Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nông - Lâm - Ngư Nông nghiệp Kỹ thuật trồng rau bò khai...

Tài liệu Kỹ thuật trồng rau bò khai

.PDF
5
434
146

Mô tả:

Kỹ thuật trồng rau bò khai Tên thường gọi: Cây bò khai Tên khác: Piéc Yển (tiếng Tày), rau "Dạ Yến", Dây hương. Tên khoa học: Erythrophalum scandens. Họ: Dương đầu: Olacaceae 1. Giá trị sử dụng Lá vàngọn Bò kha là thức ăn quen thuộc của nhân dân miền núi. Tên phổ biến của cây là dây Bò khai hoặc Dây hương. Sở dĩ có tên dây Bò khai vì sau khi ăn lá của cây này thì nước tiểu có mùi khai của nước đái bò, còn tên Dây hương xuất phát từ mùi thơm của nó khi xào nấu lên. Người dân Cao Bằng gọi cây này là cây Rau hiến. Sở dĩ có tên này vì theo giải thích của một số người ở địa phương, loại rau này rất quí, trước đây được dùng để tiến vua. Thành phần dinh dưỡng của lá bò khai: nước 78,8g; protein 6g; gluxit 6,1g; xơ 7,5g; tro 1,6g; canxi 138mg; phốt pho 40,7mg; caroten 2,6mg; vitamin C 60mg. Ngoài giá trị làm thực phẩm, lá bò khai còn là một vị thuốc quí, nó thường được dùng để chữa bệnh về thận, gan và nước tiểu vàng. Đi xa mệt mỏi, nước tiểu vàng đục, chỉ cần ăn rau bò khai một hai lần, nước tiểu trở lại trong veo. Ở Trung Quốc, rau Bò khai cũng được sử dụng để chữa nhiều các bệnh viêm thận, gan, viêm đường tiết niệu, tiểu tiện không thông với liều lượng hàng ngày là 12-14g, sắc nước uống. Để làm thuốc có thể dùng lá bò khai tươi hoặc phơi khô. Muốn chữa phù thận, lợi tiểu, đái vàng đái rắt dùng 20-40g cây tươi, rửa sạch, giã nát, thêm nước gạn uống. Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với lá Bòng bong. Theo kinh nghiệm dân gian của Bắc Thái, toàn cây Bò khai sắc lấy nước uống chữa viêm gan siêu vi trùng đạt kết quả tốt. Thân cành tươi bỏ lá, thái mỏng phơi khô, ngâm rượu uống chữa sốt, tê thấp. 2. Đặc điểm hình thái Cây dây leo bằng tua cuốn, dài 5- 10m; đường kính trung bình 2-3cm, lớn nhất đạt 5-6cm, màu xám vàng hay vàng nhạt, già có màu trắng mốc, non màu xanh. Dây dài tới 10-15m, thâm mềm có tua cuốn, trên mặt vỏ có nhiều vết bì khổng màu nâu. Cành mềm, khi non hơi có cạnh, màu xanh lục, đường kính 4-6mm. Lá mọc so le, hình trứng rộng, đầu nhọn, dài 9-16cm, rộng 6-11,5cm, mép nguyên, lượn sóng, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới màu xám mốc, có 3 gân chính; cuống lá dài 3,5cm, có cây cuống lá dài 8-9cm, phình ở 2 đầu và đôi khi hơi đính vào phía trong phiến lá làm cho lá có hình khiên. Vò lá có mùi thơm hăng. Tua cuốn mọc ở nách lá, dài 15-25cm, đầu thường chẻ hai. Cụm hoa ngù, mọc ở nách lá; lá bắc hình tam giác nhọn; hoa nhỏ, lưỡng tính; đài hình đấu có 5 răng; tràng 5 cánh, nhẵn ở mặt ngoài, mép có lông mịn; nhị 5 mọc đối diện với cánh hoa; chỉ nhị ngắn; bầu hạ, 1 ô. Quả mọng hình trái xoan, dài 1,0-1,5cm; mang một sẹo ở đầu, khi chín màu vàng hay đỏ, mang 1 hạt hình trứng. Mùa hoa quả tháng 4-6; Quả chín tháng 6-10. 3. Đặc tính sinh thái loài Cây phổ biến ở các tỉnh phía Bắc Việt nam. Cũng gặp ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ; tập trung nhiều ở khu ĐôngBắc Việt Nam bao gồm các tỉnh: Cao bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang. Ngoài ra còn phân bố ở Nam Trung Quốc, Lào và Căm Pu Chia. Cây thường mọc hoang ở ven các rừng thứ sinh, rừng đang phục hồi hoặc rừng nghèo bị tác động mạnh của kiểu rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới; tập trung rải rác ở ven các rừng mọc trên núi đá vôi. Nơi có nhiều rau Dây hương nhất có lẽ là đảo Hòn Mê, tỉnh Thanh Hóa. Do không bị tàn phá nên cây phát triển rất mạnh; nhiều cây có đường kính thân 5-6cm, leo cao trên các ngọn cây gỗ đến 10m hay hơn. Độ cao phân bố của cây rất rộng, từ ngang mặt biển đến độ cao 1000m. Rau Dây hương là dây leo ưa sáng khi trưởng thành, nhưng hơi ưa bóng ở giai đoạn non, vì vậy khi gieo ươm cần một tàn che nhất định. Cây không ưa ẩm, thích hợp ở vùng khí hậu khô, mọc rất nhanh, hầu như ra chồi, mọc lá mới quanh năm, chỉ trừ một vài tháng mùa đông nhiệt độ quá thấp. Hoa mọc trên các chồi năm cũ hoặc trên thân già. Tháng tư, bắt đầu mùa mưa, cụm hoa xuất hiện ở phía đầu cành với các hoa nhỏ; tháng 7-9 là mùa quả, nhưng quả có thể tồn tại trên cây đến tận mùa hoa năm sau. Cây ra chồi rất mạnh. Để có nhiều ngọn non, tháng 2-3 cần phát các cành già để đầu mùa mưa các chồi non xuất hiện. Cây tái sinh bằng hạt hay chồi; sau khi bị phát đốt, đến mùa mưa, rất nhiều chồi lại nảy ra từ gốc thân cũ. Là cây dễ gây trồng bằng hom. 4. Kỹ thuật tạo giống * Kỹ thuật giâm hom Chọn đoạn thân bánh tẻ, cắt thành đoạn dài 5-7cm, mang 3 đốt nhúng gốc hom vào dung dịch thuốc kích thích, sau đó giâm vào trên luống đất đã chuẩn bị sẵn, hoặc trên khay cát hay trong bầu, giâm sâu bằng 1/3 chiều dài đoạn hom. Sau 2-3 tuần hom ra rễ, chồi non xuất hiện. Khi cây con ra chồi dài khoảng 5-7cm có thể đem đi trồng. Trong thời gian giâm hom chú ý tưới và giữ đất luôn ẩm. 5. Kỹ thuật trồng 5.1. Chọn đất và làm đất Cây rau bò khai dễ trồng và sinh trưởng tốt trên nhiều dạng lập địa và đất có thành phần cơ giới khác nhau, tốt nhất là đất còn kết cấu sau nương rẫy, vườn rừng hoặc rừng khai thác kiệt có độ tàn che từ 0,1- 0,3. Làm đất theo băng rộng 1m, băng chừa 0,5m song song đường đồng mức, trên băng làm toàn diện hay cục bộ từng khóm, cày hoặc cuốc sâu 30cm. 5.2. Thời vụ, phân bón kỹ thuật trồng và chăm sóc - Thời vụ trồng tốt nhất là mùa mưa từ tháng 4-10 hàng năm. Phân bón: Chủ yếu là bón lót tốt nhất dùng phân chuồng hoai, cứ 100kg phân chuồng trộn thêm 1kg NPK. - Kỹ thuật trồng: Trên băng đã dọn sạch thực bì và làm đất cứ cách 60-70cm cuốc 1 hố có kích thước 30x30x30cm cho phân trộn đều vá tiến hành trồng bình thường như trồng các loại cây khác. Mỗi hố trồng từ 2-3 hom, 1 ha trồng 20.000 hom. Chăm sóc: Cây bò khai là cây ưa đất ẩm, nên phải thường xuyên tưới nước nhất là thời gian đầu. Khi cây đạt chiều cao 0,5m thì hái ngọn để cây ra nhiều chồi, chồi dài 0,5m lại hái lần 2 và bước đầu đã được thu hoạch. Sau một năm thì khép tán đến tuổi thành thục, cây cho nhiều cành đan chéo vào nhau và xù to ra, ta duy trì bề rộng luống từ 1-1,2m và cao ngang ngực 1,3m. 6. Kỹ thuật thu hoạch, chế biến, thị trường Bò khai có thể thu hái gần quanh năm, chỉ trừ vài tháng mùa đông quá lạnh, ngọn non không mọc được; nhưng mùa thu hái nhiều nhất vẫn là mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, 10. Khi chế biến để ăn, người ta thường lấy lá và ngọn non vò rửa kỹ, rửa sạch cho hết mùi khai rồi luộc, nấu canh hoặc sào với thịt hay lòng gan các loại gia súc hay gia cầm. Rau bò khai được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, đặc biệt là các nhà hàng đặc sản rất ưa chuộng.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan