm -pa? Qua đó học sinh thấy được trình độ phát triển của kiến trúc, điêu khắc của nhân dân Cham-pa cổ. + Đối với bài 9: Đời sống của người nguyên thủy trên đất nước ta. Nội dung phần 3: Sau khi cho HS quan sát hình 26- Vòng tay, khuyên đá; Hình 27- Hình mặt người khắc trên vách đá hang Đồng Nội, giáo viên đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về kĩ thuật chế tác đá, khắc hình thời kì này?(Khắc họa 8 tài năng nghệ thuật của ông cha ta buổi đầu sơ khai: đơn sơ, giản dị…)(Mĩ thuật lớp 6- bài: Sơ lược mĩ thuật Việt Nam thời kì cổ đại) Khi dạy Bài 13: “Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang”, chúng ta có thể cho các em xem các bức tranh đồ gốm cổ: trống đồng Ngọc Lũ, hình trang trí trên trống đồng, Thạp đồng Đào Thịnh giaó viên phân tích cho các em thấy những nét điêu khắc, nét hoa văn sáng tạo khác nhau qua các thời kỳ để các em hiểu được quá trình phát triển của lịch sử đất nước và hiểu được giá trị của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. 4- Tích hợp với môn Địa lí Hai môn Lịch Sử và Địa Lí đều có những nội dung thuộc nhóm Khoa học xã hội nhân văn, đều nghiên cứu những vấn đề của con người, xem xét các mối quan hệ mang tính qui luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, tuy rằng mỗi môn học có mục tiêu riêng (Lịch sử chú ý đến quá trình hình thành và phát triển của xã hội, trong khi đó địa lí chú ý đến tính không gian địa hình tự nhiên, đất đai, kinh tế tài nguyên, môi trường…của các sự vật hiện tượng đang diễn ra hiện nay). Tuy vậy, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau bởi các sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một khoảng không gian nhất định với các điều kiện cụ thể, trong đó có các điều kiện địa lí. Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc (kể cả phần lịch sử địa phương) đều gắn với những điều kiện tự nhiên mà con người sinh sống, cho nên khi học tập lịch sử xã hội phải phân tích đến các yếu tố của môi trường tự nhiên và thông qua nội dung lịch sử để hiểu rõ hơn môi trường tự nhiên và thực hiện giáo dục môi trường. + Đối với bài 4:. Các quốc gia cổ đại phương Đông và bài 5: Các quốc gia cổ đại phương Tây. Nội dung phần 1: GV dùng lược đồ các quốc gia cổ đại (H10) giới thiệu học sinh nắm vị trí các quốc gia cổ đại, giáo viên cùng học sinh tìm hiểu và phân tích những điều kiện tự nhiên tác động mạnh mẽ, tích cực đến sự tồn tại, hình thành và phát triển lịch sử xã hội loài người. (Địa lí lớp 7) + Điều kiện nhiên là môi trường đã nuôi sống người tối cổ (hang động, trái cây, thú rừng...), có sự tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển các quốc gia : + Lưu vực các dòng sông lớn là cơ sở để hình thành nên các quốc gia cổ đại phương Đông gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp, vị trí thuận lợi của bán đảo Ban-căng và I-ta-li-a đã hình thành nên các quốc gia cổ đại phương Tây gắn liền với nền sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp nhất là ngoại thương. Ví dụ: khi dạy bài 12: Sau khi hỏi: Căn cứ vào đâu để biết được bộ lạc Văn Lang trở thành bộ lạc hùng mạnh nhất thời đó? Giáo viên nhận xét và chỉ trên LĐ vùng đất bộ lạc Văn Lang cư trú Ba Vì (Hà Tây) đến Việt Trì (Phú Thọ). 9 ? Nhà nước VL ra đời vào thời gian nào? Do ai đứng đầu ? Đóng đô ở đâu? Giáo viên tích hợp kiến thức địa lí tự nhiên Việt Nam cho HS tìm vị trí tỉnh Phú Thọ trên lược đồ. + Đối với bài 27. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Nội dung mục 2: Treo lược đồ Chiến thắng Bạch Đằng năm 938, giới thiệu kí hiệu và hỏi: Nhắc lại, ai là tướng chỉ huy quân xâm lược nước ta lần thứ hai này? Thời gian nào quân Nam Hán tiến vào nước ta? GV sử dụng lược đồ “Chiến thắng Bạch Đằng năm 938” để xác định vị trí sông Bạch Đằng, sau đó trình bày diễn biến Chiến thắng Bạch Đằng năm 938, qua đó thấy tinh thần chiến đấu anh dũng, thông minh sáng tạo của tổ tiên ta, biết lợi dụng những điều kiện tự nhiên để kháng chiến thắng lợi. Lược đồ “Chiến thắng Bạch Đằng năm 938” 10 5 Tích hợp với môn Âm Nhạc + Đối với bài 12: Nước Văn Lang Nội dung phần 2: Để tạo sự hứng thú trong học tập lịch sử giáo viên sử dụng bài hát “Nổi trống lên các bạn ơi!” của Phạm Tuyên (Âm nhạc lớp 8- tiết 22) đồng thời GDHS nói lên cội nguồn, tình đoàn kết của 54 dân tộc anh em hiện nay, qua. Giáo viên nhấn mạnh: Đây là một cách phản ánh quá trình hình thành của nhà nước Văn Lang với ý nghĩa đại diện cho cả cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. GDHS tình đoàn kết của 54 dân tộc anh em hiện nay (bài 7GDCD7) 6- Tích hợp với môn Vật lí Một số bài Lịch sử có đề cập đến việc tìm hiểu tiểu sử, cuộc đời của các nhà bác học. Song như vậy chưa đủ, việc vận dụng dụng kiến thức toán học, vật lí trong môn Lịch Sử sẽ giúp HS hiểu cụ thể hơn những thành tựu của họ, qua đó thấy được đóng góp to lớn của các nhà khoa học như Ta-lét, Pi-ta-go, Ác-si- mét . . .đối với toàn nhân loại. Ngoài ra, việc vận dụng kiến thức toán học sẽ giúp HS hiểu rõ hơn về việc ra đời của lịch, cách tính niên đại trong Lịch Sử, . . . Ví dụ khi dạy Bài 6: Văn hóa cổ đại: sau khi giáo viên cho học sinh quan sát công trình nghệ thuật Kim tự tháp ở Ai Cập, có thể tích hợp kiến thức môn vật lí, tiết 14- Mặt phẳng nghiêng: cao 138 m, trên 2 triệu tảng đá, mỗi tảng đá 2500 kg, GV hỏi: Làm thế nào để đưa lên? Sau đó, giáo dục học sinh tinh thần Lao động sáng tạo (GDCD 8- bài 11) Ngoài ra người giáo viên có thể tích hợp nhiều môn học khác như Sinh học, Đội, Công nghệ … trong quá trình giảng dạy lịch sử. Dạy học liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và trong dạy học Lịch Sử nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện tốt và có hiệu quả đòi hỏi sự nỗ lực ở cả thấy và trò. Và việc thực hiện nó không phải bài nào, không phải phần nào cũng thực hiện được. Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về Văn học, như phải hiểu hoàn cảnh tác phẩm đó ra đời như thế nào mới hiểu hết được ý nghĩa, nghệ thuật cũng như nội dung sâu sa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì? Ngược lại Văn học, Mĩ thuật làm cho các sự kiện, các kiến thức của lịch sử dễ dàng thấm vào tiềm thức của con người. Nói về sự hỗ trợ của Lịch sử đối với các môn học khác, G. Elton đã nói “Nhà sử học cũng có thể dạy cho các khoa học khác rất nhiều điều. Anh ta có thể giúp các khoa học này hiểu thế giới quan của nhiều phương án xây dựng sơ đồ, vạch rõ những mối quan hệ tương hỗ mà một chuyên môn hẹp khó nhận thấy, giúp các khoa học xã hội hiểu rằng đối tượng mà chúng có quan hệ là những con người. Trong khi tiếp nhận các khoa học khác tính chính xác và tầm rộng của sự khái quát, đồng thời Lịch sử có thể hoàn thành nghĩa vụ của mình bằng cách xây dựng một thái độ nghiêm túc đối với các tài liệu và tránh những khái quát không có cơ sở vững chắc”.Tuy nhiên theo ý kiến chủ quan của tôi, để khắc phục tình trạng dạy- học Lịch Sử như hiện nay, không chỉ đổi mới phương pháp mà phải thay đổi cả cách suy nghĩ của mọi người, của 11 xã hội về vị trí của môn Sử trong việc đào tạo con người. Hơn nữa, để cải thiện chất lượng dạy và học môn Lịch Sử hiện nay không phải chỉ có giáo viên cố gắng mà học sinh cũng phải ý thức hơn trong việc học tập. Thử hỏi giáo viên dạy hay, tiết học sinh động, hấp dẫn nhưng học sinh không học bài, không chuẩn bị bài, không đọc sách giáo khoa, vậy thì kết quả sẽ như thế nào? Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy - học môn Sử cũng như chất lượng giáo dục cần có sự quan tâm của tất cả mọi người, của cả xã hội. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp: - Những biện pháp trên tôi đã thực nghiệm ở học sinh lớp 6 tại trường sở tại từ năm học 2016 -2017 cho đến nay luôn mang lại hiệu quả tốt. Tổ chuyên môn sử dụng đề tài này để làm chuyên đề sinh hoạt bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và áp dụng vào giảng dạy từ năm học 2017- 2018 đến nay. Thiết nghĩ những kinh nghiệm này áp dụng được cho công tác giảng dạy cho môn lịch sử lớp 6 trong toàn tỉnh và cả nước, nhằm phát huy tính tích cực, tăng hứng thú cho học sinh đối với bộ môn. - Phương pháp "Làm thế nào tạo thêm hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Lịch sử lớp 6 thông qua việc vận dụng kiến thức liên môn”có thể mở rộng, áp dụng phù hợp với chương trình dạy học lịch sử ở tất cả các khối lớp ở THCS và THPT góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn lịch sử. 3.4. Hiệu quả, lợi ích của sáng kiến: - Thực tế trong quá trình giảng dạy Lịch sử lớp 6 khi tôi áp dụng vào thực tế giải pháp "Làm thế nào tạo thêm hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Lịch sử lớp 6 thông qua việc vận dụng kiến thức liên môn” đã làm cho các em hứng thú hơn trong giờ học, kích thích được sự tìm tòi, chất lượng bộ môn không ngừng được nâng lên. góp phần tăng hiệu quả truyền thụ kiến thức cho học sinh. Góp phần tạo cho lớp học sinh động, học sinh sáng tạo và óc liên tưởng cao. - Mặt khác, học sinh nhận thức được vai trò của bộ môn, nhiều em đã thay đổi suy nghĩ coi Lịch sử là môn phụ và đầu tư nhiều thời gian hơn cho bộ môn. Các em không những tìm hiểu Lịch sử giới hạn trong sách giáo khoa mà còn khai thác kiến thức Lịch sử thông qua báo chí, ti vi và các phương tiện thông tin truyền thông khác. - Bước đầu khảo sát học sinh các lớp có khoảng 98% học sinh có ý kiến thích thú việc vận dụng trên, từ việc thích học lịch sử của học sinh đã góp phần tạo nên sự thành công của giải pháp này. - Kĩ năng vận dụng kiến thức liên môn của học sinh cũng nhạy bén hơn. - Giáo viên không còn lúng túng khi vận dụng kiến thức liên môn để giảng dạy, tích hợp nhẹ nhàng, hình thức tổ chức dạy học đa dạng, học sinh không còn chán học bộ môn lịch sử như trước đây. Qua thời gian vận dụng đề tài, bản thân tôi nhận thấy giờ học trở nên sinh động, các em yêu thích môn học hơn, tạo sự hứng thú học tập tích cực, giúp các 12 em biết nhận thức đúng đắn và vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống. Chất lượng học lực học sinh trước và sau khi áp dụng có sự chuyển biến rõ rệt. Sau khi áp dụng đề tài thì chất lượng bộ môn luôn tăng theo hướng bền vững, không còn học sinh học loại kém, loại yếu cũng hạn chế, tăng loại khá giỏi. Tỉ lệ xếp loại môn Lịch sử cuối năm thì năm sau luôn cao hơn năm trước Bảng thống kê chất lượng bộ môn trước và sau khi áp dụng đề tài Năm học Sĩ số K6 Giỏi S L Khá % S L % Trung bình Yếu S L S L % S L % % Kém 2015- 2016 156 75 40.1 55 32.2 17 10.9 6 3.8 3 1.9 2016-2017 139 74 53.2 47 33.8 15 10.8 2 1.4 1 0.7 2017-2018 149 89 59,7 50 33,6 9 6,0 1 0,7 0 0 2018-2019 (HKI) 141 92 65.2 40 28,4 8 5,7 1 0,7 00 00 ( Năm 2015-2016 chưa áp dụng đề tài; từ năm 2016-2017 trở đi đến nay đã áp dụng đề tài) Những giải pháp được trình bày trên đây đã được đúc kết kinh nghiệm từ quá trình tôi làm giáo viên đứng lớp, được công tác trong một môi trường làm việc nghiêm túc, chuyên nghiệp và cụ thể là trên thực tế kết quả học sinh của lớp mình. Qua từng giai đoạn học, tôi nhận thấy thầy và trò hiểu nhau hơn. Bản thân các em trong tiết học lịch sử luôn có sự mạnh dạn tin tưởng đưa ý kiến, câu hỏi thắc mắc của mình đến cho thầy, cho các bạn trong lớp. Điều này càng làm tôi phải không ngừng tìm tòi, nghiên cứu kiến thức trước khi giải đáp, mô tả cho các em. Đó còn là động lực để tôi tiếp tục hoàn thiện tốt vai trò của người giáo viên trong thời đại mới. Tôi rất thấm thía câu nói của Bác: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Chúng ta cũng vậy: “Muốn có học trò tốt, người thầy phải luôn là tấm gương sáng đối với các em”. Nội dung bài viết trên được đúc kết từ thực tế giảng dạy và cả tâm huyết trong giáo dục sử học cho thế hệ tương lai của đất nước, mong muốn cùng được chia sẻ kinh nghiệm cùng quí thầy cô đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử. Rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô đồng nghiệp và học sinh để đề tài được hoàn thiện hơn. 3.5. Tài liệu kèm theo: (Không) Mỏ Cày Nam, ngày 21/01/2019 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan