KỸ NĂNG SOẠN THẢO BẢN ÁN HÌNH SỰ
KỸ NĂNG SOẠN THẢO BẢN ÁN HÌNH SỰ
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA BẢN ÁN HÌNH SỰ
Hoạt động tố tụng hình sự được nhiều cơ quan thực hiện, trong đó hoạt động
xét xử của Tòa án giữ vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó quyết định đến sinh mệnh
chính trị, quyền con người cũng như lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp đặc biệt, nó còn quyết định đến quyền được sống của con người.
Trong đó, Bản án hình sự là một văn bản tố tụng hình sự ghi nhận các kết luận và
quyết định của Hội đồng xét xử, cao hơn nữa đó là sự đánh giá của Nhà nước đối
với một hành vi, một con người cụ thể khi hành vi đó, con người đó, bị truy tố
trước Tòa án. Bản án hình sự đánh dấu sự kết thúc của quá trình điều tra, truy tố và
xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, do vậy bản án phải phản ánh trung thực
diễn biến của vụ án và phải xác định rõ sự thật khách quan, đó là:
Có sự việc phạm tội xảy ra không? Thời gian, địa điểm phạm tội. Ai là người
đã thực hiện các hành vi phạm tội và hành vi đó có cấu thành tội phạm không? Nếu
là tội phạm thì phạm tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của Bộ luật hình sự? Các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội, động
cơ, mục đích, hoàn cảnh, điều kiện của tội phạm đó…
Căn cứ vào các kết luận, các phân tích, đánh giá nêu trên thông qua cuộc thẩm
vấn công khai tại phiên tòa, kết quả tranh luận giữa người bào chữa và đại diện
Viện kiểm sát, giữa bị cáo và những người tham gia khác tại phiên tòa với bản Cáo
trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, để Hội đồng xét xử Quyết định hình
phạt cho tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Nếu không có tội
thì Hội đồng xét xử phải xác định những căn cứ để tuyên bố bị cáo không phạm tội
và giải quyết việc phục hồi danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Bản án hình sự là một loại văn bản tố tụng hình sự khi được ban hành và có
hiệu lực pháp luật thì những quyết định trong bản án sẽ đưa đến các hậu quả pháp
lý rất lớn và rất quan trọng mang tính Hiến định thể hiện tại Điều 72 Hiến pháp
năm 1992 là “Một người chỉ được coi là có tội và phải chịu hình phạt khi có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Bộ luật tố tụng hình sự cũng đã quy định “Không ai có thể bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án” (Nguyên tắc suy đoán vô tội) - Điều 9 BLHS năm 2003.
Điều 136 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Các bản án, quyết định của tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi người dân tôn trọng, những
người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành".
Do đó, bản án hình sự có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quyền lực của Nhà
nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hoạt động xét xử, mà kết quả là
việc Hội đồng xét xử ra bản án để xác định một người có tội hay không có tội, phải
chịu hình phạt hay không phải chịu hình phạt có ý nghĩa chính trị, xã hội rất sâu
sắc và trước hết trực tiếp ảnh hưởng tới người bị đưa ra xét xử. Bản án hình sự
tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không chỉ có ý nghĩa về mặt đảm bảo
pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện nghiêm minh mà còn mang tính giáo
dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm trong xã hội, đồng thời tạo ra niềm tin của nhân
dân vào công lý. Với ý nghĩa pháp lý nêu trên, bản án hình sự cần phải có nội dung
mang tính khoa học pháp lý, văn phong chuẩn xác, thống nhất theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự.
II. VIỆC SOẠN THẢO BẢN ÁN HÌNH SỰ CỦA THẨM PHÁN KHI CHƯA
CÓ HƯỚNG DẪN CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN VÀ VIỆC VẬN DỤNG
CUỐN SỔ TAY VIẾT BẢN ÁN
2.1. Đánh giá việc soạn thảo bản án hình sự của Thẩm phán thời kỳ trước
năm 2004
Mặc dù bản án hình sự có ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, nhưng có thể
thấy rằng, trong một thời gian dài khi chưa có Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP
ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và cuốn sổ tay
viết bản án xuất bản năm 2009 thì cách viết bản án hình sự của các Thẩm phán còn
mang tính tùy tiện, cấu trúc, hình thức thể hiện bản án mỗi nơi một khác. Nhiều
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa viết theo thói quen, không tuân thủ quy định ban
hành mà tự mình còn “sáng tác” theo ý riêng của mình như có bản án ghi: “Hôm
nay, ngày... tháng... năm... tại trụ sở tòa án... xét xử công khai về hình sự với bị
cáo...”. Có bản án lại ghi rằng: “họp phiên tòa công khai ngày...” hay “mở phiên
tòa công khai ngày...”. Còn một cách khác là: “Tiến hành xét xử sơ thẩm công khai
ngày...”.
Trong phần lý lịch bị cáo, đa số các bản án đều viết nghề nghiệp trước, rồi
trình độ văn hóa. Nhưng có trường hợp lại trình bày ngược lại. Về phần tên bố mẹ
bị cáo, tại các bản án cũng đa dạng về cách thể hiện. Chẳng hạn như viết: “bố
là...”; “mẹ là...”; hay “con ông...”; “con bà...”; hoặc “bố...; mẹ...”... Đa phần
các bản án lại không phản ánh đầy đủ diễn biến quá trình xét xử mà trong phần
nhận thấy, các Thẩm phán thường có thói quen viết lại toàn bộ nội dung của bản
Cáo trạng, còn diễn biến phiên tòa chỉ nói chung chung rằng tại phiên tòa bị cáo
nhận tội, không nêu người bị hại khai thế nào, Viện kiểm sát đề nghị xử lý vụ án ra
sao, dẫn đến bản án khi tuyên đọc không có kết cấu chặt chẽ, không có sự logic
giữa các phần trong bản án hình sự, thường có sự mâu thuẫn giữa phần xét thấy với
phần nhận thấy hoặc mâu thuẫn giữa phần xét thấy với phần quyết định như: Khi
đánh giá vai trò của các bị cáo hoặc đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm
tội của các bị cáo là rất nguy hiểm song phần quyết định lại cho hưởng án treo
hoặc bị cáo có vai trò thấp lại có mức án cao hơn bị cáo có vai trò chính… Để xảy
ra tình trạng không thống nhất về hình thức bản án như trên là do 2 nguyên nhân.
Trước hết, trách nhiệm thuộc về Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa - người được
giao viết bản án. Các thẩm phán viết theo thói quen, tùy tiện, ngẫu hứng không
theo hướng dẫn. Họ chưa nhận thức đầy đủ được trách nhiệm, cũng như tầm quan
trọng của việc ra bản án nhân danh nhà nước. Nguyên nhân thứ hai là do quá lâu
không có hướng dẫn mới về cách viết bản án của các cấp có thẩm quyền. Trước
năm 1985, TAND tối cao ra hướng dẫn cách viết bản án hình sự và đã có mẫu bản
án. Nhưng gần 20 năm qua vẫn chưa có hướng dẫn bổ sung để phù hợp với tình
hình hiện tại. Hơn nữa, quy định nội dung bản án tại Bộ luật Tố tụng hình sự 1988
trước đây và tại Điều 224 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành lại quá ngắn gọn, đơn
giản.
Những hạn chế trên, chỉ được khắc phục khi có Nghị quyết số 04/2004 và
cuốn sổ tay viết bản án do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức biên soạn với sự giúp
đỡ của Chính phủ Nhật Bản trong khuôn khổ Dự án hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực
pháp luật và tư pháp của Jica. Có thể khẳng định từ năm 2009 đến nay, qua nghiên
cứu, khảo sát các Thẩm phán trong toàn quốc nói chung đã chú trọng hơn đến việc
nâng cao chất lượng viết bản án từ bố cục đến nội dung trình bày. Các lỗi ngữ
pháp, lỗi chính tả đều được khắc phục, hạn chế, đúng văn phạm pháp lý.
Đa phần các bản án đã đáp ứng được cả về nội dung và hình thức của một bản
án hình sự như:
– Về nội dung: Bản án đã giải quyết đầy đủ, toàn diện các vấn đề của vụ án
trên cơ sở của Luật nội dung và Luật tố tụng. Các quyết định của bản án khi viện
dẫn đa phần đều chính xác điểm, khoản, Điều của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố
tụng hình sự.
– Về mặt hình thức: Văn phong trong bản án đều trong sáng, rõ ràng, đúng
chính tả. Bản án thể hiện được không gian, thời gian, địa điểm xét xử, tên Tòa án
xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng khác như Viện
kiểm sát, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng. Việc phân tích, đánh
giá trong các phần của bản án đảm bảo tính thống nhất, không mâu thuẫn, có kết
cấu chặt chẽ.
Việc phân tích, chứng minh, kết luận của bản án đã tuân thủ yêu cầu là phải
dựa trên các chứng cứ mà các chứng cứ này đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội
đồng xét xử không áp đặt ý kiến chủ quan hoặc sử dụng những chứng cứ chưa
được thẩm tra tại phiên tòa, các kết luận của bản án đã phần phù hợp với sự thật
khách quan của vụ án. Các Bản án đã xác định đúng sự việc phạm tội, người thực
hiện hành vi phạm tội, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự… từ đó áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự.
Khi kết luận bị cáo phạm tội, Hội đồng xét xử đã viện dẫn các căn cứ buộc
tội bị cáo, dựa vào các căn cứ đó để Hội đồng xét xử áp dụng xử phạt bị cáo với
những mức hình phạt tương ứng. Ngược lại, nếu tuyên bố bị cáo không phạm tội,
thì các bản án cũng đã đưa ra các chứng cứ, các căn cứ để không chấp nhận việc
truy tố của Viện kiểm sát.
Đây chính là những tác động tích cực mà sổ tay viết bản án và các hướng dẫn
tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao đã giúp cho các Thẩm phán khi ban hành các bản án nói
chung và bản án hình sự nói riêng.
2.2. Thực tiễn hoạt động của Thẩm phán khi viết bản án hình sự
Mặc dù đa phần các Thẩm phán đều nghiên cứu và vận dụng đầy đủ và đúng
các hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2004 và cuốn sổ tay viết bản án. Song qua
nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi vẫn thấy các Thẩm phán khi viết bản án vẫn còn
nhiều vấn đề chưa thống nhất trong cách trình bày cả về hình thức và nội dung như:
Về phần mở đầu của Bản án vẫn có sự không thống nhất về phần lý lịch của
bị cáo như phân tích ở phần trên, ngoài ra vẫn còn có Thẩm phán chưa áp dụng
đúng như hướng dẫn của cuốn sổ tay dẫn đến có mâu thuẫn trong việc ghi nhân
thân của bị cáo. Như hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004 có hướng dẫn:
“…Đối với tiền sự thì chỉ ghi khi đã xác định đúng theo quy định của pháp
luật lần bị xử lý đó tính đến ngày phạm tội chưa hết thời hạn được coi là chưa
bị xử lý hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật. Đối với tiền án thì chỉ ghi khi đã xác
định đúng theo quy định của pháp luật lần bị kết án đó tính đến ngày phạm tội
chưa được xóa án…”. Song hiện nay, thực tế áp dụng cũng có những quan điểm
khác nhau về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng, trong trường hợp tiền sự đó đã
hết thời hạn bị coi là bị xử lý hành chính hoặc đã thuộc trường hợp đương nhiên
xóa án thì phần tiền án, tiền sự sẽ ghi là không. Có quan điểm lại cho rằng mặc dù
đã hết thời hạn bị coi là xử lý hành chính hoặc đã được xóa án tích thì không ghi là
tiền án hay tiền sự nhưng vẫn phải ghi trong phần đầu Bản án là “về nhân
thân” và liệt kê những lần họ bị xử lý hành chính hay bị kết án trước đó. Vấn đề
này hiện nay không được thống nhất đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng
dẫn chỉ đạo để các Thẩm phán trình bày một cách thống nhất khi soạn thảo bản án
hình sự.
Trong phần nhận thấy của Bản án, cũng có nhiều cách trình bày khác nhau.
Có Thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung của bản Cáo trạng, có Thẩm phán vẫn
đưa nguyên văn nội dung của bản Cáo trạng vào trong phần nhận thấy, thậm chí
ghi cả những hành vi mà bản Cáo trạng có mô tả, song không truy tố, hoặc những
vấn đề xử lý vật chứng, của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra và truy tố cũng ghi cả vào trong phần nhận thấy, dẫn đến trong phần xét
thấy, khi đánh giá về vấn đề xử lý các vật chứng của vụ án, các Thẩm phán lại nêu
lại làm Bản án rất dài và thừa. Về diễn biến phiên tòa, có Thẩm phán ghi tóm tắt
lời khai của bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa, có
Thẩm phán lại không ghi mà chỉ ghi “Tại phiên tòa hôm nay bị cáo (các bị cáo)
nhận tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết”. Có Thẩm phán ghi ý kiến
đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, có Thẩm phán không ghi ý kiến đề nghị
của Kiểm sát viên. Đặc biệt ý kiến của người bào chữa, bị cáo và của những người
tham gia tố tụng khác khi tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm
sát cũng như về phần đối đáp thì đa số các Thẩm phán đều không thể hiện trong
bản án…
Trong phần xét thấy của Bản án, cũng có nhiều quan điểm khác nhau như: Có
Thẩm phán ghi tóm tắt lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác
tại phiên tòa rồi đi vào phân tích đánh giá những vấn đề tranh tụng tại phiên tòa,
xác định các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, đánh giá bị cáo có phạm tội không và phạm
tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, phân tích mức độ nghiêm trọng của hành vi
phạm tội, đánh giá vai trò nhân thân của bị cáo (từng bị cáo), xác định thiệt hại, xử
lý vật chứng…
Có Thẩm phán lại đi thẳng vào phân tích đánh giá những vấn đề tranh tụng tại
phiên tòa, xác định các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, đánh giá bị cáo có phạm tội
không và phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, phân tích mức độ nghiêm
trọng của hành vi phạm tội, đánh giá vai trò nhân thân của bị cáo (từng bị cáo), xác
định thiệt hại, xử lý vật chứng… chứ không ghi lại lời trình bày của bị cáo hoặc
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa hoặc ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên.
Trong phần quyết định của Bản án, cũng có nhiều quan điểm khác nhau, có
Thẩm phán ghi mức hình phạt với từng bị cáo và thời gian chấp hành hình phạt mà
không ghi cụ thể tội danh, có Thẩm phán lại ghi cụ thể về tội danh, trong vụ án có
nhiều bị cáo thì có Thẩm phán liệt kê các điều luật của nhiều bị cáo giống nhau để
ghi mức hình phạt, có thẩm phán lại liệt kê các điều luật áp dụng cho từng bị cáo
để ghi mức hình phạt…
Chính sự vận dụng không thống nhất hiện nay của các Thẩm phán dẫn đến
nhiều bản án không có tính thuyết phục, không thể hiện tính nghiêm minh của luật
pháp, không nâng cao được vai trò và vị thế của Thẩm phán trong tiến trình của
Cải cách tư pháp mà Tòa án là trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm như yêu
cầu của Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị. Nhận xét về thực trạng không thống
nhất trong cách trình bày bản án, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã từng
nhận xét: "Đọc các bản án của Tòa, từ tối cao đến cấp huyện, tôi thấy còn rất
nhiều vấn đề chưa thống nhất. Cách trình bày, căn cứ xét xử, lập luận của các
bên, phần quyết định bản án mỗi nơi một khác".
Để khắc phục những hạn chế trên, cần phải có những hướng dẫn cụ thể, thống
nhất để các Thẩm phán khi ban hành một Bản án phải làm sao đảm bảo chính xác
và có tính thuyết phục. Tính chính xác của bản án được thể hiện ở chỗ Bản án xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tức là việc áp dụng pháp luật đúng đắn, phù
hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, được dư luận đồng tình và đó cũng là
tính thuyết phục cao của bản án. Tính thuyết phục của bản án còn thể hiện ở việc bản
án phân tích sâu sắc, đầy đủ, hoàn thiện diễn biến và nội dung của vụ án, đánh giá
đúng tính chất, mức độ, áp dụng đúng pháp luật để có quyết định hình phạt chính xác,
đảm bảo nguyên tắc giáo dục và trừng trị.
Theo yêu cầu hiện nay, Bản án khi tuyên đọc là công khai và không chỉ giới
hạn tại phiên tòa xét xử mà Bản án còn được đăng tải để mọi người dân đều có thể
cập nhật nghiên cứu và cũng là một nguồn tài liệu quan trọng không chỉ trong việc
phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân mà còn có tác dụng răn đe đối với
những người có những ý định vi phạm hoặc coi thường các quy định của pháp luật.
Để đạt được mục đích đó, đòi hỏi các Bản án của Tòa án nói chung và Bản án
hình sự nói riêng cần phải được thể hiện một cách trung thực, rõ ràng các diễn biến
của phiên tòa công khai, thông qua hoạt động thẩm vấn tại phiên tòa, những ý kiến
tranh luận và kết quả tranh luận của người bào chữa, bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác đối với Cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát. Các chứng cứ
được xử dụng của Hội đồng xét xử để buộc tội hoặc phản bác ý kiến của người bào
chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa thậm chí Hội đồng
xét xử còn có quyền phản bác cả ý kiến của đại diện Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố tại phiên tòa cần phải được phân tích đánh giá một cách chính xác
và đầy đủ để khẳng định việc tuyên bố bị cáo phạm tội của Hội đồng xét xử là chặt
chẽ, có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Trong vấn đề quyết định hình phạt, cũng cần có những đánh giá nhận xét
chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tầm quan trọng của
các khách thể mà hành vi phạm tội đã xâm phạm, vai trò của từng bị cáo trong các
vụ án đồng phạm có nhiều người tham gia, nhân thân của người phạm tội và các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên mức án phù hợp và có
tính thuyết phục. Có như vậy, thì tất cả mọi người dân tham dự phiên tòa đều nhận
thức được tính trung thực, công khai minh bạch của Hội đồng xét xử cũng như
những người dân không dự phiên tòa khi đọc được Bản án hình sự của Tòa án có thể
nắm bắt được nội dung của vụ án cũng như hiểu được chính sách hình sự của Nhà
nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay và nhận thấy việc xét xử
và quyết định hình phạt của Tòa án là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, tạo được niềm tin của nhân dân đối với pháp luật của nhà nước hiện nay.
2.3. Một số kiến nghị
Để đạt được mục đích trên, theo chúng tôi, hiệu quả của các hướng dẫn trong
cuốn sổ tay viết Bản án đã được ghi nhận tích cực trong thời gian qua song để đảm
bảo Bản án khi ban hành phải chính xác và có tính thuyết phục hơn nữa thì cũng
cần phải có hướng dẫn phù hợp, bảo đảm đúng tinh thần của Nghị quyết số
08/NQ/TW Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới đó là “bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...; việc phán quyết của
Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà”. Và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
mà “Tòa án là trung tâm của cải cách tư pháp và hoạt động xét xử là trọng
tâm”. Để khắc phục tình trạng trên, nhằm thống nhất kỹ năng viết bản án nói
chung và bản án hình sự nói riêng, qua tổng hợp các ý kiến tại các cuộc Hội thảo
do Vụ hợp tác quốc tế phối hợp cùng các chuyên gia của tổ chức Jica tổ chức tại
các tỉnh Quảng Ninh, Bình Định, Kiên Giang vừa qua, chúng tôi có một số đề xuất
về kỹ năng viết bản án hình sự theo mẫu được xây dựng như sau:
TÒA ÁN (1)…
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số (2)…/…/HSST
Ngày (3)….
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN (4)........................................
Với Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có (5):
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông (Bà).............................
Thẩm phán: Ông (Bà).............................................................
Các Hội thẩm:(6)
Ông (Bà):...............................................................................
Nghề nghiệp:.........................................................................
Nơi công tác:..........................................................................
Ông (Bà):................................................................................
Nghề nghiệp:...........................................................................
Nơi công tác:...........................................................................
Ông (Bà):................................................................................
Nghề nghiệp:............................................................................
Nơi công tác:............................................................................
Những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa.
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông (Bà)...............(7)
Đại diện Viện kiểm sát (8)....................... Tham gia phiên toà:
Ông (Bà).........................................................Kiểm sát viên.
Ông (Bà).........................................................Kiểm sát viên.
Trong các ngày..... Tháng..... Năm..... (9) tại............................
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số
(10)
...../...../HSST ngày..... Tháng.....
Năm..... Đối với các bị cáo:
1. ........................ Sinh ngày..... Tháng..... Năm..... Nam (nữ)
Quê quán, Trú tại..............................;
Dân tộc…….; Quốc tịch……; Tôn giáo…..; Đoàn thể….
Nghề nghiệp.......................; Trình độ học vấn.......;
Con ông............................ Và bà........................... ;
Gia đình có….. anh em, bản thân là thứ ….
có vợ (chồng)…. và...... Con, lớn sinh… nhỏ sinh…;
tiền sự............; Tiền án (11).............;
Bị bắt tạm giam ngày (12).
2.......................................................................................
Người đại diện hợp pháp của bị cáo: (13)
Ông (Bà).......................... Sinh năm (hoặc tuổi)........;
Trú tại………; Nghề nghiệp.............
Là: (14).............................................................................
Người bào chữa cho bị cáo: (15)...............................................
Ông (Bà)..................................................................................
Người bị hại: (16) .............................................................
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: (17)........................
Nguyên đơn dân sự: (18).....................................................
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự: (19)............
Bị đơn dân sự: (20)....................................................................
Người đại diện hợp pháp của bị đơn dân sự: (21).....................
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: (22)..........
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án(23):.....................................................................
Người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại (nguyên đơn dân sự,...)(24)
Ông (Bà)...........................................................................
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN (25)
- Bị cáo (các bị cáo) bị Viện kiểm sát........................... Truy tố về hành vi (các
hành vi) phạm tội như sau:
(Trình bày việc phạm tội, các hành vi phạm tội của bị cáo (các bị cáo) mà Viện
kiểm sát truy tố theo nội dung của cáo trạng).
- Tại bản cáo trạng số..... Ngày..... Tháng..... Năm..... Viện kiểm sát............. Đã
truy tố.
(Ghi phần quyết định truy tố của cáo trạng đối với từng bị cáo về tội danh và
điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng).
Ghi tóm tắt lời khai của bị cáo (các bị cáo), lời khai của những người tham gia
tố tụng khác, ý kiến của đại diện VKS, người bào chữa tại phiên tòa. Sau đó ghi
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào
kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến
của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa (nếu có) và những người tham gia tố tụng
khác,
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ XÉT THẤY(26)
.................................................................................................
.................................................................................................
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH (27)
.................................................................................................
.................................................................................................
.................................................................................................
Hướng dẫn sử dụng mẫu bản án hình sự sơ thẩm nêu trên:
Mẫu bản án hình sự sơ thẩm như trình bày ở trên theo chúng tôi, vẫn bảo đảm
được theo tinh thần quy định tại các điều 185, 224 và 307 của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003. Mẫu bản án hình sự sơ thẩm kèm theo hướng dẫn này được sử dụng cho
tất cả các Toà án khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Sau đây là những hướng dẫn cụ
thể về việc sử dụng mẫu bản án hình sự sơ thẩm như đã nêu, trên cơ sở sửa đổi và bổ
sung một số thuật ngữ cho phù hợp:
(1) Nếu là Toà án quân sự khu vực, thì ghi Toà án quân sự khu vực mấy Quân
khu nào (ví dụ: Toà án quân sự khu vực 1 quân khu 4); nếu là Toà án quân sự quân
khu thì ghi Toà án quân sự quân khu nào (ví dụ: Toà án quân sự Quân khu Thủ đô);
nếu là Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì ghi Toà án
nhân dân quận (huyện, thị xã, thành phố) gì thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương nào (ví dụ: Toà án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An); nếu là Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì ghi Toà án nhân dân tỉnh (thành
phố) nào (ví dụ: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội).
(2) Ô thứ nhất ghi số bản án, ô thứ hai ghi năm ra bản án theo đúng tinh thần
hướng dẫn của Chính phủ về cách ghi số văn bản (ví dụ: Bản án số
250/2004/HSST).
(3) Ghi ngày, tháng, năm tuyên án không phân biệt vụ án được xét xử sơ thẩm
và kết thúc trong một ngày hay được xét xử sơ thẩm trong nhiều ngày.
(4) Ghi như hướng dẫn tại điểm (1).
(5) Nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm ba người, thì chỉ ghi họ và tên của
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, bỏ dòng “Thẩm phán...”, Đối với Hội thẩm chỉ ghi
họ và tên của hai Hội thẩm; nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có năm người, thì
ghi họ và tên của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, họ và tên của Thẩm phán, họ và
tên của cả ba Hội thẩm. Trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, thì nhất
thiết phải ghi nghề nghiệp và nơi công tác của Hội thẩm. Trong trường hợp bị cáo
là người đã thành niên thì không cần phải ghi nghề nghiệp và nơi công tác của Hội
thẩm.
Chúng tôi kiến nghị nên bỏ chữ “thành phần” và chỉ cần ghi “Với Hội đồng
xét xử sơ thẩm gồm có” thêm cụm từ “những người tiến hành tố tụng tại phiên
tòa”, sau khi đã ghi tên Hội đồng xét xử. Vì nếu để hai chữ “thành phần” thì dẫn
đến sự hiểu lầm của người dân đến dự phiên tòa cho rằng, Hội đồng xét xử bao
gồm cả Thư ký phiên tòa và đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa. việc sửa đổi
và bổ sung như vậy, tránh sự hiểu lầm của người dân tham dự phiên tòa và cũng
phân định rõ đâu là Hội đồng xét xử, đâu là những người tiến hành tố tụng. Đối với
Hội thẩm nhân dân thì trong mọi trường hợp, đều phải ghi đầy đủ nghề nghiệp và
nơi công tác của Hội thẩm, chứ không chỉ đối với trường hợp bị cáo là người chưa
thành niên.
(6) Nếu Toà án nhân dân, thì ghi Hội thẩm nhân dân; nếu Toà án quân sự, thì
ghi Hội thẩm quân nhân. Không nên để số 1, 2 vào phần ghi các Hội thẩm dễ xảy ra
việc hiểu lầm là có sự phân biệt giữa các Hội thẩm là Hội thẩm số 1 quan trọng hơn
Hội thẩm số 2.
(7) Theo chúng tôi, chỉ cần ghi “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: ông
Nguyễn Văn A hoặc bà Nguyễn Thị B” là đủ chứ không cần ghi “Cán bộ Tòa án
nhân dân…” nơi xét xử như mẫu cũ, vì Thư ký là chức danh tố tụng được quy
định tại Điều 41 BLTTHS và chỉ có Thư ký mới được tham gia và ghi biên bản
phiên tòa. Nếu là cán bộ thì không thể tham gia phiên tòa để ghi biên bản được và
không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hơn nữa phần trên đã ghi rõ
Tòa án nào xử nên không cần phải ghi lại nữa là phù hợp.
(8) Ghi như hướng dẫn tại điểm (1), song đổi các chữ “Tòa án nhân
dân” thành “Viện kiểm sát nhân dân” và “Tòa án quân sự” thành “Viện kiểm sát
quân sự”; nếu chỉ có một Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì chỉ ghi họ và tên
của Kiểm sát viên đó; nếu có hai Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì phải ghi đầy
đủ họ và tên của cả hai Kiểm sát viên đó. Song chúng tôi cũng kiến nghị không nên
để số 1, 2 như mẫu cũ để tránh sự so sánh như phần ghi các Hội thẩm.
(9) Trong trường hợp vụ án được xét xử và kết thúc trong một ngày, thì bỏ hai
chữ “Trong các” (ví dụ: Ngày 12 tháng 4 năm 2004...).
Trong trường hợp vụ án được xét xử trong hai ngày trở lên, nếu số ngày tương
đối ít thì có thể ghi đủ số ngày (ví dụ: Trong các ngày 3, 4 và 5 tháng 7...); Nếu số
ngày nhiều liền nhau thì ghi từ ngày đến ngày (ví dụ: Trong các ngày từ ngày 3 đến
ngày 7 tháng 7 năm...); Nếu khác tháng mà xét xử liên tục thì ghi từ ngày...
Tháng... Đến ngày... Tháng... (ví dụ: Trong các ngày từ ngày 30-7 đến ngày 04-8
năm...), Nếu không xét xử liên tục thì ghi các ngày của từng tháng (ví dụ: trong các
ngày 29, 30, 31 tháng 7 và các ngày 03, 04 tháng 8 năm...
(10) Ô thứ nhất ghi số thụ lý sơ thẩm vụ án, ô thứ hai ghi năm thụ lý vụ án theo
đúng tinh thần hướng dẫn của Chính phủ về cách ghi số văn bản và sau đó ghi ngày,
tháng, năm thụ lý vụ án (ví dụ: Vụ án hình sự thụ lý số 175/2004/HSST ngày 20 tháng
4 năm 2004).
(11) Ghi họ và tên bị cáo và các bí danh, tên thường gọi khác (nếu có).
Phần này, chúng tôi kiến nghị trong mọi trường hợp đều nhất thiết phải ghi
đầy đủ ngày, tháng, năm sinh, chứ không phụ thuộc vào tuổi của bị cáo như hướng
dẫn, việc ghi đầy đủ ngày, tháng, năm sinh còn thuận lợi cho việc thi hành án sau
này. Thực tế có nhiều vụ án các bị cáo trùng cả họ và tên cũng như tên đệm, trùng
cả năm sinh nhưng chỉ khác nhau về ngày, tháng. Nếu chúng ta không ghi rõ rất dễ
nhầm lẫn khi ra quyết định thi hành án. Cần bổ sung về phần giới tính, Quốc tịch,
dân tộc, tôn giáo, đoàn thể để bản án được rõ ràng và thuận lợi cho công tác thống
kê sau này. Thực tế có những bị cáo cha mẹ đặt tên khi đọc nên không thể phân
biệt được là nam hay nữ, chỉ khi nhìn mặt thì mới biết là nam hay nữ. Thông
thường nếu là nữ thì hay có chữ “Thị” để phân biệt nhưng hiện nay rất nhiều người
là nữ nhưng khai sinh lại không có chữ “Thị”. Cũng cần phải ghi đầy đủ cả quê
quán, nơi đang ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở khi bị cáo phạm tội, vì có những bị
cáo quê quán một nơi, lại đăng ký hộ khẩu một nơi, tạm trú một nơi... Nếu không
ghi đầy đủ rất khó xác minh thi hành án sau này. Cần thống nhất về phần trình độ
là “trình độ học vấn” như vậy sẽ cụ thể hơn. Còn như mẫu hiện nay là “trình độ
văn hóa” theo chúng tôi là không chính xác vì khái niệm văn hóa là khái niệm rất
rộng không thể phiên ngang như trình độ học vấn được. Thực tế văn hóa bao trùm
trong suốt cuộc đời con người từ ứng xử, ăn, nói, đi, đứng cũng như gắn với mọi
hoạt động của con người từ khi con người sinh ra đến khi con người mất đi. Thực
tế, có những người có học vấn cao nhưng cánh ứng xử lại thô lỗ không bằng người
có học vấn thấp nên không thể có tiêu chí cụ thể nào để phân định về trình độ văn
hóa được.
Đối với tiền sự thì chỉ ghi khi đã xác định đúng theo quy định của pháp luật
lần bị xử lý đó tính đến ngày phạm tội chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý
hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật. Đối với tiền án thì chỉ ghi khi đã xác định đúng
theo quy định của pháp luật lần bị kết án đó tính đến ngày phạm tội chưa được xoá
án.
Chúng tôi thấy, hướng dẫn về ghi phần tiền án, tiền sự như vậy là rõ ràng.
Song hiện nay rất nhiều bản án khi xác định về tiền án, tiền sự mặc dù đến ngày
phạm tội họ đã hết thời hạn bị coi là xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật hoặc đã
được xóa án tích nhưng trong bản án vẫn ghi là “về nhân thân” và liệt kê những
lần vi phạm đó ra. Theo chúng tôi như vậy là không phù hợp, dễ để Thẩm phán có
ấn tượng với họ dẫn đến việc quyết định hình phạt không được chính xác và vô
tình chúng ta đã phủ nhận quyết tâm hướng thiện của họ, dẫn đến trường hợp hành
vi của họ đáng được hưởng án treo nhưng lại không được hưởng. Ví dụ có người bị
xử lý hành chính về hành vi đánh bạc đã quá một năm hoặc phạm tội đã được xóa
án nhưng lại phạm tội ít nghiêm trọng hoặc do vô ý như “vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Nhưng trong bản án vẫn nhận
định họ có nhân thân xấu là không phù hợp trái với quy định tại Điều 63 là “…
Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án…”.
(12) Ghi ngày bị cáo bị bắt tạm giam; nếu trước đó bị cáo đã bị tạm giữ, bị bắt
tạm giam, thì ghi ngày bị tạm giữ, ngày bị tạm giam và ngày được cho tại ngoại;
nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi
“vắng mặt”.
(13) Nếu bị cáo nào có người đại diện hợp pháp thì ghi họ và tên của bị cáo
đó (ví dụ: Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn A).
(14) Sau chữ “là” ghi quan hệ như thế nào với bị cáo (ví dụ: là bố của bị cáo);
nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi
“vắng mặt”.
(15) Nếu bị cáo nào có người bào chữa thì ghi họ và tên của bị cáo đó; sau
chữ Ông (Bà) ghi họ và tên của người bào chữa; nếu người bào chữa là luật sư thì
ghi luật sư của Văn phòng luật sư nào và thuộc Đoàn luật sư nào (ví dụ: Ông Trần
B, Luật sư Văn phòng luật sư Vạn Xuân thuộc Đoàn luật sư tỉnh H); nếu không
phải là luật sư thì ghi nghề nghiệp, nơi công tác của người bào chữa (ví dụ: Bà Lê
Thị M, bào chữa viên nhân dân công tác tại Hội luật gia tỉnh M); nếu có mặt tại
phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi “vắng mặt”.
(16), (17), (18), (19), (20), (21), (22), (23) Nếu có người nào tham gia tố tụng
thì ghi họ và tên, tuổi, nơi cư trú của người đó. Trong trường hợp người bị hại là
người bị xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và là người chưa
thành niên, thì nhất thiết phải ghi đầy đủ ngày, tháng, năm sinh của người bị hại;
nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt tại phiên toà thì ghi
“vắng mặt”.
(24) Nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án có người bảo vệ quyền lợi cho họ, thì ghi họ và tên
của họ theo thứ tự; sau chữ Ông (Bà) ghi họ và tên; nếu người bảo vệ quyền lợi của
đương sự là luật sư thì ghi luật sư của Văn phòng luật sư nào và thuộc Đoàn luật sư
nào; nếu không phải là luật sư thì ghi nghề nghiệp, nơi công tác của người bảo vệ
quyền lợi cho đương sự; nếu có mặt tại phiên toà thì ghi “có mặt” và nếu vắng mặt
tại phiên toà thì ghi “vắng mặt”.
(25) Trong phần này, cần chú ý chỉ ghi các hành vi phạm tội của các bị cáo mà
Viện kiểm sát truy tố trong nội dung của cáo trạng, những hành vi khác tuy có
được mô tả trong cáo trạng, nhưng Viện kiểm sát không truy tố thì không ghi.
Chúng tôi kiến nghị về phần này như sau: Hiện mẫu viết bản án đang để cụm
từ “Nhận thấy”. Theo chúng tôi, để như vậy vừa không rõ nghĩa và không thoát ý,
do vậy cần đổi là “Tóm tắt nội dụng vụ án” sẽ cụ thể và rõ nghĩa hơn. Đây chỉ là
phần mô tả hành vi phạm tội của bị cáo theo như nội dung của bản cáo trạng, nên
cần ghi hết sức tóm tắt, có thể chỉ cần ghi phần kết luận trong bản Cáo trạng, sau
đó bổ sung thêm một số ý làm sao phản ánh được về thời gian, địa điểm vụ án xảy
ra, con người phạm tội cụ thể, những hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm
tội gây ra… Từ đó, mới đến phần Cáo trạng truy tố bị cáo về tội gì, theo điều
khoản nào của Bộ luật hình sự, những phần khác như về tang vật của vụ án, hoặc
những người khác có tham gia nhưng không bị truy tố thì cũng không cần ghi ở
phần này mà để phân tích ở phần nhận định để tránh phải ghi lại nhiều lần dẫn đến
bản án dài không cần thiết. Song cần bắt buộc phần này phải ghi tóm tắt được lời
khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa, ý kiến luận tội
của đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của người bào chữa, kết quả đối đáp của đại diện
Viện kiểm sát với ý kiến của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác.
Có như vậy khi chúng ta bắt vào đoạn “Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu
đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa (nếu có) và những người tham gia tố tụng khác” để chuyển sang
phần “xét thấy” mới logic và chặt chẽ.
(26) Trong phần này chỉ ghi sự phân tích và đánh giá của Hội đồng xét xử bao
gồm:
- Phân tích và đánh giá những vấn đề đã được tranh tụng tại phiên toà;
- Phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội;
- Đánh giá bị cáo có phạm tội không và nếu bị cáo có phạm tội, thì phạm tội
gì, theo khoản nào, điều nào của Bộ luật hình sự;
- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo;
- Đánh giá thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có);
- Hướng giải quyết về xử lý vật chứng (nếu có). Chúng tôi hoàn toàn đồng ý
như hướng dẫn song để cụm từ “Xét thấy” như hiện nay là không phù hợp, về ngữ
pháp là thiếu chủ ngữ vì ai xét thấy? Do vậy theo chúng tôi cần bổ sung là “Hội
đồng xét xử xét thấy” là đầy đủ và đúng ngữ pháp hơn.
(27) Trong phần này ghi các quyết định của Toà án và quyền kháng cáo đối
với bản án như sau:
A. Trường hợp bị cáo có phạm tội:
- Tuyên bố bị cáo (các bị cáo)... Phạm tội (các tội)... (bị cáo nào phạm tội nào
thì ghi tội đó);
- Áp dụng điểm... Khoản... Điều... Của Bộ luật hình sự; nếu có nhiều bị cáo
phạm các tội khác nhau, thì ghi áp dụng điểm... Khoản... Điều... Của Bộ luật hình
sự đối với bị cáo (các bị cáo)... Và áp dụng điểm... Khoản... Điều... Của Bộ luật
hình sự đối với bị cáo (các bị cáo)...;
- Xem thêm -