Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Kỹ năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự...

Tài liệu Kỹ năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

.DOCX
42
270
106

Mô tả:

KỸ NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
KỸ NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Trong lộ trình của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, thì Tòa án được xác định là trung tâm của cải cách tư pháp, hoạt động xét xử là trọng tâm. Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự thì cần “bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Hoạt động của Tòa án tại phiên tòa là để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án. Xét xử là một dạng đặc biệt của hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Tòa án, mà cụ thể là Hội đồng xét xử tiến hành công khai. Chính vì vậy, một phiên tòa hình sự có bảo đảm tính chất tranh tụng hay không phụ thuộc nhiều vào yếu tố, trong đó vai trò của chủ tọa phiên tòa có thể nói là quan trọng nhất. Kết quả của phiên tòa như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử hiện nay, một số Thẩm phán vẫn chưa thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết số 08, nên đã có không ít phiên tòa chưa thể hiện tinh thần tranh tụng, phán quyết của Tòa án chưa căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Việc vẫn còn những tình trạng này cũng có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về các Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa chưa nắm vững các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và tinh thần của Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, thì Chủ tọa phiên tòa vừa là người tiến hành tố tụng, vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Chính vì vậy, để việc tổ chức và điều khiển tốt phiên tòa theo đúng tinh thần của cải cách tư pháp và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì chủ tọa phải thực hiện nhiều việc ngoài những công việc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần chú ý, thực hiện tốt những công việc cụ thể như: 1. Những công việc chuẩn bị để Hội đồng xét xử vào phòng xử án - Đối với các vụ án phức tạp, đông bị cáo Thẩm phán chủ toạ cần có sự trao đổi thống nhất nội dung thẩm vấn với Hội thẩm về kế hoạch thẩm vấn. Thẩm phán có thể phân công từng Hội thẩm phụ trách một phần thẩm vấn cụ thể hoặc người tham gia tố tụng cụ thể để tránh việc câu hỏi lặp đi lặp lại, không đúng trọng tâm giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm nhân dân. - Yêu cầu Thư ký kiểm tra sự có mặt của Kiểm sát viên, bị cáo, những người tham gia tố tụng được triệu tập, phổ biến nội quy phiên toà rồi mời Hội đồng xét xử vào phòng xử án. 2. Thủ tục bắt đầu đầu phiên toà 2.1. Khai mạc phiên toà - Khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, Thư ký yêu cầu tất cả mọi người có mặt trong phòng xử án đứng dậy. Lưu ý, về tác phong Thẩm phán chủ tọa phiên toà nên có động tác quan sát toàn bộ phòng xử án rồi mới khai mạc phiên tòa, sau đó mời mọi người ngồi xuống. Tránh trường hợp Thẩm phán chủ tọa vào chưa nhìn ai cả đã khai mạc rồi mời mọi người ngồi xuống, như vậy mất đi tính uy nghiêm của phiên toà. - Thay mặt Hội đồng xét xử Thẩm phán chủ tọa phiên tòa công bố Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử. Khi đọc quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử Chủ toạ nên đọc to, dõng dạc, chậm rãi để tăng tính trang nghiêm của phiên toà. Lưu ý, khi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử Chủ tọa phiên toà nên yêu cầu bị cáo đứng vào vành móng ngựa và những người tham gia tố tụng có giấy triệu tập của Toà án phải đứng dậy để nghe quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử, không nên để như hiện nay nhiều phiên tòa khi công bố quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử Chủ tọa vẫn để tất cả mọi người ngồi nghe là không bảo đảm tính uy nghiêm của phiên tòa. Sau khi công bố quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử, Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Thư ký phiên tòa báo cáo sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa cần căn cứ vào đề cương điều khiển phiên tòa để thực hiện các thủ tục cần thiết. Cần lưu ý, phần mở đầu phiên tòa là rất quan trọng, nếu diễn ra suôn sẻ thì các phần sau sẽ rất thuận lợi và giúp cho Thẩm phán chủ tạo phiên tòa tự tin và chủ động hơn trong việc điều khiển phiên tòa. 2.2. Kiểm tra căn cước những người được triệu tập đến phiên toà a. Đối với bị cáo Chủ tọa phiên tòa cần hỏi kỹ về tên, tuổi, thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú, nơi làm việc, trình độ học vấn, họ tên cha, mẹ, hoàn cảnh gia đình. Kiểm tra nhân thân của bị cáo đã bị kết án lần nào chưa? Nếu có thì bị kết án về tội gì, Tòa án nào xử, thời gian xử, tù giam hay án treo, đã chấp hành hình phạt xong chưa, trong vụ án này có bị tạm giam, tạm giữ không, thời gian bao lâu hoặc có bị xử lý hành chính không, nếu có thì bị xử lý về hành vi gì, thời gian xử lý? Để có cơ sở xác định về tiền án, tiền sự làm cơ sở cho việc định tội, định khung hình phạt hoặc tổng hợp hình phạt. Khi hỏi, Chủ tọa cần đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem có giống nhau không, nếu khác nhau thì phải làm rõ vì sao khác nhau. Lưu ý, nếu trước đó bị cáo được hưởng án treo, thì cần hỏi xem tại bản án trước đó bị cáo có bị tạm giam, tạm giữ ngày nào không và thời gian bao lâu để trừ cho bị cáo nếu vụ án phải tổng hợp hình phạt của hai bản án. Đây là trường hợp rất dễ quên và nhầm lẫn. Hỏi bị cáo đã nhận được bản Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa. Nếu bị cáo chưa nhận được hoặc đã nhận được nhưng dưới 10 ngày và yêu cầu hoãn xử thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử thì mới được xét xử và cần phải có biên bản ghi lại sự tự nguyện đó. b. Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Chủ toạ chỉ cần hỏi về tên tuổi, nghề nghiệp và nơi ở của họ. Lưu ý, đối với người đại diện hợp pháp của người bị hại, khi nghiên cứu hồ sơ thấy, đối với người bị hại bị chết mà có thể có nhiều người có tư cách để là người đại diện hợp pháp, như đã phân tích ở phần trên, thì tại phiên tòa chủ tọa cần hỏi xem họ có được những người khác uỷ quyền hay không? Nếu không, mà tại phiên toà những người khác có đến thì cần hỏi luôn tại phiên toà xem họ có đồng ý để người đó làm người đại diện hợp pháp hay không? Đặc biệt là các vụ án người bị hại chết thì thường có sự tranh chấp về tư cách tham gia tố tụng có thể là cha, mẹ, vợ, anh chị em ruột… 2.3. Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác Về vấn đề này, hiện cũng có những quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng khi phổ biến quyền và nghĩa vụ thì Chủ tọa phải phổ biến quyền và nghĩa vụ cho từng người tham gia tố tụng một. Quan điểm thứ hai cho rằng nên phổ biến gộp theo nhóm những người tham gia tố tụng có chung quyền và nghĩa vụ khi tham gia phiên toà. Hiện tại, vấn đề này đã có quy định của Bộ luật tố tụng hình sự do vậy, khi phổ biến quyền và nghĩa vụ thì nên căn cứ vào quy định tại các Điều 50, 51, 52, 53, 54, 55, 58, 59, 60, 61 để phổ biến đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Song để việc điều hành phiên tòa được khoa học, ngắn gọn, dễ hiểu, Thẩm phán nên phổ biến theo nhóm quyền hoặc nghĩa vụ mà những người tham gia tố tụng được hưởng hoặc phải chấp hành. Ví dụ: Ngoài những quyền và nghĩa vụ riêng thì những người tham gia tố tụng có những quyền chung như quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu bao gồm bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại; người bào chữa; người có quyền liên quan. Quyền thay đổi người tiến hành tố tụng thì chỉ có người có quyền, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định, phiên dịch là không có quyền này, còn lại đều có quyền xin thay đổi người tiến hành tố tụng… Khi phổ biến, phải giải thích các quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng hiểu. Đối với một số quyền, khi phổ biến có thể hỏi ngay việc thực hiện quyền đó. Ví dụ: Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, nếu bị cáo đã nhờ người bào chữa thì phải hỏi xem tại phiên toà bị cáo có đồng ý để Luật sư bị cáo mời bào chữa cho mình không, nếu bị cáo không mời người bào chữa thì giải thích cho bị cáo quyền tự bào chữa, hoặc nếu Toà án chỉ định người bào chữa trong những trường hợp bắt buộc thì cũng hỏi xem bị cáo có đồng ý không… 2.4. Giải quyết việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, Thư ký Tòa án Đây là tình huống hay xảy ra, đòi hỏi Chủ toạ phiên tòa phải hết sức bình tĩnh để xử lý. Cụ thể, sau khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa công bố các thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký, nếu có người giám định, phiên dịch thì chủ tọa cũng cần giới thiệu tên, chức vụ của những người đó và phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có quyền xin thay đổi người tiến hành tố tụng, xem có ai xin thay đổi người tiến hành tố tụng hay không? Nếu có người xin thay đổi thì yêu cầu họ nói rõ lý do họ xin thay đổi. Sau khi nghe họ nêu lý do xin thay đổi, có thể là họ xin thay đổi chính chủ tọa phiên tòa vì cho rằng chủ tọa phiên tòa sẽ không khách quan, vô tư khi xét xử, nhưng không đưa ra được lý do, thì cũng không vì thế mà chủ tọa phiên tòa nổi nóng, có những lời lẽ gay gắt, hay lời lẽ mang tính giáo dục, răn đe mà phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, phân tích những căn cứ của việc xin thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa. Trong mọi trường hợp nếu có người tham gia tố tụng xin thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử cũng phải tuyên bố tạm dừng phiên toà để vào phòng nghị án để thảo luận. Giải quyết vấn đề này, có thể xảy ra hai trường hợp đó là: - Trường hợp thứ nhất, sau khi người bị yêu cầu thay đổi là thành viên của Hội đồng xét xử trình bày ý kiến về việc bị xin thay đổi, sau đó Hội đồng xét xử biểu quyết và quyết định theo đa số. Nếu quyết định không chấp nhận đề nghị thay đổi thì Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử và tuyên bố không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin thay đổi thành phần Hội đồng xét xử của người tham gia tố tụng. - Trường hợp thứ hai: Nếu quyết định chấp nhận đề nghị thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử theo yêu cầu của người tham gia tố tụng, thì phải xem xét xem có người thay thế không. Nếu không có người thay thế thì phải hoãn phiên tòa. Lưu ý: Nếu người bị thay đổi là Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát viên mà không có người thay thế thì phải hoãn, nếu có Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát viên dự khuyết thì những người này phải được nghiên cứu hồ sơ vụ án rồi và có mặt từ đầu tại phiên tòa thì mới được thay thế. Nếu là Thư ký Tòa án thì Chánh án hoặc Phó chánh án Tòa án sẽ cử người khác thay thế và phiên tòa sẽ xét xử bình thường. Nếu người bị yêu cầu thay thế là người giám định, phiên dịch thì ngoài việc yêu cầu người đề nghị thay thế phải trình bày lý do xin thay thế và người bị đề nghị thay đổi phải trình bày ý kiến của mình về việc bị xin thay đổi, sau đó Hội đồng xét xử sẽ vào phòng nghị án để thảo luận và quyết định. 2.5. Giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên toà khi có người vắng mặt Tại phiên tòa sau khi giải thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng xong, Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm tài liệu, vật chứng ra xem xét tại phiên tòa hay không? Nếu có người yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm vật chứng ra xem xét thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định tại phòng xử án. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử chủ động hoặc theo yêu cầu của Kiểm sát viên và yêu cầu của những người tham gia tố tụng quyết định có hoãn phiên tòa hay không. Tuỳ theo trường hợp Hội đồng xét xử xem xét và quyết định như sau: - Nếu vắng mặt bị cáo mà có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa, nếu bị cáo vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật tố tụng hình sự đó là: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả; Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên toà; Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ. Lưu ý: Trong trường hợp thứ nhất cần áp dụng đúng theo thông tư liên ngành số 03/TT/BNV (C11) ngày 11/4/1997 của Bộ Nội vụ “hướng dẫn việc truy nã người bị phạt tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn”. Đó là nếu bị cáo trốn tránh Tòa án hoặc Hội đồng xét xử phải ra quyết định bắt tạm giam gửi cho Cơ quan Công an và yêu cầu phải báo lại cho Tòa án kết quả bắt tạm giam. Nếu không bắt được bị cáo thì Tòa án phải làm Công văn yêu cầu Cơ quan Công an ra lệnh truy nã đối với bị cáo đồng thời tạm đình chỉ nếu thời hạn chuẩn bị xét xử đã hết. Sau một tháng, kể từ khi có lệnh truy nã mà vẫn chưa bắt được, cơ quan Công an phải báo cáo lại và Tòa án sẽ xét xử vắng mặt bị cáo. Trường hợp vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì phải hoãn phiên tòa. Nếu người chưa thành niên không khai báo về địa chỉ, Cơ quan điều tra đã xác minh làm hết trách nhiệm, nhưng bị cáo cố tình giấu địa chỉ, không xác minh được người đại diện hợp pháp hoặc các tổ chức tham gia phiên tòa thì không cần phải có người đại diện hợp pháp theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 03 ngày 20/06/1992 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an). - Vắng mặt người bào chữa: Trong những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo khoản 2 Điều 57 thì phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, trong trường hợp bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo không nhờ người bào chữa và đều từ chối việc Đoàn luật sư cử người bào chữa thì vẫn xét xử. Cần chú ý thực hiện theo đúng hướng dẫn tại điều 2 mục II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” đó là: “a. Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền được lựa chọn người bào chữa; b. Đối với bị can, bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên không có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì chỉ họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa; do đó, trong trường hợp người thân thích của họ hoặc người khác lựa chọn (mời) người bào chữa cho họ thì cần phân biệt như sau: b1. Nếu việc lựa chọn (mời) người bào chữa đã có sự đồng ý (hoặc có sự ủy quyền của bị can, bị cáo thì Tòa án cấp giấy chứng nhận bào chữa để họ thực hiện bào chữa; b2. Nếu việc lựa chọn (mời) người bào chữa chưa có sự đồng ý (hoặc chưa có sự ủy quyền) của bị can, bị cáo thì Tòa án yêu cầu người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người khác thực hiện việc lựa chọn người bào chữa phải hỏi ý kiến của bị can, bị cáo đang bị tạm giam biết việc người thân thích của họ hoặc người khác đã lựa chọn (nhờ) người bào chữa cho họ và hỏi họ có đồng ý hay không. Nếu họ đồng ý thì cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để người bào chữa thực hiện việc bào chữa”. Tại Điều 3 có quy định như sau: a.“…Trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên, nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự.” d2. Trường hợp yêu cầu từ chối người bào chữa (kể cả trường hợp đã có yêu cầu từ chối người bào chữa trước khi mở phiên tòa), thì Hội đồng xét xử cần phải giải thích cho họ biết người bào chữa sẽ giúp cho bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo và chi phí cho người bào chữa do Tòa án thanh toán. Trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần và thể chất mà cả bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo vẫn giữ nguyên ý kiến từ chối người bào chữa thì cần phải ghi vào biên bản phiên tòa và tiến hành xét xử theo thủ tục chung mà không có sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Nếu chỉ có bị cáo từ chối người bào chữa, còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không từ chối người bào chữa hoặc chỉ có người đại diện hợp pháp của bị cáo từ chối người bào chữa còn bị cáo không từ chối người bào chữa, thì tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung, có sự tham gia của người bào chữa đã được cử”. Còn nếu vắng mặt người bào chữa trong các trường hợp khác thì tuỳ trường hợp cụ thể Tòa án có thể vẫn xét xử hoặc hoãn phiên tòa, tuy nhiên các Thẩm phán cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định tại các Điều 56, 57, 58 và 190 Bộ luật tố tụng hình sự. Đặc biệt, cần lưu ý quy định bổ sung tại Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự về việc nếu người bào chữa vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử, trừ trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự. Thông thường trong các trường hợp vụ án nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp; hồ sơ vụ án có những điểm chưa thật rõ ràng; việc buộc tội bị cáo có những ý kiến khác nhau… và bị cáo yêu cầu mà người bào chữa vắng mặt có lý do chính đáng thì Toà án hoãn phiên toà. Lưu ý, việc bào chữa của luật sư do bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo mời thì nghĩa vụ của luật sư phải có mặt tại phiên tòa, song Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng cần chú ý tới việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa theo đúng quy định tại Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự, tránh trường hợp người bào chữa lấy lý do không nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử để xin hoãn phiên tòa. - Trường hợp vắng mặt người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp, cần phải có lời khai của những người này tại phiên toà mới giải quyết đúng đắn vụ án hình sự thì Hội đồng xét xử cần phải hoãn phiên toà. Nếu người bị hại, nguyên đơn đân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ của vụ án đã rõ ràng, đầy đủ, sự vắng mặt của họ không trở ngại gì cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự (khoản 2 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự). - Trường hợp vắng mặt người làm chứng: Trong những vụ án mang tính điều tra truy xét mà cần phải có những lời khai của người làm chứng tại phiên tòa, mới làm sáng tỏ được những tình tiết quan trọng của vụ án mà người làm chứng vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Lưu ý, những trường hợp muốn áp dụng biện pháp dẫn giải người làm chứng theo quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự thì cần phải có các căn cứ sau: + Người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ có giấy giao giấy triệu tập lưu trong hồ sơ; + Trong giấy triệu tập đã thông báo rõ là nếu cố ý không có mặt theo giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng thì có thể bị dẫn giải, mà họ vẫn cố tình không đến phiên toà theo giấy triệu tập; + Phải thuộc trường hợp nếu vắng mặt người làm chứng sẽ gây trở ngại cho việc xét xử hoặc phải hoãn phiên toà. - Trường hợp vắng mặt người giám định: Nếu trong trường hợp kết luận giám định đã rõ ràng, không có mâu thuẫn với các chứng cứ khác thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người giám định. Nếu vụ án có tính chất phức tạp, kết luận giám định còn có những điểm chưa rõ, cần phải hỏi thêm người giám định tại phiên toà thì phải hoãn phiên toà. 3. Xét hỏi tại phiên toà hình sự sơ thẩm Xét hỏi tại phiên tòa, hay như nhiều người thường gọi là “thẩm vấn”, chính là một phần của quá trình xét xử, trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải kiểm tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản Cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của vụ án, cũng như phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét các vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ… Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật của vụ án, cũng như là những căn cứ để xác định tội danh và quyết định hình phạt. Tuy những câu hỏi và trả lời tại phiên tòa, không khác nhiều so với những câu hỏi và trả lời trong quá trình điều tra, nhưng nó lại có ý nghĩa quan trọng vì việc hỏi và trả lời tại phiên tòa được diễn ra một cách công khai, là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của cơ quan Điều tra. Xét hỏi tại phiên tòa là một hoạt động tố tụng rất quan trọng, được quy định từ Điều 206 đến Điều 216 Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là thủ tục có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với việc chứng minh vụ án vì ở thủ tục này mọi chứng cứ đều được xem xét, thẩm tra công khai, những mâu thuẫn giữa các lời khai, giữa lời khai với vật chứng… được làm sáng tỏ để khẳng định giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Đây cũng chính là cơ sở của hoạt động tranh tụng như tinh thần của Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị. Ở Việt Nam, tranh tụng tại phiên tòa chỉ là một trong những hoạt động tố tụng chứ không bao trùm lên toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Đây là điều hoàn toàn khác với “tố tụng tranh tụng” của nhiều nước trên thế giới. Tranh tụng tại phiên tòa nhưng vẫn giữ được bản chất của tố tụng xét hỏi, trên cơ sở kết quả điều tra và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Tuy là Tố tụng xét hỏi, nhưng tính chất tranh tụng tại phiên tòa vẫn là sự tranh luận giữa những người có quyền và lợi ích đối lập nhau như Kiểm sát viên với bị cáo và người bào chữa, giữa người bị hại với bị cáo và người bào chữa, trong một số trường hợp còn có giữa Kiểm sát viên với người bị hại, giữa những người tham gia tố tụng khác với nhau. Hội đồng xét xử không phải là những người tham gia tranh tụng, nhưng lại giữ vai trò vô cùng quan trọng đó là vai trò tổ chức, điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa giữa những người có quyền và lợi ích đối lập nhau. Với vai trò quan trọng của Hội đồng xét xử trong hoạt động xét hỏi và tổ chức, điều khiển tranh tụng tại phiên tòa, và để phiên tòa đúng với yêu cầu của cải cách tư pháp thì cần phải chú ý những vấn đề sau: 3.1. Thủ tục xét hỏi chung Sau khi Chủ tọa phiên tòa đã làm xong phần thủ tục, Chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc phần thủ tục phiên toà, chuyển sang phần xét hỏi, yêu cầu đại diện Viện kiểm sát công bố bản Cáo trạng. Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS thì trước khi tiến hành xét hỏi, kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày những ý kiến bổ sung nếu có. Khi kiểm sát viên trình bày ý kiến bổ sung vào bản cáo trạng, về nguyên tắc, kiểm sát viên phải đọc nguyên văn bản cáo trạng đă được giao cho bị cáo. Tuy nhiên, Điều 206 BLTTHS lại quy định kiểm sát viên sau khi đọc bản cáo trạng có thể “trình bày ý kiến bổ sung, nếu có”. Đến nay, các cơ quan có thẩm quyền chưa có hướng dẫn cụ thể nào về quy định này nên đã dẫn tới những cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng Điều 206 BLTTHS quy định Kiểm sát viên có quyền trình bày ý kiến bổ sung sau khi đọc bản cáo trạng là không phù hợp. Vì bất kỳ sự bổ sung nào vào bản cáo trạng trước khi bắt đầu phiên tòa đều phải được giao cho bị cáo và nếu Viện kiểm sát không giao cho bị cáo thì nhất thiết phải hoãn phiên tòa. Quan điểm khác lại cho rằng “điều luật nói đến ý kiến bổ sung về bản cáo trạng, chứ không phải là bổ sung cáo trạng. Vì vậy, ý kiến bổ sung của viện kiểm sát là nhằm để làm rõ hơn nội dung cáo trạng chứ không thay đổi, bổ sung cáo trạng”. Lưu ý, như quan điểm trên thì trong khi trình bày bản Cáo trạng, Kiểm sát viên có thể trình bày ý kiến bổ sung về bản Cáo trạng, nếu có trường hợp này thì phải hiểu Kiểm sát viên chỉ trình bày ý kiến bổ sung về bản Cáo trạng, chứ không phải bổ sung Cáo trạng. Tức là, Kiểm sát viên chỉ trình bày làm rõ thêm nội dung của bản Cáo trạng chứ không phải thêm hoặc bớt nội dung của bản Cáo trạng (nếu có việc thêm hoặc bớt nội dung của bản Cáo trạng là vi phạm, nhất là trong trường hợp gây bất lợi cho bị cáo). Việc rút quyết định truy tố tại phiên toà chỉ được thực hiện trong lời luận tội của Kiểm sát viên theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự. - Để việc xét hỏi đạt kết quả tốt, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của bị cáo bằng cách đặt câu hỏi và nghe ý kiến trình bày của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đặc biệt là ý kiến của người làm chứng trong các vụ án có tính điều tra truy xét, ý kiến của người giám định đối với vụ án hình sự mà kết luận giám định có chỗ chưa rõ ràng hoặc có sự thắc mắc của những người tham gia tố tụng. Nếu cần thiết cần phải xem xét vật chứng và các tài liệu khác và phải xem xét tại chỗ. Mọi chứng cứ làm cơ sở cho Hội đồng xét xử kết luận đều phải được xem xét tại phiên tòa theo nguyên tắc “Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa” theo đúng quy định tại Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự. - Việc xem xét vật chứng hoặc công bố các tài liệu có trong hồ sơ có thể sử dụng bất cứ lúc nào trong quá trình xét hỏi, để chứng minh các tình tiết của vụ án một cách đúng đắn nhất. Ví dụ: Đối với các vụ án Cố ý gây thương tích, khi xét hỏi về hành vi và hậu quả xảy ra, nếu có mâu thuẫn thì Hội đồng xét xử có thể công bố ngày kết luận giám định pháp y, chứng thương của Bệnh viện về nguyên nhân và cơ chế hình thành vết thương, tỷ lệ thương tích mà bị cáo gây ra cho người bị hại. Đối với vật chứng cần xem xét tại chỗ, cần yêu cầu người có liên quan đến vật chứng, bị cáo phải trình bày, mô tả vật chứng trước rồi mới đưa vật chứng ra. Ví dụ: Yêu cầu bị cáo mô tả con dao đã dùng để gây án như kích thước, hình dáng, màu sắc… sau đó đưa vật chứng ra và đặt câu hỏi làm rõ các đặc tính khách quan và hợp pháp của vật chứng, làm rõ những vấn đề liên quan đến vật chứng, đối với những vật chứng không thể đưa ra phiên tòa được thì cần công bố ảnh của vật chứng và biên bản thu giữ. - Xem xét tại chỗ: Trường hợp cần xem xét địa điểm xảy ra tội phạm cũng như các địa điểm khác có liên quan đến vụ án hoặc cần xem xét vật chứng cồng kềnh không thể đưa đến phiên tòa được thì Hội đồng xét xử quyết định xem xét tại chỗ. Tùy thuộc vào địa điểm cần xem xét, Chủ tọa quyết định thành phần những người tham gia xem xét tại chỗ. Thông thường thành phần gồm: Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và người có liên quan đến vật chứng hoặc địa điểm cần xem xét. Quá trình xem xét Hội đồng xét xử có thể đặt câu hỏi để làm rõ những thắc mắc liên quan đến vật chứng, địa điểm cần xem xét. Trong thực tế xét xử, trường hợp này ít xảy ra tại phiên toà vì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu thấy cần thiết phải xem xét tại chỗ hiện trường nơi xảy ra tội phạm thì Hội đồng xét xử đã cùng với Kiểm sát viên tiến hành xem xét. Tuy vậy, cũng có trường hợp tại phiên toà sau khi công bố biên bản về hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, bị cáo, người bị hại, người làm chứng hoặc người có liên quan mới phát hiện ra những điểm mô tả trong biên bản không đúng với thực tế thì Hội đồng xét xử vẫn cần phải quyết định xem xét tại chỗ. Ví dụ: như vụ Dâm ô tại Từ Sơn, Hội đồng xét xử cũng phải xuống tận hiện trường để xem xét tại chỗ. 3.2. Về trình tự xét hỏi đối với từng người Bộ luật tố tụng hình sự không quy định phải hỏi ai trước, ai sau. Tuỳ thuộc vào vụ án hình sự cụ thể, khi nghiên cứu hồ sơ Chủ tọa phiên tòa có kế hoạch xét hỏi sao cho hợp lý. Thứ tự xét hỏi hợp lý không phải là thứ tự bất biến, phù hợp với tất cả các vụ án mà là thứ tự được xác định một cách hợp lý trên cơ sở nội dung từng vụ án cụ thể cũng như thái độ khai báo của những người tham gia tố tụng trong vụ án đó. Xác định thứ tự xét hỏi hợp lý thực sự là công việc không đơn giản, phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm, kĩ năng của người xét hỏi. Về nguyên tắc chung, theo chúng tôi, việc xác định thứ tự xét hỏi phải xuất phát từ nội dung xét hỏi (các vấn đề cần được làm rõ) trong từng vụ án, từ đặc điểm của những người tham gia tố tụng và phải đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật vụ án. Về nội dung xét hỏi, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa cần lập kế hoạch xét hỏi trong đó nêu rõ những vấn đề cần làm sáng tỏ bao gồm các tình tiết định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt như tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân của bị cáo; các tình tiết liên quan đến việc giải quyết vấn đề dân sự, xử lý vật chứng, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trên cơ sở những vấn đề cơ bản đó, tùy từng vụ án cụ thể, thẩm phán cần xác định được một cách chính xác những điểm mấu chốt cần làm rõ tại phiên tòa sơ thẩm. Từ nội dung các vấn đề cần xét hỏi, thẩm phán xác định thứ tự xét hỏi đối với từng vấn đề một. Cách thức xét hỏi theo vấn đề như vậy sẽ giúp quá trình xét hỏi được mạch lạc, rõ ràng, tránh sự trùng lặp, hỏi đi hỏi lại về cùng một vấn đề. Khi hỏi bị cáo, đối với vụ án đồng phạm thì cần phải hỏi riêng từng bị cáo, nếu thấy lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì cần cách ly các bị cáo. Bị cáo bị cách ly, được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước. Đối với vụ án có đồng phạm, Hội đồng xét xử thường chọn bị cáo chính để hỏi trước, bị cáo khác hỏi sau hoặc hỏi bị cáo khai nhận tội rõ ràng trước với hi vọng bị cáo này sẽ cung cấp những tài liệu, chứng cứ quan trọng làm sáng tỏ ngay từ đầu hành vi phạm tội của bị cáo chính. Thứ tự xét hỏi này không vi phạm quy định của BLTTHS và trên thực tế đã phát huy tác dụng, giúp việc xét hỏi không bị kéo dài mà vẫn làm rõ được nội dung vụ án. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, việc xét hỏi bị cáo trước (nhất là bị cáo nhận tội) dễ tạo cảm giác không khách quan, khiến người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa cho rằng mọi việc xét hỏi sau đó chỉ nhằm củng cố lời nhận tội của bị cáo; bản thân hội đồng xét xử cũng khó tránh khỏi định kiến là bị cáo đã có tội và chỉ cần củng cố chứng cứ để kết tội. Ví dụ: Trong vụ án đồng phạm, nếu bị cáo có vai trò đầu vụ mà thái độ khai báo thành khẩn thì hỏi trước, nếu bị cáo đầu vụ có thái độ khai báo thiếu thành khẩn hoặc có khả năng sẽ phản cung trước phiên tòa thì không nên hỏi trước mà hỏi các bị cáo có vai trò thứ yếu, quá trình hỏi nên dùng ngay lời khai của các bị cáo này để đấu tranh với bị cáo đầu vụ làm sáng tỏ ngay từ đầu hành vi phạm tội của bị cáo chính. Theo quy định tại khoản 2 Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự, thì trước khi hỏi bị cáo, phải để bị cáo trình bày ý kiến của họ về bản Cáo trạng và những tình tiết của vụ án, sau đó mới hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc còn mâu thuẫn. Theo quy định tại khoản 3 Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự, thì Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội đối với bị cáo. Đây là quy định mới và rất quan trọng đối với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, do đó tại phiên tòa nếu có những lời khai mâu thuẫn hoặc các bị cáo không thừa nhận bản Cáo trạng thì Kiểm sát viên phải có trách nhiệm chứng minh để bảo vệ bản Cáo trạng của mình, trong bản luận tội của Kiểm sát viên không phải chỉ nêu các tình tiết, chứng cứ buộc tội bị cáo mà còn phải nêu đầy đủ cả các tình tiết, chứng cứ gỡ tội cho bị cáo (nếu có). Nếu thông qua phần xét hỏi mà chứng minh bị cáo không phạm tội thì Kiểm sát viên còn phải rút quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án. Trong vụ án có nhiều hành vi phạm tội hay có nhiều tội bị truy tố, Chủ tọa phiên tòa nên lựa chọn những hành vi cụ thể rõ ràng để hỏi trước. Tùy theo từng trường hợp cụ thể Hội đồng xét xử quyết định trình tự xét hỏi đối với từng người, đối với từng hành vi hoặc từng tội. Đối với hành vi hoặc tội phạm này thì hỏi bị cáo là người thực hành trước; nhưng đối với hành vi hoặc tội phạm khác thì có thể hỏi người tổ chức, người giúp sức, người xúi giục trước… Tuy Điều 207 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định về trình tự xét hỏi. Song thực tế, việc xét hỏi đa phần do Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa hỏi là chính và để xác định sự thật khách quan của vụ án có thể phải xét hỏi nhiều lần, cùng một lúc có thể xét hỏi nhiều người để kiểm tra tính xác thực của vụ án. Ví dụ: Trong khi xét hỏi bị cáo, chủ tọa có thể yêu cầu người làm chứng, người bị hại hoặc các bị cáo khác trong cùng vụ án, khai báo để kiểm tra, đối chứng ngay tính khách quan, đúng đắn trong các câu trả lời của bị cáo. Điều này, giúp cho người xét hỏi xác định sự thật khách quan của vụ án toàn diện hơn. Lưu ý, chỉ được công bố lời khai của người bị xét hỏi tại cơ quan điều tra, trong các trường hợp sau: + Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ tại cơ quan điều tra. + Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa (từ chối khai báo tại tòa). + Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết. Khi công bố lời khai của họ, Chủ tọa phiên tòa cần hỏi xem họ có còn nhớ lời khai của họ tại cơ quan điều tra hay không, rồi mới công bố lời khai, sau khi công bố lời khai cần yêu cầu họ khẳng định lời khai của họ. Nếu họ chối bỏ cần cho họ xem và xác nhận chữ ký của họ tại biên bản hỏi cung bị can hoặc biên bản ghi lời khai. * Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của việc đặt câu hỏi. Việc đặt câu hỏi, có vai trò rất quan trọng trong quá trình xét hỏi, xác định sự thật của vụ án. Câu hỏi được đưa ra phải đáp ứng được các yêu cầu sau: - Thứ nhất: Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng về nội dung và xác định được đối tượng cần được làm rõ. Tránh trường hợp đặt câu hỏi dài dòng, vòng vo làm cho người được xét hỏi khó nắm bắt để trả lời. Trong quá trình đặt câu hỏi, có thể đặt ra các câu hỏi không trực tiếp liên quan đến đối tượng nhằm kiểm tra các chứng cứ, lời khai. Tuyệt đối không được đưa ra các câu hỏi mang tính đánh đố hoặc “mớm” cho người được xét hỏi trả lời theo hướng đã định sẵn. Thứ hai: Không nên đặt câu hỏi và yêu cầu người được xét hỏi chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Với tâm lý sợ hãi, mất bình tĩnh của người được xét hỏi tại phiên toà, nhất là các bị cáo thì việc đặt câu hỏi như vậy rất thiếu khách quan. Ví dụ: Có vụ án về tội giết người xảy ra vào hồi 21h ngày 25/9/2009 tại nhà nghỉ A và bị cáo bị truy tố về tội giết người với vai trò là người thực hành. Để kiểm tra xem bị cáo có chứng cứ ngoại phạm không thì không được đặt câu hỏi “vào 21h ngày 25/9/2009 bị cáo có mặt ở nhà nghỉ A phải không?” để bị cáo trả lời “có” hoặc “không”; mà phải đặt câu hỏi “vào 21h ngày 25/9/2009, bị cáo đang ở đâu và làm gì?”. Hỏi như vậy để bị cáo nhớ lại và trả lời khi đó bị cáo đang ở đâu và làm gì. Câu trả lời của bị cáo đối với câu hỏi sẽ bảo đảm tính khách quan hơn vì đã huy động được tư duy khách quan của bị cáo. Trong quá trình xét hỏi tránh trường hợp đôi co với người được xét hỏi. Trong vụ án có đồng phạm, cần xác định hỏi bị cáo nào trước, bị cáo nào sau, làm sao cho việc xét hỏi được thuận lợi nhất và làm sáng tỏ được sự thật khách quan của vụ án. Đôi khi không nhất thiết phải buộc các bị cáo đều phải trình bày lại các tình tiết của vụ án, khi hỏi bị cáo đầu tiên về các tình tiết của vụ án, nên kết hợp việc dùng các bị cáo khác, xác định lời khai của bị cáo đang được xét hỏi, khẳng định về các tình tiết của vụ án. Nếu có sự mâu thuẫn giữa lời khai của các bị cáo, cần tiến hành đối chất ngay tại phiên toà. Lưu ý một số tình huống thường gặp khi xét hỏi: - Đối với trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, mà có khó khăn trong việc khai báo thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu cha mẹ, người giám hộ của họ giúp đỡ để hỏi bị cáo. Nếu thấy có mặt của những người này làm cho bị cáo không dám khai, thì mời họ tạm rời khỏi phòng xử án. Sau khi bị cáo đã khai thì lại mời họ vào phòng xử án và nhắc lại nội dung mà bị cáo vừa khai báo để họ được biết. - Đối với những trường hợp bị cáo nhận tội: Trong trường hợp bị cáo nhận tội thành khẩn, thì Chủ tọa phiên tòa cũng không được chủ quan tin vào lời khai của bị cáo ngay, mà cần cho bị cáo trình bày đầy đủ các hành vi phạm tội và tình tiết của vụ án. Các tình tiết này phải thể hiện rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, cần dùng các chứng cứ khác để kiểm tra, chứng minh lời nhận tội của bị cáo là đúng. Cần xác định động cơ nhận tội của bị cáo để có phương án giải quyết vụ án thích hợp. Động cơ nhận tội của bị cáo có thể bao gồm: Nhận tội do thực sự thành khẩn; Nhận tội nhẹ để che giấu một tội khác nặng hơn;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146