Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay...

Tài liệu Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay

.DOC
22
64144
136

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Một trong những vấn đề kinh tế nổi cộm hiện nay là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả khả quan. Kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. Ở Việt Nam hiện nay, kiểm soát lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Bài viết với đề tài: "Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay" Hà Nội, tháng 7 năm 2006 Trang 1 1. Lý luận chung về lạm phát 1.1. Khái niệm lạm phát - Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. - Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. - Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: "Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian". - Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = ip . d d: chỉ số giá cả từng loại nhómhàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng. 1.2. Phân loại lạm phát - Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn… Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoảng thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. - Lạm phát 2 con số : Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhah Trang 2 chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dâ tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. - Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít khi xảy ra. Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại: Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ: Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá… có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách. - Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. - Theo học thuyết Keynes, lạm phát xảy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). - Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy). Trang 3 Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Tăng cung tiền có thể đạt được bằng 2 cách: - Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt), hoặc - Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ: Năm 1966-1967, chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo) Tăng cung tiền là nguyên nhân duy nhất dẫn đến việc tăng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử Trang 4 dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng. c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy : Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ". Hình thức của lạm phát này phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thơ. Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng… Song nguyên nhân trực tiếp vẫn là số P lượngASRL tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng ASSL ASLR P AD đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá. P1 E1 P0 AD1 E0 AD0 P1 ASSR1 E1 P0 ASSR2 y* y0 y Trang 5 y1 y0 y* y Chỉ tiêu khả năng cung ứng Chi phí tăng đẩy giá lên cao - Khi sản lượng vượt tiềm năng đường - Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng AS có độ dốc lớn nên khi cầu tăng giảm xuống Y0 - Y1 mạnh, AD - AD1, giá cả tăng P0 - P1 AS1 - AS2 d) Lạm phát dự kiến Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều một cách ổn định. Mọi người có thể dự kiến được trước nên còn gọi là lạm phát dự kiến. ASLR P2 ASLR2 E'' ASLR 1 Trong P lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên E' cùng, độ sản lượng 1 ASLR0 vẫn giữ nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến. e) Các Pnguyên nhân khác 0 AD'' E AD'tăng Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa AD theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này y* y đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ tiền gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi Trang 6 loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao. Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân thông qua tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn. Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của Nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài. 1.4. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. * Đối với lĩnh vực sản xuất Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. * Đối với lĩnh vực lưu thông Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh Trang 7 vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. * Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. * Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. 2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác quản lý kinh tế vĩ mô là việc tìm cách kiềm chế lạm phát. Thực ra không phải 10 gần đây lạm phát mới xuất hiện ở Việt Nam mà từ năm 1980 về trước, lạm phát cũng đã tồn tại, chỉ có điều biểu hiện của nó không rõ ràng, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, đại hội V trở về trước không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ dùng cụm Trang 8 từ "Chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền…"; "Thị trường vật giá không ổn định…" Lạm phát ở thời kỳ này là "lạm phát ngầm" nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do thì tăng cao, vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như thu nhập quốc dân. Sau một thời kỳ "ủ bệnh" đã bột phát thành lạm phát công khai với mức lạm phát phi mã cũng tăng giá ba chữ số. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này. "Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt qua nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng". Trong điều hành vĩ mô phát triển kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các cấp các ngành vì sự phát triển và ổn định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này. Lạm phát đã giảm từ hơn 700% một năm vào năm 1986 xuống còn chỉ 35% vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm. 2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam - Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. - Thời kỳ 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để Trang 9 nuôi máy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam Á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939-1945 bình quân 25 lần. - Thời kỳ 1946-1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước. - Thời kỳ 1955-1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù được Chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí. Nguyễn Văn Thiệu - Chính phủ đã lạm phát hàng trăm tỷ đồng tiền lưu thông ở miền Nam năm 1975 gấp 5 lần. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965. - Thời kỳ 1965-1975: ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng đội quân xâm lược Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. - Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của Nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền Trang 10 kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. Trong vài năm qua nền kinh tế Việt Nam có những nét có vẻ ngày càng khởi sắc, chẳng hạn như tốc độ phát triển kinh tế đã từ 4.8% năm 1999 lên đến trên 7% năm 2003, nhưng phân tích kỹ hơn ta thấy những đám mây mù dường như đang kéo lại gần từ phía chân trời xa. Sau cuộc khủng hoảng tài chính xảy ở châu Á năm 1997, Việt Nam chủ trương chính sách kích cầu nhằm giảm bớt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và bù lại mức giảm đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Ta thấy mức tăng đầu tư nhanh chóng đưa lên từ tỷ lệ 27,6% GDP năm 1999 lên tới 35% GDP vào năm 2003. Đây cũng là tỷ lệ đầu tư kỷ lục trên thế giới, thế nhưng do hiệu quả sản xuất thấp vì chính sách đầu tư vẫn tập trung vào khu vực nhà nước, tốc độ phát triển cũng chỉ đạt được 7,3% . Đầu tư cao nhưng khoảng 60%, tức là khoảng 7,5 tỷ USD vẫn là đầu tư của nhà nước, trong đó nguồn vốn đầu tư của nhà nước là từ ngân sách (gần 40%), vay nước ngoài (30%), phần còn lại là vốn doanh nghiệp (không biết bao nhiêu là từ vay ngân hàng và bao nhiêu là vốn tự có). Tỷ lệ đầu tư của nước ngoài giảm, nhưng có một điểm sáng là tỷ lệ đầu tư của tư nhân tăng từ 24% năm 1999 lên 26,7% năm 2003. Tỷ lệ đầu tư của nhà nước tiếp tục cao, tổng số tiền đầu tư lớn, do đó tham nhũng bành trướng ở mức độ gần như không còn kiểm soát được là điều dễ hiểu. Nếu như tỷ lệ tham nhũng tiền đầu tư của nhà nước lên 20-30% như đã thảo luận trong kỳ họp quốc hội vừa qua, thì số tiền tham nhũng có thể lên tới 1,5– 2,25 tỷ USD một năm. Trong đầu tư, chính sách của nhà nước vẫn là tập trung phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu (sắt thép, xi măng, đường), kể cả đưa tới việc bảo vệ thị trường nội địa cho đầu tư nước ngoài (xe hơi, xe gắn máy), thay vì tập trung phát triển sản xuất nhằm xuất khẩu. Do chính sách trên, thiếu hụt cán cân xuất nhập khẩu ngày càng cao, tăng từ 0% GDP năm 1999 lên 13,5% GDP năm 2003. Mức thiếu hụt cán cân xuất nhập khẩu năm 2003 là 5.1 tỷ USD. Mức thiếu hụt này chưa tạo nên khủng hoảng cán cân thanh toán vì hiện nay thiếu hụt được bù đắp bằng 2,5 tỷ do lao động người Việt ở nước ngoài và Việt kiều gửi về, khoảng 1 tỷ đầu tư trực tiếp của nước ngoài và phần còn lại là vay mượn nước Trang 11 ngoài. Nhưng tình hình phát triển kích cầu hệ thống quốc doanh thiếu hiệu quả này không thể tiếp tục trong tương lai, và đó là tương lai rất gần. Chính sách kích cầu, đi liền và đòi hỏi ngân hàng tăng tín dụng đã đưa lạm phát đến mức báo động. Cả năm 2002, lạm phát là 3%. Chỉ trong 6 tháng đầu năm lạm phát đã lên tới 7,2%. Và cho cả năm 2004, lạm phát khó lòng dưới 10%. Việc tăng lương nhằm tăng hiệu quả lao động sẽ không bắt kịp lạm phát. Các nhà làm chính sách ở trong nước thì thay vì nhận chân vấn đề lại mở ra những cuộc tranh luận một cách vô nghĩa gần 6 tháng khi vào cuối năm 2003, mức tăng tín dụng, tiền và gần-như-tiền (quasi-money) lên tới mức báo động từ 30 đến 40% (coi số liệu mới cung cấp cho IMF trong bảng đính kèm - số liệu này rất khác số liệu đã cung cấp trước đây, cho phép ta tự hỏi về tính chân thật của số liệu tiền tệ được coi là bí mật quốc gia này). Cuộc tranh luận bắt đầu bằng việc đặt vấn đề là quyền số chi tiêu lương thực của hộ gia đình do Tổng cục Thống kê dùng là không đúng do đó đưa tới chỉ số giá tăng cao (tôi đã so sánh với nhiều nước và thấy quyền số này không có vấn đề). Cuộc tranh luận chuyển sang việc tại sao lại gọi tăng giá là lạm phát? Tăng giá không phải là lạm phát, có người đã cố lý luận như vậy. Rồi có người lại đặt vấn đề là tăng giá hiện nay khác tăng giá năm 19801990 về bản chất vì tăng giá ở Việt Nam là do tăng giá xăng dầu từ nước ngoài. Lý luận này có vẻ có lý, nhưng người lý luận không thấy rằng mức dùng dầu xăng cho một đơn vị sản lượng và mức tiêu thụ xăng dầu ở Việt Nam rất thấp so với Mỹ, thế tại sao Mỹ không có lạm phát ở mức 10% ? Từ “lạm phát” là dịch của chữ inflation. Về chữ nghĩa thì “lạm phát” là lạm phát in tiền. Do đó có thể lý luận một cách vô nghĩa rằng tăng giá không nhất thiết là do lạm phát tiền. Nhưng lý thuyết tiền tệ đã chỉ ra rằng, tăng giá nói cho cùng là vấn đề tăng tiền tệ. Nếu giá thành (như xăng dầu, sắt thép nhập từ nước ngoài chẳng hạn) có tăng thì các giá khác phải giảm nếu như lượng tiền tệ và tín dụng không tăng. Việc giá đẩy giá (cost push) chỉ xảy ra nếu ngân hàng trung ương cho phép nó xảy ra. Nhìn vào tốc độ tăng tín dụng ở Việt Nam, ta thấy rõ là tốc độ tăng đã ở mức rất cao và đang có chiều hướng đi lên. Không thể in tiền, tung tín dụng kích cầu mãi để đạt chỉ tiêu phát triển cao. Cần nhanh chóng nhận định chính xác Trang 12 vấn đề để có chính sách tiền tệ và tín dụng phù hợp. Hình như chính phủ đã thấy vấn đề khi quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nhằm giảm mức tăng tín dụng. Nhưng đồng thời vẫn có ý kiến là từ lãnh đạo ngân hàng là tiếp tục giữ chỉ tiêu mức tăng tín dụng là 25% năm 2004. Còn cơ quan kế hoạch thì vẫn nhắm đạt chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng là 7,5-8%. Nhắm đạt chỉ tiêu phát triển cao, và để đạt được mục đích lại tập trung vào quốc doanh, thì làm sao tránh được việc bơm tín dụng. “chỉ tiêu kế hoạch”? Cần xét lại hướng phát triển trên các hướng sau: - Đổi hướng phát triển thay thế nhập khẩu để hướng vào phát triển xuất khẩu, nếu không thiếu hụt cán cân ngoại thương sẽ ngày càng trầm trọng thêm. Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á đã làm việc này thay chính phủ trong thời gian 1997-1999, chính vì thế mà thiếu hụt cán cân ngoại thương thanh toán trầm trọng vào thời gian đó đã ngừng vào năm 1999. Chỉ có thể phát triển bền vững ở tốc độ cao nếu như phát triển không tạo ra mức thiếu hụt cán cân thanh toán trầm trọng như hiện nay. - Chấm dứt chính sách đổ tín dụng vào khu vực quốc doanh nhằm đạt chỉ tiêu kế hoạch phát triển cao nếu không lạm phát sẽ tới mức không kiểm soát được. Hiện nay gần 80% tín dụng ngân hàng quốc doanh vẫn đổ vào doanh nghiệp quốc doanh. Phát triển cao là điều ai cũng mong muốn nhưng phải trên cơ sở hiệu quả sản xuất, chứ không phải trên cơ sở duy ý chí, đưa đến việc phát triển không bền vững. 3. Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay 3.1. Các quan điểm và khắc phục lạm phát Tăng lãi suất ngân hàng cao hơn mức lạm phát. Thuyết tiền tệ của Friedman được áp dụng. Muốn khắc phục lạm phát cần phải thi hành chính sách "hạn chế tiền tệ" hay "khắc khổ" thu, tăng lãi suất tín dụng của ngân hàng trung ương, hạn chế tăng lương, duy trì thất nghiệp ở mức thấp. * Theo cách tiếp cận khác Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều gắn liền với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, thâm hụt ngân sách lớn… nên đề ra biện pháp giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu và kiểm Trang 13 soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa, chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi lạm phát. + Đối với lạm phát vừa phải, muốn kiềm chế và đẩy lùi từ từ xuống mức thấp hơn cũng đòi hỏi áp dụng các chính sách nói trên. Tuy nhiên, biện pháp này kéo theo suy thoái và thất nghiệp - một giá đắt- nên việc kiểm soát chính sách tiền tệ và tài khoá trở nên phức tạp và đòi hỏi phải thận trọng. Có thể xoá bỏ lạm phát hay không? Cái giá phải trả của việc xoá bỏ hoàn toàn lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó, vì vậy các quốc gia thường chấp nhận lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó chỉ số hoá các yếu tố chi phí như tiền lương, giá vật tư, lãi suất… Đó là cách làm cho sự thiệt hại của lạm phát là ít nhất. Có nhiều áp lực buộc chính phủ phải tăng chi ngân sách, nhưng ngược lại không mấy sức ép để tăng thêm thu nhập. Bội chi ở mức trên 6% so với GDP năm 1995 và khoảng 6% năm 1996 đã được trang trải bằng vay nợ nước ngoài và trong nước. Tuy nhiên, chính phủ sẽ có thể sẽ khó cưỡng lại cám dỗ in thêm tiền một lần nữa khi việc phát hành trái phiếu gặp khó khăn. Khi tiền viện trợ được rót vào, chính phủ sẽ thấy rằng nhiều dự án đòi hỏi phía Việt Nam phải đồng tài trợ bằng tiền trong nước. Những đòi hỏi này rõ ràng sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho ngân sách vốn đã eo hẹp (trừ phi tìm được cách thúc đẩy tích luỹ trong nước và kiểm soát được chi tiêu ngân sách) do đó có thể tăng nhanh đầu tư mà không gây nên lạm phát. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn được nạn lạm phát cao, từng bước đẩy lùi lạm phát. Chỉ số hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm từ 67,4% năm 1993 xuống còn 17,5% năm 1994. Năm 1995: 5,2% Năm 1996: 14,4%; Năm 1997: 12,7% Năm 1998: 4,5%; Năm 1999: 3,6% 3.2. Biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam Căn cứ vào thực tế thực thi và các giải pháp chống lạm phát, chúng ta có thể kể đến một số giải pháp chủ yếu sau: Trang 14 a. Về phía Đảng và Nhà nước: là Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, nhận thức kinh tế cán bộ, Đảng viên theo hướng đổi mới. Không được trang bị tư duy mới, kiến thức mới thì cán bộ không thể thực hiện được những yêu cầu đổi mới trên mọi lĩnh vực. Đồng thời Nhà nước phải vững mạnh chuyên chính vô sản, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hệ thống Đảng và các cơ quan Nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi, nhưng tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ, tê liệt những chủ trương chính sách của Nhà nước. Để làm việc này, Nhà nước cần ban hành những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tài chính, ngân hàng… làm cơ sở thống nhất cho việc thi hành trong cả nước đồng thời phải đề cao chức năng thoái soát kiểm kê của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội. b. Các biện pháp về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngân hàng trong kinh tế, hoạt động xã hội. "Kiên quyết đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định về tăng cường nền tài chính, tiền tệ, tạo môi trường cho sản xuất hàng hoá phát triển có hiệu quả" Như vậy, Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc đẩy lùi về kiềm chế lạm phát với việc thi hành các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, xây dựng một nền tài chính lành mạnh. Nghị quyết TW II còn vạch rõ. + Xoá bao cấp qua tín dụng + Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ + Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách + Cải tiến việc phân cấp quản lý ngân sách + Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục việc thực hiện các giải pháp này khong nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất. Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng tuyệt đối giấy bạc để thực hiện biện pháp này, thông thường chính phủ và ngân hàng sử dụng các hình thức thu hút vốn vào quỹ ngân hàng như sau: + Khuyến khích vào mở rộng tiền vốn ngân hàng (bao gồm cả gửi tiết kiệm của nhân dân bằng cách nâng cao mức lãi suất gửi tiết kiệm vào ngân hàng trên Trang 15 mức lạm phát, với sự sụt giá đồng bảng và chính sách bảo hiểm giá trị đồng vốn gửi vào ngân hàng. + Phát hành công trái, trái phiếu và xổ số kiến thiết với quy mô mở rộng và bằng những biện pháp hành chính cưỡng bức với người sản xuất, kinh doanh trong việc mua công phiếu trái phiếu hoặc bằng những chế độ thưởng hiện vật và giải cao, phòng giúp kích thích. + Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại đói với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và các chiết khấu và nâng cao tỷ lệ quỹ vốn lao động. + Ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ một giá hối đoái thực hiện nghiêm ngặt điều kiện quản lý ngoại hối, biện pháp này cho phép ngân hàng nhà nước thu về một khối lượng tiền tệ đáng kể trên thị trường tăng thu nhập ngân sách, đó là một cách để thấy và bù đắp một phần thiếu hụt cán cân thu chi ngân sách. + Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung, nhất là tín dụng do hoạt động thương mại thuần tuý, hối đoái trong điều kiện sản xuất nhất là sản xuất hàng tiêu dùng bị đình đốn. Song có thể gia tăng khối lượng tiêu dùng ngắn hạn hướng vào sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu bằng số ngoại tệ thu được qua xuất khẩu, cung ứng dịch vụ đối ngoại hoặc vay nợ, viện trợ. - Với biện pháp này có thể giảm đi một khối lượng tiền tệ đáng kể do việc buôn bán vòng vèo ăn chênh lệch giá và bấy lâu nay không sao kiểm soát nổi. Mựat khác do hướng tín dụng ngân hàng có lựa chọn và chú trọng tính hiệu quả của nó có thể tạo ra được một khối lượng đáng kể số tiền sẽ chi cho các kỳ phiếu thương mại giữa ngân hàng và khách hàng cũng như các hoạt động tái chiết khấu và tín dụng cuối cùng của ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại. - Để hạn chế và điều hoà tín dụng, ngân hàng TW thường sử dụng các biện pháp: Tăng hay giảm lãi suất để giảm hay tăng khối lượng tín dụng, nghĩa là đối với công cụ lãi suất này sẽ khuyến khích hoặc hạn chế ai trong hoạt động kinh doanh, thực hiện mua hay bán các chứng khoán tại thị trường bỏ ngỏ. c) Về phía ngân hàng TW - ngân hàng thương mại Trang 16 Nhà nước thực hiện thả nổi giá cả hầu hết các mặt hàng, giờ đây giá cả của hàng hoá do thị trường định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít mặt hàng treo giá của Nhà nước đưa ra. Từ năm 1989 giá cả hầu hết các hàng hoá được thị trường xác định, đến nay Nhà nước chỉ còn xác định giá cước tải liên lạc, giá năng lượng, xăng dầu. Một số mặt hàng quan trọng Nhà nước can thiệp bằng các biện pháp kinh tế tích cực. Chẳng hạn giá gạo hạ thấp, Nhà nước bỏ tiền ra mua với giá gạo cao hơn thị trường tự do để giữ vững và khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Giá vàng lên cao, ngân hàng Nhà nước bán vàng ra thị trường với mức giá thấp hơn để kéo vàng hạ xuống. Với giải pháp này Nhà nước đã xoá bỏ tình trạng ngân sách phải bao cấp cho các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế thông qua hệ thống giá thấp. Do trực tiếp chịu sự quy định của quan hệ cung cầu, của người sản xuất và người tiêu dùng… là chức năng điều tiết giá cả do thị trường đảm nhận đã được khôi phục trở lại. Trên thị trường giá cả đã có sự co giãn lên xuống và thực sự trở thành tấm gương phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Giá cả trở thành mệnh lệnh của thị trường và nó cũng rất khắc nghiệt. Đồng thời giá cả có tác động đến nhu cầu, làm cho nhu cầu được điều chỉnh tốt hơn theo hướng đa dạng, tiết kiệm… Mọi người tiêu dùng đã tính toán được các khoản chi tiêu không cần thiết. Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng quốc gia được xác định tỷ giá ngoại tệ xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ hiện tượng đầu cơ vàng và ngoại tệ gây rối loạn thị trường. Hiện nay Nhà nước cùng với ngân hàng TW đang tiến dần đến điều chỉnh giá vàng và giá đô la theo mức giá cả của thị trường thế giới, đây là một trong những kế hoạch hoà nhập kinh tế Việt Nam với thế giới. d) Việc điều chỉnh giá cả và sự quản lý của Nhà nước Tạo điều kiện phát triển nền kinh tế ngoài quốc doanh. Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế tham gia cùng hoạt động. Pháp luật của Nhà nước đảm bảo các quyền lợi, quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế cũng hoạt động tạo được sự cạnh tranh, gây sức ép với nhau buộc để đổi mới. Việc mở rộng các thành phần kinh tế để giải quyết việc làm cho người lao động. Mục tiêu cụ thể giảm tỷ lệ Trang 17 lạm phát xuống khoảng 30-40% năm 1994 và dưới 12% năm 1997 và năm 1996 lạm phát giảm xuống còn 3,6% năm 1999, nhưng có nghĩa lạm phát đã giảm xuống mà đến đầu năm 1998 lạm phát đang dần dần tăng lên. Những thông tin gần đây về kiểm soát lạm phát thời kỳ 1993-1997 đã được nói đến: "Nếu như năm 1992-1993 còn lạm phát ở mức 70% mỗi năm thì năm 1994 đã kéo xuống 15%. Tính từ tháng 3 năm 1994 chỉ số giữa bình quân chỉ còn 0,5% (Việt Nam). e. Hoạt động đối ngoại của Nhà nước Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu mở cửa biên giới khuyến khích các nguồn nhập khẩu vào Việt Nam, đã làm cho thị trường ngày càng phong phú, làm cho cung và cầu trở lên cân bằng hơn, việc nhập khẩu vào Việt Nam còn có tác dụng gây sức ép với hàng hoá trong nước buộc họ phải nâng cao chất lượng để đáp ứng thị hiếu của khách hàng, hoạt động nhập khẩu cần có nhiều vốn ngoại tệ từ đó mà xuất khẩu gia tăng. Nhà nước sớm thực hiện chính sách bảo hộ một số ngành trong nước, việc bảo hộ này không có nghĩa là cấp nhập khẩu mà là đầu tư vốn, kỹ thuật để chất lượng hàng hoá đạt tiêu chuẩn, giá thành hạ để đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc chống lạm phát nhờ áp dụng các giải pháp nêu trên. Điều đó không có nghĩa là những giải pháp mẫu mực hoàn hảo đủ để quyết định vấn đề chống lạm phát một cách hoàn hảo đủ để quyết định vấn đề chống lạm phát một cách văn bản. Tuỳ từng hoàn cảnh, từng giai đoạn mà chúng ta có thể linh hoạt sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm đạt hiệu quả kinh tế lớn. Vì phát triển kinh tế có hiệu quả lại liên quan đến những vấn đề to lớn và rộng như chiến lược kinh tế - xã hội hay đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam. KẾT LUẬN Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hoành công khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xoá bỏ cơ chế bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và Trang 18 quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát 1989 đưa đất nước vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị… Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà làm chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát luôn rình rập và đe doạ chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục. Trang 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kinh tế học Samuelson 2. Trang Wep tham khảo www. world bank.org.vn www.IMF.org www.ADB.org Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan