TS. BÙI THỂ ĐỐI. ThS. LẾ THỊ DIÊN
KỸ THUẬT TRỒNG
BA LOÀI CÂÝ THUỐC NAM
NHÀU, CHÓC MÁU VÀ CỦ DÒM
TRÊN ĐẤT RỪNG
NHÀ XUẨT BẢN NÒNG NGHlậP
TS. BÙI THÉ ĐỒI, ThS. LÊ THỊ DIÊN
KỸ THUẬT TRÒNG
BA LOÀI CÂỲ THUÓC NAM
NHÀU, CHÓC MÁU VÀ CỦ DÒM
TRÊN ĐẤT RÙÌVG
NHÀ x u At B ả n n ô n g
Hà N ộ i-2011
n g h iệ p
LỜI NÓI ĐÀU
Việt Nam với 54 dân tộc trong đó 53 dân tộc thiểu số đang
sinh sống ở các vùng núi từ Bắc đến Nam. ở nhiều noi, người
dân sống ở vùng sâu vùng xa, cách biệt vói khu vực dân cư
khác. Đe đấu ữanh sinh tồn, tự bảo vệ cuộc sống cho chính bản
thân mình, bằng kinh nghiệm sống qua thời gian, họ đã tự tìm ra
những loài cây thuốc chữa bệnh cho cộng đồng mình ngay
quanh khu vực họ sinh sống.
Với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, nguồn tài nguyên
thiên nhiên của Việt Nam vô cùng đa dạng và phong phú, frong
đó có nguồn tài nguyên cây thuốc. Tính đến nay, Viện Dược liệu
đã phát hiện và thống kê được khoảng 3.948 loài cây thuốc, tuy
nhiên còn một số lượng lớn các cây thuốc riêng của cộng đồng
các dân tộc thiểu số, gọi là cây thuốc dân tộc chưa được thống
kê và tư liệu hóa hết được.
Mặc dù tài nguyên cầy thuốc đa dạng và phong phú nhưng
con ngưòd chỉ mới biết và sử dụng một ít loài để chữa bệnh và
nâng cao sức khỏe, còn rất nhiều loài cây thuốc mà người dân
chưa biết đến và chưa sử dụng. Trong số các loài được sử dụng
để chữa bệnh có các cây Nhàu (Morinda citrifolia L.), Chóc
máu (Salacia cochinchinnensis Lour), Củ dòm {Stephania
dielsiana Y.C.Wu).
Cây Nhàu {Morinda citrifolia L.) là một loại cây thuốc có
giá trị chữa bệnh rất hiệu quả. Nhàu có tác dụng nhuận tràng, lợi
tiểu, làm êm dịu thần kinh giao cảm, giảm đau nhức, hạ huyết
áp, điều hoà kinh nguyệt. Hiện nay, cây Nhàu đang được nhiều
nước trên thế giới nghiên cửu, sản xuất ra những sản phẩm khác
nhau đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của con người.
Chóc máu {Salacia cochỉnchinensis Lour) là cây thuốc quý
được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên
cứu. Chóc máu là loài dược thảo có khả năng hạn chế sự phát
triển tể bào ung thư, do mới được phát hiện nên hầu như chưa
có nhiều nghiên cửu về cây này mà chỉ được sử dụng chủ yếu
trong dân gian^ vì vậy hầu như chưa có bài thuốc về loại dược
thảo này.
Củ áòm {Stephania dielsiana C.Y.Wu) là cây thuốc quý,
hiếm, được dùng làm thuốc chữa đau lưng, đau bụng, mỏi nhức
chân, giúp ngủ ngon. Còn dùng đắp chỗ sưng bắp chuối, nhọt
cứng, áp xe do tiêm. Có khi nấu nước uổng chữa kiết lỵ, ra máu,
đau bụng kiiứi niên, đau dạ dày. Củ dòm là nguồn gen hiếm, mới
được phát hiện ở Việt Nam, có trữ lượng ít, lại bị khai thác
nhiều. Rễ củ được nhân dân vùng Ba Vì sử dụng làm thuốc chữa
đau nhức gân xưong, đau bụng. Có thể dùng chiết được hoạt
chất L-tetrahydropalmatin.
Trong những năm gần đẫy, việc gây trồng và phát triển cây
dược liệu đã và đang được quan tâm. Nhiều loài được nhân
trồng rộng rãi và đem lại kết quả tốt, góp phần không nhỏ trong
việc cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến dược liệu. Tuy
nhiên, việc gây trồng nhiều loài cây dược liệu quý mới chỉ là
bước đầu và được tiến hành trên quy mô rất nhỏ lè, chưa có sự
tập trung và đầu tư thích đáng. Với mong muốn góp phần bảo
tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên cây dược liệu tại
Việt Nam, chúng tôi đã biên soạn cuốn sách này nhằm cung
cấp cho độc giả những thông tin về đặc điểm nhận biết, kỹ
thuật gieo ươm và gây trồng cây Nhàu, Chóc máu và Củ dòm
trên đất rừng.
Mặc dù các tác giả đã rất cố gẳng, nhưng không thể tránh
khỏi những thiếu sót trong quá trình biên soạn. Kính mong nhận
được sự đóng góp của quý độc giả để có thể bổ sung và hoàn
thiện cho lần xuất bản tiếp theo.
Các tác giả:
TS. Bùi Thế Đồi, ThS. Lê Thị Diên
Phần th ứ nhất
TỔNG QUAN VÈ TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC
VÀ S ự CẦN THIẾT GÂY TRỒNG CÂY THUỐC NAM
TRÊN ĐẤT RỪNG
I. TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC
1. Trên thế giới
1.1. Lịch sử sử dụng cây cỏ làm thuốc trên thế giới
Từ thời cổ xưa, loài người đã biết khai thác và sử dụng cây
thuốc vào công tác chăm sóc sức khỏe và các nhu cầu của cuộc
sống mình.
Theo Aristote (384 - 322 trước công nguyên) đã tổng kết
trên 4000 năm trước, các dân tộc vùng Trung cận đông đã biết
đen cả ngàn cây thuốc, sau này người Ai Cập đã biết cách chế
biển và sử dụng chúng (dẫn từ Võ Văn Chi và Trần Hợp, 1999).
Charles Pickering (1879) đã nghiên cứu và đúc rút lại cho
biết người Ai Cập cổ đại đã biết sử dụng những cây có tinh dầu
để điều trị bệnh và ướp xác các vua chúa hoặc làm nước thom từ
khoảng 4000 năm trước công nguyên. Ngưòi Nhật Bản đã biết
sử dụng cây Bạc Hà làm thuốc ừị bệnh từ 2000 năm trước
đây...(dẫn từ Lã Đình Mỡi và các tác giả, 2001).
Nền y học cổ truyền Trung Quốc và Ấn Độ đều được ghi
nhận trong lịch sử về việc sử dụng cây cỏ làm thuốc cách đây
3.000 - 5.000 năm (dẫn từ Trần Vãn ơn). Từ thời xa xưa, thực
vật làm thuốc đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống của
ngưòd dân nhiều nước ở châu Á. Tuy nhiên, người dân chủ yếu
khai thác cây thuốc từ thiên nhiên hoặc được trồng với mục đích
phục vụ ữong gia đình, trừ các quốc gia như Trung Quốc, Ắn
Độ, Indonesia và Nepal là trồng chúng với mục đích thưong
mại. Tuy nhiên, các quốc gia này cũng chỉ gây trồng ở quy mô
nhỏ và chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước (Batugal, Pons A,
layashree Kanniah, Lee Sok young và Jeeffrey T, Oliver, 2004).
Qua các nghiên cứu về lịch sử sử dụng cây thuốc của các
dân tộc trên thể giới cho thấy, mỗi dân tộc trên thế giới đều có
tri thức sử dụng cây thuốc để chữa bệnh từ lâu đời và đặc sắc
tùy thuộc vào từng nền văn hóa.
1.2. Hiện trạng tài nguyên cây thuốc trên thế giới
Theo thông tin của tổ chức Y tế thế giới (WHO) đến năm
1985, hên toàn thế giới đã biết tới trên 20.000 loài thực vật bậc
thấp cũng như bậc cao (trong tổng sổ hơn 250.000 loài thực vật
đã biết) được sử dụng trực tiếp làm thuốc hay có xuất xứ cung
cấp các hoạt chất để làm thuốc (N.R.Famsworth và
D.D.Soejarto, 1985). Theo Napralert năm 1990 con số này được
ước tính từ 30.000 đến 70.000 loài cây thuốc. Trong đó, ở Trung
Quốc đã có tói ữên 10.000 loài thực vật được coi là cây thuốc,
Ấn Độ hom 6.000 loài, vùng nhiệt đới Đông - Nam Á khoảng
6.500 loài... (dẫn từ Nguyễn Tập, 2007).
Theo Lewington (1993) đã thống kê trên thể giới có hơn
35.000 loài thực vật đang được sử dụng trong các nền văn hóa
khác nhau vào mục đích chữa bệnh. Nhiều loài trong số chúng là
đối tượng không thể kiểm soát được trong các hoạt động buôn
bán ở quy mô địa phương hoặc quốc tế (dẫn từ Phạm Văn Điển
và Phạm Minh Toại, 2005).
Nguồn gen cây thuốc đang ở trong tình trạng bị đe dọa do
mất môi trường sống, nạn phá rừng, thiên tai, sự khai thác cạn
kiệt,... Có rất nhiều bằng chửng chỉ ra rằng sự đa dạng nguồn
gen thực vật, bao gồm cả cây thuốc, đang bị giảm sút một cách
trầm trọng ở nhiều nod trên thế giới. Tình trạng này càng trở nên
trầm trọng ở những noi có mật độ dân số cao, tốc độ đô thị hóa
nhanh, và nạn phá rừng thường xuyên xảy ra, đặc biệt ở các
nước Nam và Đông Nam châu Á. Những quốc gia có nguồn gen
cây thuốc phong phú cần phải nỗ lực hon nữa để sưu tập, gìn giữ
và bảo tồn nguồn gen quý này để phục vụ cho hoạt động nghiên
cửu và sử dụng chúng một cách có hiệu quả (Md Mamtazul
Haque, 2004).
Trên thế giới có rất nhiều loài thực vật quý hiếm nhưng do
các hoạt động khai thác bừa bãi của con người nên chúng đã dần
cạn kiệt và có nhiều loài đã bị tuyệt chủng. Theo Raven (1987)
và Ole Harmann (1988) trong vòng hoai trăm năiọ trở lại đây có
khoảng 1.000 loài thực vật đã bị tuyệt chủng, có tới 60.000 loài
có thể gặp rủi ro hoặc sự tồn tại của chúng là rất mong manh vào
giữa thế kỷ tới, nếu chiều hướng này cứ tiếp tục thì các loài thực
vật ngày càng có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng, trong số này có
nhiều loài cây làm thuốc. Ví dụ ở Banglades có loài Tylopora
cindica (Burm.p.) Mer. dùng để chữa bệnh hen; loài Zanonia
indica L. dùng để tẩy xổ trước đây có rất nhiều nhvmg do khai
thác quá mức nên hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt
chủng (Islam A.s,1991). Loài Ba gạc (RauvoỊ/ìa serpentina (L.)
Benth. Ex Kurz) hàng chục năm liền bị khai thác ờ Ắn Độ,
Srilanka, Banglades, Thái Lan,... với khối lượng 400-1.000 tấn
vỏ, rễ/năm để xuất khẩu sang cảo thị trưòng Âu-Mĩ, hiện nay đã
trở nên cạn kiệt, thậm chí một số bang ở Ấn Độ, chính phủ đã
đình chỉ chính thức khai thác loài cây này. Một số loài cây thuốc
quý khác có ở vùng Đông Bắc Ân Độ là Coptis teeta, trước kia
cũng thường thu hái để bản sang các nước Đông Á, song do khai
thác quá mức nên loài này đang bị đe dọa. Vì vậy, song song với
nghiên cứu về sử dụng cây thuốc thì một vấn đề cấp bách khác
được đặt ra là phải bảo tồn các loài cây thuốc. Tại Hội nghị
Quốc tế về bảo tồn quỹ gen cây thuốc họp từ ngày 21 đến 27
tháng 3 năm 1993 tại Chiêng Mai, Thái Lan, hàng loạt các công
trình nghiên cứu về tính đa dạng và việc bảo tồn cây thuốc được
đặt ra một cách cấp thiết.
Ngày nay, đã là báo động về hậu quả mất đi nhanh chóng
tính đa dạng của nguồn tài nguyên sinh học, trong đó cỏ cây
thuốc của mỗi quốc gia. Tư liệu từ tổ chức Bảo tồn thiên nhiên
và tài nguyên thiên nhiên quốc tế (IƯCN) cho biết, trong tổng số
43.000 loài thực vật mà Tổ chức này thông tin, thì có tới 30.000
loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác
nhau. Trong tập tài liệu “Các loài thực vật bị đe dọa ở Ấn Độ”
xuất bản từ năm 1980 đã đề cập tới 200 loài, trong đó phần lớn
sổ loài là cây thuốc. Trong bộ “Trung Quốc thực vật hồng bì
thư” (sách Đỏ về Thực vật của Trung Quốc), năm 1996 cũng
giód thiệu gần 200 loài được sử dụng làm thuốc, cần bảo vệ (dẫn
từ Nguyễn Văn Tập, 2007).
Các nguyên nhân làm suy giảm tài nguyên thuốc:
- Tàn phá thảm thực vật,
- Hoạt động du canh du cư,
- Khai thác quá mức và sử dụng lãng phí tài nguyên cây thuốc,
- Nhu cầu sử dụng cây thuếc tăng lên,
- Khai thác không có kế hoạch và thay đổi cơ cẩu cây trồng,
- Tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc không được tư liệu hóa
và bị thất truyền.
10
Hoạt động bảo tồn tài nguyên cẫy thuốc:
Bảo tồn nguyên vị ựn-situ conservatỉon): Chỉ có một số
nước tham gia. Một trong những nước này là Sri Lanka, với 50
khu bảo tồn cây thuốc. Tại Ấn Độ có 30 trung tâm bảo tồn
nguyên vị. Tại Trung Quốc các khu bảo tồn tài nguyên cây
thuốc cũng được thành lập.
Bảo tồn chuyển vị {Ex-situ conservatiori): Năm 1989, Tổ
chức bảo tồn các vườn thực vật Quốc tế (BGCI) đã phối hợp với
lUCN và WWF xây dựng “chiến lược bảo tồn ở các vườn thực
vật”. Trên thế giới có khoảng 1.500 vườn thực vật đă xây dựng,
trong đó có 152 vườn của 33 quốc gia chuyên trồng cây thuốc
hay trồng kểt họp với các cây kinh tế khác. Vườn thực vật ở
Tokyo có khoảng 1.600 loài, vưcm thực vật dân tộc Mexico,
Vườn thực vật ở Bimgari, Séc, BaLan cũng rất lớn và có nhiều
loài được gây trồng.
Trồng cây thuốc đã có một số nước gây ừồng cây thuốc với
quy mô lớn phục vụ công tác y tể và bảo tồn với quy mô lớn như
Trung Quốc, Ấn Độ (Trần Văn ơn, 2003).
Vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung, bảo tồn cây
thuốc nói riêng đang được nhiều quốc gia và các Tổ chức Quốc
tế quan tâm.
2. ở Việt Nam
2.1. Vài nét Y học cổ truyền Việt Nam
Y học cổ truyền (YHCT) Việt Nam ra đời rất sớm và gắn
liền với sự phát triển của lịch sử và truyền thống văn hóa dân tộc
(YHCT bao gồm YHCT chính thống và YHCT bản địa của các
dân tộc thiểu số). Trải qua hàng ngàn năm lịch sử YHCT Việt
11
Nam đă đúc kết được nhiều kinh nghiệm phòng chữa bệnh có
hiệu quả. Trong suốt những năm 1884 - 1945, Y học hiện đại
xâm nhập vào Việt Nam qua người Pháp. Y học hiện đại được
sự bảo trợ, ủng hộ của chính quyền thực dân, phong kiến YHCT
bị khoa học coi thường khinh rẻ nên YHCT hầu như không được
quan tâm thích đáng và bị gạt bỏ khỏi vị trí chính thống cho dù
nó vẫn luôn đem lại giá trị chữa bệnh cho nhân dân. Sau Cách
mạng tháng 8, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến việc kể
thừa, phát huy, phát triển YHCT với phưomg châm xây dựng
một nền Y học hiện đại - dân tộc và đại chúng. Hiện nay, Nhà
nước ta đã có nhiều nỗ lực cho công tác điều tra nghiên cứu về
cây thuốc và kế thừa, phục vụ cho nhu cầu chăm sóc sức khỏe
cho toàn dân ngày một tốt hoTi.
2.2. Lược sử các nghiên cửu về cây thuốc Việt Nam
Nghiên cứu về cây thuốc Việt Nam đã có lịch sử lâu đời và
có sự thay đổi nhất định qua các thời kỳ khác nhau, có thể chia
ra làm các giai đoạn như sau:
Thời kỳ trước Pháp thuộc
Trong thời kỳ này, nước ta đã có những nghiên cứu về cây
thuốc và các phưomg pháp chữa bệnh bằng cây thuốc; “Nam
dược thần hiệu”, “Hồng nghĩa giác y thư” của Đại y thiền sư
Tuệ Tĩnh và tác phẩm “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” của Hải
Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác. Các tác phẩm này có ý nghĩa to
lớn cho nền YHCT dân tộc.
Bộ “Nam dược thần hiệu” do Hòa Thượng Bản Lai ở chùa
Hồng Phúc ở Trung Đô biên tập, bổ sung in lại năm 1761, gồm
bản thảo dược tính 499 vị và 10 khoa chữa bệnh, với 3.932
phương thuốc nam ứng trị 184 loại bệnh.
12
Danh y Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác có vị trí quan
họng ừong nền YHCT Việt Nam. Lê Hữu Trác (1725 - 1792)
soạn bộ “Hải thượng y tông tâm lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển bao
gồm lý, pháp, phương dược và biện chứng lý luận trị về nội khoa,
ngoại khoa, nội sản....Bộ sách này được đánh giá cao trong và
ngoài nước đồng thời đã đánh dấu một bước tiến mới của YHCT
dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển nền YHCT của nước ta.
Tuệ Tĩnh và Lê Hữu Trác có công to lóu trong việc chăm
sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân trong giai đoạn này, đồng thòi
các ông đã thống kê ghi chép lại các kinh nghiệm chữa bệnh
hiệu nghiệm chữa bệnh dân gian quý báu và đúc rút ra những
bài thuốc chữa bệnh hiệu nghiệm, để viết thành sách lưu truyền
cho hậu thế. Tuy nhiên, các tác phẩm chỉ tập trung nghiên cứu
về công dụng chữa bệnh của các cây thuốc, các phương pháp
chữa bệnh... mà chưa có điều kiện nghiên cứu về phân bố, trữ
lưọug của các loài cây thuốc trên lãnh thổ Việt Nam.
Thời ^ Pháp thuộc đến Cách mạng tháng Tám 1945
Dưới thcã Pháp thuộc có một sự cạnh tranh sâu sắc giữa
YHCT và Y học hiện đại. Trong giai đoạn này không có một
công trình nghiên cứu nào về cây thuốc của Việt Nam được thực
hiện do nền YHCT bị chính quyền thực dân Pháp đàn áp và bóp
nghẹt không cho phát triển.
Một số nhà khoa học người Pháp đã có những cố gắng tìm
hiểu những cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam và đã biên soạn
thành tài liệu để lại. Trong các tài liệu viết tương đối hệ thống
có hai bộ là:
Bộ thứ nhất “Dược liệu và dược điển Trung Việt” của hai
tác giả E.M.Peưot và Paul Hurrier xuất bản tại Pari năm 1907.
13
Trong bộ sách này các tác giả chia thành 2 phần lớn, phần một
có sự nhận xét chung về nền y học Á Đông, việc, hành nghề y ở
Trung Quốc và Việt Nam, phần hai là kiểm kê các danh mục
thuốc có nguồn gốc thực vật, động vật, khoáng vật dùng trong y
học Trung Quốc và Việt Nam. Tài liệu có tính chất toàn diện,
song bộ sách xuất bản đã khá lâu nên so với sự tiến bộ của khoa
học hiện nay thì có nhiều thiếu sót cần phải được sửa lại và bổ
simg thêm. Nội dung giới thiệu từng vị thuốc còn quá sơ lược so
với sự đòi hỏi thực tế hiện nay.
Bộ thứ hai “Danh mục những sản phẩm ở Đông Dương”;
Phần cây thuốc do hai tác giả Ch.Crevest và A. Petelot biên soạn
2 tập là: Tập I in năm 1928, tập II in năm 1935 với 1.430 vị
thuốc thảo mộc của 3 nước Đông Dương. Đến năm 1952,
A.Petelot có sửa chữa lại và bổ sung thêm, đặt cho bộ sách có
cái tên mới là “Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt
Nam” với 1.428 vị thuốc thảo mộc và được in thành 4 tập (theo
Đỗ Tất Lợi, 2006).
Thời kỳ sau cách mạng thảng Tám đến nay :
Sau cách mạng tháng Tám, nhất là sau khi miền Bắc được
giải phóng năm 1954, các nhà khoa học Việt Nam có nhiều
thuận lợi ừong việc sưu tầm, nghiên cứu các cây cỏ được sử
dụng làm thuốc trên cả nước.
Trong giai đoạn chiến tranh các nhà khoa học Việt Nam đã
bước đầu thống kê, hệ thống lại, tìm hiểu sổ lượng, khu phân bố
các loại cây thuốc. Công việc này được tiến hành trong suốt một
thời gian dài với sự tham gia của nhiều nhà khoa học đầu ngành
như Đỗ Tất Lợi, Vũ Văn Chuyên, Võ Văn Chi...
Trong các nghiên cứu về cây thuốc Việt Nam có một công
trình nghiên cứu điển hình như cuốn sách “Cây thuốc và vị
14
thuốc Việt Nam” của Đồ Tất Lợi gồm 6 tập được in từ năm
1962 - 1965. Tác giả đã trình bày khoảng 430 loài cây thuốc
thuộc 116 họ, đã thống kê các cây thuốc và vị thuốc bằng tên
khoa học, tên phổ thông, tên dân tộc của một số cây thuốc, ông
đã ghi chép một cách tỉ mỉ các thông tin như: Đặc điểm nhận
biết, đặc tính sinh học và sinh thái học, phân bố địa lý, công
dụng và cách dùng của các dân tộc có sử dụng vị thuốc này, các
công trình khoa học trên thể giới có liên quan đến cây thuốc.
Theo LI Brekhman, A.F Hammerman, I.v Gruxvitxki nhận xét
bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất
Lợi có thể sánh ngang vói bất kỳ một công trình nào khác về
dược liệu nhiệt đới (dẫn từ Đỗ Tất Lợi).
Cuốn “Tóm tắt đặc điểm các cây họ thuốc” của Vũ Văn
Chuyên, xuất bản năm 1996. Cuốn sách đã tóm tắt được hầu hết
các đặc điểm của các họ có cây thuốc Việt Nam. Tác giả đã mô
tả đầy đủ các thông tin về; tên khoa học, tên phổ thông, đặc
điểm nhận biết chung, khu vực phân bố của từng họ cây thuốc.
Đây là việc có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đầu của công
tác nghiên cứu về thực vật cây thuốc ở Việt Nam.
Cuốn sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” của Võ Văn Chi,
xuất bản năm 1997. Tác giả đã thống kê, mô tả chi tiết về tên
khoa học, tên phổ thông, tên địa phưong, các đặc điểm nhận
biết, đặc tính sinh học và sinh thái học, phân bố địa lý, công
dụng, cách dùng của các dân tộc có sử dụmg vị thuốc này, các
công trình khoa học trên thế giới đã công bố có liên quan đến
cây thuốc... của 3.200 loài cây thuốc mọc tự nhiên ở Việt Nam
và các cây thuốc được du nhập gây trồng ở Việt Nam. Cuốn
sách mô tả siiứi động hình ảnh các cây thuốc bằng hình vẽ và
ảnh màu.
15
Các công trình khoa học như “Cây thuốc và vỊ thuốc Việt
Nam”, “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc”, “Từ điển cây thuốc
Việt Nam” là những tài liệu cẩm nang tra cứu cần thiết cho cán
bộ giảng dạy, là tài liệu nghiên cứu cho các uửià khoa học, cán
bộ, sinh viên và những ai quan tâm đến việc tìm hiểu tài nguyên
cây thuốc Việt Nam.
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình khoa học được công bố
có liên quan tới nguồn tài nguyên cây thuốc Việt Nam như “Cây
cỏ có ích Việt Nam” của Võ Văn Chi, Trần Hợp xuất bản năm
1999, “Từ điển thực vật thông dụng” tập I, tập II của Võ Văn
Chi xuất bản năm 2003...
2.3. Hiện trạng tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam
2.3.1. Tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm
diện tích hẹp nhưng kéo dài có nhiều đỉnh núi cao ữên 2000m.
Do đó, đã tạo nên khí hậu khác nhau và với một quần thể thực vật
hết sức phong phú. Cây thuốc là một trong những thực vật được
hình thành trong điều kiện tự nhiên như vậy nên cây thuốc của
Việt Nam rất phong phú vả đa dạng về số lượng và chủng loại.
Công tác điều tra của Viện Dược liệu - Bộ Y tế ở tất cả các địa
phưorng trên toàn quốc kết quả điều tra từ năm 1961 đến cuối năm
2004, đã ghi nhận ở nước ta có 3.948 loài cây thuốc, thuộc 307 họ
của 9 ngành thực vật (kể cậj)ấm). Cụ thể, nhóm Tảo (Algae) có 52
loài, thuộc 19 họ. Nhóm Nấm (Pungi) có 22 loài, 12 họ. Ngành
Rêu (Psilotophyta) có 1 loài 1 họ. Ngành Thông đất
(Lycopodiophyta) có 25 loài 2 họ. Ngành cỏ Bút tháp
(Equisetophyta) có 3 loài, 1 họ. Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta)
có 128 loài, 26 họ. Ngành Thông (Gymnospermae) có 38 loài, 11
16
họ và ngành Ngọc lan (Angiospermae) có 3.675 loài thuộc 231 họ
(theo Nguyễn Tập, 2007).
Hiện nay, các nhà khoa học đã thống kê được gằn 300 loài
cây thuốc mọc tự nhiên ờ rừng, thường xuyên được khai thác
với khối lượng từ 10.000 - 20.000 tấn mồí năm cung cấp thị
trường trong nước và xuất khẩu. Các loài cây thuốc đang được
khai thác vởi số lượng lớn như Vàng Đắng, Thiên niên kiện,
Cẩu tích, Hoàng đẳng, Chè đây... Phần lớn các cây thuốc trên
được đưa vào sừ đvmg trực liếp trong nền YHCT. Một số loài
dẳ được đưa vào chiết suất hoạt chất để dùng làm thuốc như
Thanh cao chiết artemisinin làm thuốc chừa sốt rét, Dừa cạn
chiết suất alcaioid làm thuốc hạ huyết áp và dãn mạch máu
nâo, Bình vôi chiết suất L. tetrahydro palmatin làm thuốc an
thần giảm đau, Kim tiền thảo chiết saponin làm thuốc chữa sòi
thận... Hảng chục các loài thuốc quý như Đa kích, Thổ phục
linh... đẫ được xuất khẩu, mang lại giá trị tới hơn 10 triệu đô ỉa
Mỹ mồi năm (Nguyễn Tập, 2007). Với 3.948 loài cây thuốc đã
biết đến hiện nay, cây thuốc trong tự nhiên có vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc cung cấp thuốc sử dụng trực tiếp trong
nền YHCT, nguyên liệu ban đầu đề sản xuất thuốc hiện đại và
xuất khẩu.
2.3.2. Cảc nguyên nhân ỉàm suy giảm tài nguyên cây thuốc
Tài nguyên cây thuốc trong những nâm gần đây suy giảm về
số lượng và chất lượng rất lớn đo các nguyên nhân chính sau:
Tàn phả thàm thực vật:
Thảm thực vật rừng bị tàn obĩỉ
-ỉif Tac Jần s ờ agày càng
tăng lên và các hoạt động khtD thảe gè, m è rông éiện u'ch canh
tác...
17
Hoạt động du canh du cư:
Nước ta có đông đảo đồng bào dân tộc có truyền thống du
canh du cư. Lối canh tác này chỉ phù hợp khi diện tích rừng còn
nhiều, hiện nay diện tích rừng của Việt Nam suy giảm nghiêm
trọng, dân số tăng nhanh quỹ đất du canh ít đi dẫn đến việc chu
kỳ quay vòng ngắn, tài nguyên rừng trong đó có cây thuốc bị tàn
phá và mất môi trường sống.
Khai thác quả mức tài nguyên cây thuốc:
Có tới 90% cây thuốc được khai thác trong tự nhiên, tập
quán frồng cây thuốc không được quan tâm đúng mức. Người
dân không có ý thức khai thác cây thuốc bền vững, họ quen khai
thác theo lối “đào tận gốc, chốc tận rễ”.
Nhu cầu sử dụng cây thuốc tăng lên:
Hiện nay, con người đang có xu hướng quay trở lại phương
pháp chăm sóc sức khỏe bằng y học cổ truyền. Hơn nữa, nguồn
nguyên liệu cây thuốc được thu mua để chữa các bệnh quan
trọng như thuốc kháng sinh, hoocmon, các chất quinin...
2.3.3. Tài nguyên cây thuốc dân tộc ở Việt Nam
Với hơn 54 cộng đồng dân tộc phân bố ữên khắp đất nước,
nguồn tài nguyên cây thuốc dân tộc của Việt Nam vô cùng
phong phú và đa dạng.
Cho đến naỵ, Việt Nam vẫn chưa thống kê được đầy đủ tài
nguyên cây thuốc của tất cả các cộng đồng dân tộc sinh sống
trên lãnh thổ. Chưa biết chính xác hiện có bao nhiêu loài cây
thuốc dân tộc ở Việt Nam ngoài những loài đã thống kê, sự phân
bố và sử dụng chủng. Nước ta cũng chưa thể thống kê được đầỳ
đủ và chính xác hiện có bao nhiêu loài đã bị mất và đang bị đe
dọa tuyệt chủng.
18
Trong bài báo “Sử dụng tài nguyên cây thuốc - Sự chia sẻ
công bằng và hợp lý” (2004) tác giả Trần Công Khánh đã làm
rõ nét đặc trưng của cây thuốc dân tộc là cùng một cây thuốc
với dân tộc này thì rất quý nhưng với dân tộc khác nó không
được sử dụng thì nó như một cây cỏ hoang dại. Cũng cùng một
cây thuốc đó nhưng mỗi dân tộc lại chữa các loại bệnh khác
nhau, cách sử dụng khác nhau. Như vậy, giá trị và cách sử
dụng cây thuốc của mỗi dân tộc rất khác lứiau và mang những
đặc tnmg riêng.
Hiện nay, ở nước ta chưa có những công trình nghiên cứu
hoàn chỉnh về các kiiủi nghiệm truyền thống y học dân gian của
các dân tộc ít người. Đã có một số công trình nghiên cứu nhưng
còn mang tính thăm dò, sim tầm là chính, như “Nghiên cứu về
kinh nghiệm phòng chữa bệnh của dân tộc Mường, Thanh Hóa,
Nghệ An” (Phó Đức Thành, 1930), “Cây thuốc mọc tự nhiên
quanh các trạm kiểm lâm dọc biên giói phía Bắc” (Phó Đức
Thuần cộng tác với cục Kiểm lâm. Bộ Lâm nghiệp, 1975),
“Kinh nghiệm của người Dao - Ba Vì” (Đỗ Thị Phưomg, 1994).
Tư liệu hóa tất cả các tài nguyên cây thuốc của tất cả các
cộng đồng dân tộc Việt Nam là vấn đề cấp thiết hiện nay để bảo
tồn tírdi đa dạng sinh học cây thuốc và tri thức sử dụng cây
thuốc của các cộng đồng. Tri thức sử dụng cây thuốc của các
cộng đồng dân tộc thì có nhiều lứumg cho đến nay, chưa có một
người nào, một dân tộc miền núi nào của nước ta tự đến cơ quan
nhà nước đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ về tri thức đó. Đây
thực sự là nguồn tài sản có giá trị, nếu biết cách quản lý, khai
thác hợp lý thì nguồn tài nguyên tri thức này sẽ mang lại cuộc
sống sung túc cho các dân tộc có hoạt động làm thuốc và việc
khai thác, sử dụng bền vững.
19
- Xem thêm -