KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT PHẦN BỒI THƯỜNG DÂN SỰ
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT PHẦN BỒI THƯỜNG DÂN SỰ
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
Giải quyết bồi thường dân sự là một nội dung quan trọng, không thể thiếu trong
quá trình Tòa án xét xử vụ án hình sự. Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
quy định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng
với việc giải quyết vụ án hình sự”.
Như vậy, khi giải quyết vụ án hình sự, ngoài phần xem xét, quyết định về trách
nhiệm hình sự như xem xét, đánh giá tính chất nghiêm trọng của vụ án, hành vi
phạm tội của bị cáo; các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ; nhân thân của bị
cáo; đối chiếu với quy định của pháp luật về tội danh, điều luật áp dụng để quyết
định hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án còn phải giải quyết một nội dung
quan trọng khác, đó là: buộc người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt;
sửa chữa hoặc bồi thường vật chất đối với những thiệt hại mà người phạm tội đã
gây ra; trong trường hợp người phạm tội gây thiệt hại về tinh thần thì còn phải bồi
thường bằng vật chất và công khai xin lỗi người bị hại như quy định tại Điều 42
Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009.
Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự là việc Tòa án buộc người phạm tội (bị
cáo) phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của
người bị hại đối với những thiệt hại do hành vi mà người phạm tội đã gây ra. Đây
là những thiệt hại mà giữa người phạm tội (bị cáo) và người bị hại không có hợp
đồng hay thỏa thuận gì trước nên pháp luật quy định đây là thiệt hại ngoài hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên trong một số trường hợp
có sự thỏa thuận trước giữa bị cáo với người bị hại như thỏa thuận vay, mượn tiền,
tài sản, thỏa thuận hợp đồng mua bán... nhưng sau đó do người đã nhận tiền, tài sản
không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết ban đầu dẫn đến phải chịu trách
nhiệm hình sự, thì người phạm tội phải bồi thường thiệt hại (nếu có) ngoài trách
nhiệm dân sự như nội dung thỏa thuận ban đầu, đó là trường hợp phạm tội “Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hoặc “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”...
Để giải quyết phần bồi thường dân sự trong vụ án hình sự có căn cứ, đúng pháp
luật, đòi hỏi khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cần chú ý làm rõ người phạm tội đã gây
thiệt hại mức độ như thế nào? Trong vụ án có đồng phạm thì mức độ gây thiệt hại
của mỗi đồng phạm ra sao? Người bị thiệt hại là ai, ở đâu và người bị thiệt hại này
có ý kiến, đề nghị thế nào? Ngoài lời khai người bị hại đã khai báo với cơ quan
Điều tra thì người bị hại có văn bản đề nghị cụ thể như thế nào? Trong quá trình
điều tra, người phạm tội đã tự nguyện hay thông qua người thân của mình bồi
thường được bao nhiêu đối với người bị thiệt hại. Đây không chỉ là tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình mà còn là một nội dung nếu có
sẽ được trừ vào phần nghĩa vụ bồi thường cho người phạm tội.
Việc Tòa án buộc người phạm tội (bị cáo) phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại
do hành vi của người phạm tội gây ra, phải căn cứ vào quy định tại các Điều luật
tương ứng của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết, phải đảm bảo
các quy định về cơ sở của trách nhiệm dân sự; nguyên tắc bồi thường; về tư cách,
năng lực bồi thường và các quy định khác của pháp luật.
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG DÂN SỰ
1. Cơ sở của trách nhiệm bồi thường dân sự
Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm
danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả
trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”.
Theo quy định của Điều luật nói trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát
sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:
1.1. Phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là những tổn thất về người; mất mát, hư hỏng về của cải vật chất hoặc
tinh thần. Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh
thần.
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS;
- Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS;
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS;
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều
611 BLDS.
b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị
xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương,
buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do
bị hiểu nhầm... nên cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ
phải chịu.
- Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là
pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ
chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải
được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
1.2. Phải có hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông
qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật (hành vi
bị pháp luật cấm). Hành vi này chính là hành vi phạm tội mà người phạm tội đã
gây ra.
1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp
luật
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành
vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Có nghĩa là hành vi của người
phạm tội (bị cáo) là nguyên nhân, thiệt hại của người bị hại là hậu quả. Hành vi
phạm tội của bị cáo tất yếu gây ra hậu quả đối với người bị hại.
Ví dụ: Bị cáo có hành vi châm lửa đốt xe ô tô của người bị hại thì tất yếu dẫn đến
hậu quả là ô tô bị cháy nếu không được cứu chữa kịp thời hoặc hành vi của bị cáo
dùng dao quắm chém nhiều nhát vào người bị hại, tất yếu dẫn đến thương tích hoặc
có thể gây tổn hại tính mạng người bị hại.
1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại
Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi và hậu quả hành vi phạm
tội được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý.
a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ
gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn thiệt hại xảy ra hoặc
không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Ví dụ: Biết là dùng dao bầu đâm vào vị trí nguy hiểm sẽ gây chết người nhưng vì
thù tức và muốn giết A nên B vẫn đâm A, hậu quả là A bị tử vong.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình
có khả năng gây thiệt hại, mặc dù pháp luật buộc phải biết hoặc có thể biết trước
thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Ví dụ: C điều khiển xe ô tô chở khách, biết là phóng nhanh vượt ẩu có thể gây tai
nạn nhưng để đón được nhiều khách, C đã phóng nhanh, giành đường đón khách
dẫn đến xe ô tô do C điều khiển đã đâm vào người điều khiển xe máy đi đúng phần
đường quy định, hậu quả làm người điều khiển xe máy bị thương nặng, xe máy bị
hỏng.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại
cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được
thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó (Bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra).
Ví dụ: thực hiện hợp đồng đổ đất san nền để làm sân vận động, xe ô tô tải của công
ty trách nhiệm hữu hạn Toàn Thắng đã gây tai nạn làm chết người thì công ty
TNHH Toàn Thắng có nghĩa vụ (thay cho lái xe) phải bồi thường thiệt hại người
chết.
2. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự:
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người
gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay
đổi mức bồi thường”.
* Với quy định của Điều luật như trên thì:
2.1. Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phải thực
hiện đúng nguyên tắc là bồi thường toàn bộ và kịp thời; phải tôn trọng thoả thuận
của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường,
nếu thoả thuận đó không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
2.2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì khi giải quyết tranh chấp
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần chú ý:
a) Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là thiệt hại tới đâu, bồi
thường tới đó. Khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khoẻ,
tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật
tương ứng của Bộ luật dân sự quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao
gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên
để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.
b) Để người bị thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Toà án phải giải quyết
nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định cụ thể là quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 176 về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự; Điều 242 về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự) cũng
như quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Điều 179 về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm và Điều 258 về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự).
Trong trường hợp cần thiết để đảm bảo kịp thời quyền lợi chính đáng và hợp pháp
của người bị hại, tùy từng giai đoạn, cơ quan tiến hành tố tụng có thể cho người
phạm tội hoặc thân nhân của người phạm tội thực hiện bồi thường trước cho người
bị hại. Ví dụ: Trong vụ án bị cáo phạm tội cố ý gây tổn hại sức khỏe người khác,
tại giai đoạn điều tra, người có hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe đã bồi thường
người bị hại một khoản tiền để người bị hại chi phí tiền viện phí, cấp cứu và bồi
dưỡng sức khỏe.
Hoặc để tránh việc người phạm tội tẩu tán tài sản khó khăn cho công tác thi hành án
sau này thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách
của đương sự.
Để bảo vệ quyền lợi chính đáng, kịp thời của người bị hại, pháp luật cũng quy
định chặt chẽ thời hạn Tòa án phải giải quyết vụ án, cụ thể Điều 179 Bộ luật tố
tụng dân sự quy định:
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với tranh chấp dân sự (Điều 25 BLTTDS), tranh chấp Hôn nhân - gia đình
(Điều 27 BLTTDS) thời hạn là 04 (bốn) tháng kể từ ngày thụ lý vụ án.
b) Đối với tranh chấp về kinh doanh - thương mại (Điều 29 BLTTDS), tranh chấp
lao động (Điều 31 BLTTDS) thời hạn là 02 (hai) tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án
Tòa án có thể quyết định ra hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 02
(hai) tháng đối với vụ án quy định tại điểm a và 01 (một) tháng đối với vụ án thuộc
trường hợp quy định tại điểm b nêu trên.
2. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử nói trên, Tòa án phải ra một trong những quyết
định sau: Công nhận sự thỏa thuận của đương sự; Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
Đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
3. Trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa
án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02
(hai) tháng.
* Điều 258 BLTTDS, về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
1. Trong thời hạn 02 (hai) tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Tòa án cấp
phúc thẩm ra một trong các quyết định sau:
a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Đối với vụ án có tính chất phức tạp do trở ngại
khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn
chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 01 (một) tháng.
2. Trong thời hạn 01 (một) tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì
thời hạn này là 02 (hai) tháng.
c) Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều
kiện sau đây:
- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người
gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với
hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng
bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.
d) Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự
thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang
được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình
trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường
thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng
kinh tế của người gây thiệt hại...
Ví dụ A bị xét xử về tội giết người. Ngoài hình phạt tù, A còn phải cấp dưỡng nuôi
con của người bị hại mỗi tháng 100.000 đồng, do biến động của giá cả thị trường,
đồng tiền mất giá nên đại diện người bị hại đã yêu cầu Tòa án buộc A phải tăng
khoản tiền cấp dưỡng nuôi con người bị hại lên 550.000 đồng/tháng.
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp người chưa thành niên phạm tội
nên khi xét xử, ngoài áp dụng đúng chính sách pháp luật về hình sự, cần nắm chắc
Điều 606 Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/7/2006 để xác định trách nhiệm bồi thường cho phù hợp với quy định của pháp
luật, cụ thể như sau:
3.1. Cần xác định đúng tư cách đương sự trong từng trường hợp như sau:
- Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là
bị đơn dân sự (người đủ 18 tuổi);
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha, mẹ của
người gây thiệt hại là bị đơn dân sự (người dưới 15 tuổi);
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây
thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan (người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi);
- Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân, tổ chức giám hộ
là bị đơn dân sự (người chưa thành niên).
3.2. Việc quyết định về bồi thường (lấy tài sản để bồi thường) phải cụ thể và theo
đúng quy định tại Điều 606 BLDS.
Như vậy, vấn đề bồi thường dân sự trong vụ án hình sự thì: đối với bị cáo đã đủ 18
tuổi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bị cáo; trường hợp bị cáo dưới 15
tuổi thì trách nhiệm bồi thường thuộc về cha mẹ của bị cáo; trường hợp bị cáo đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì bị cáo phải bồi thường bằng tài sản riêng của mình,
nếu bị cáo không đủ tài sản để bồi thường thì bố mẹ bị cáo phải bồi thường thay
cho bị cáo phần còn thiếu; trường hợp bị cáo là người chưa thành niên thì người
giám hộ phải chịu trách nhiệm bồi thường; trường hợp có đồng phạm thì các đồng
phạm phải liên đới bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại mà mình đã gây ra trên cơ
sở mức độ thiệt hại và mức độ lỗi mà mỗi đồng phạm đã gây ra.
4. Xác định chi phí hợp lý
Chi phí hợp lý là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt
hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí.
Xác định đúng chi phí hợp lý là xác định đúng thiệt hại có ý nghĩa rất quan trọng,
giúp việc ra quyết định bồi thường đúng đắn, vừa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
người bị hại cũng không làm thiệt hại đến quyền lợi của người phải bồi thường.
Bộ luật dân sự quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 609 (thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm); điểm b và điểm c khoản 1 Điều 610 (thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm) và điểm a khoản 1 Điều 611 (thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm) đều quy định về các khoản chi phí hợp lý.
Các khoản cụ thể sẽ được đề cập chi tiết trong từng loại bồi thường đề cập ở phần
sau.
5. Nghĩa vụ chứng minh của các đương sự
Nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự:
1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải
đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự
phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của người khác thì phải đưa ra
chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được
chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không
chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.
Nghị quyết 03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao đã hướng dẫn về nghĩa vụ chứng minh của đương sự như sau:
a) Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại
thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận
hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của người bị thiệt hại.
b) Người gây thiệt hại yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại phải có tài liệu,
chứng cứ về khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình không đủ để bồi
thường toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đã xảy ra.
c) Người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại yêu cầu thay đổi mức bồi thường
thiệt hại phải có đơn xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại. Kèm theo đơn là các tài
liệu, chứng cứ làm căn cứ cho việc xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại.
d) Việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Trong tố tụng dân sự nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, có nghĩa là người
khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ họ tên, địa chỉ nơi cư trú (nơi đăng ký nhân
khẩu thường trú, nơi đăng ký tạm trú) của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, nhân chứng... có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu mình đưa ra là có căn cứ.
Ngược lại bị đơn hoặc người có quyền, nghĩa vụ liên quan nếu có ý kiến không
chấp nhận hoặc phản bác yêu cầu của người khởi kiện thì có nghĩa vụ chứng minh
yêu cầu và chứng cứ mà nguyên đơn đưa ra là không có căn cứ đồng thời có nghĩa
vụ chứng minh cho ý kiến và yêu cầu mà mình đưa ra. Nếu đương sự nào không
đưa ra được chứng cứ để chứng minh thì ý kiến, yêu cầu của đương sự đó không
được chấp nhận mà còn có thể phải chấp nhận chứng cứ do bên kia đưa ra (nếu có
căn cứ).
Trong vụ án hình sự, cơ quan Điều tra chứng minh người phạm tội cũng đồng
nghĩa với chứng minh người có hành vi gây thiệt hại và xác minh, thu thập chứng
cứ về người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi - nghĩa
vụ liên quan một cách tương đối đầy đủ. Tuy nhiên khi xét xử, để giải quyết đúng
pháp luật phần trách nhiệm dân sự, Tòa án vẫn phải thận trọng kiểm tra để nếu
đương sự nào có sự thay đổi (thay đổi về yêu cầu, thay đổi về địa chỉ, thay đổi về
tư cách trong quá trình tham gia tố tụng...) thì Tòa án có điều chỉnh chính xác và
kịp thời, tránh được những sai sót, tránh được khó khăn cho công tác thi hành án
sau này; đồng thời Tòa án cũng cần kiểm tra về yêu cầu của đương sự trước khi
quyết định về vụ án vì trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền tự định đoạt.
Trong quá trình giải quyết vụ án, khi người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có
quyền lợi liên quan đưa ra yêu cầu đề nghị Tòa án buộc người phạm tội phải bồi
thường thiệt hại cho mình thì Tòa án phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ xem trong giai
đoạn điều tra, cơ quan Điều tra đã thu thập đầy đủ chưa, nếu còn thiếu thì yêu cầu
đương sự nộp bổ sung chứng cứ, tài liệu để chứng minh về thiệt hại mà người phạm
tội đã gây ra. Trường hợp đương sự không thể bổ sung vì những tài liệu chứng cứ đó
chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng mới thu thập được thì phải dừng phiên tòa, trả hồ sơ
cho cơ quan Điều tra để điều tra bổ sung (đối với phiên tòa sơ thẩm); ở Tòa án cấp
phúc thẩm mà thiếu những chứng cứ tài liệu đó thì có thể bị hủy án sơ thẩm để điều
tra, xét xử lại.
Trong một số trường hợp như chưa xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự
hoặc đã xác định được nhưng khi xét xử không biết họ ở đâu hoặc tuy đã xác
định được người bị hại, nguyên đơn dân sự nhưng họ chưa có yêu cầu trả lại
những vật, tiền bạc đã bị người phạm tội chiếm đoạt, chưa có yêu cầu phải sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại, chưa chứng minh được đầy đủ thiệt hại do tội
phạm gây ra thì có thể tách phần bồi thường thiệt hại đó để giải quyết bằng vụ
án dân sự khác khi những người này có yêu cầu. Đối với trường hợp này, Tòa án
chỉ thụ lý để giải quyết phần dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự và Bộ luật
tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, người bị hại có yêu cầu xuất trình tài liệu, chứng cứ. Đó có thể là
hóa đơn, chứng từ, hoặc giấy xác nhận chi phí về cấp cứu, điều trị ở bệnh viện, chi
phí bồi dưỡng sức khỏe, chi phí tìm kiếm, sửa chữa tài sản, thu nhập bị mất, bị
giảm sút; đối với trường hợp chết người thì đại diện người bị hại chứng minh về
chi phí mai táng... còn phía bị cáo có nghĩa vụ chứng minh nếu không chấp nhận
yêu cầu và chứng cứ tài liệu mà người bị hại đưa ra.
II. MỘT SỐ KỸ NĂNG CỤ THỂ VỀ GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG DÂN SỰ
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
Điều 42 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do
hành vi phạm tội gây ra.
2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm
tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
Theo quy định trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở đây gồm thiệt hại về tài
sản; thiệt hại về sức khỏe; tính mạng; danh dự, nhân phẩm, uy tín và thiệt hại về
tinh thần.
1. Kỹ năng giải quyết bồi thường thiệt hại về tài sản
Tài sản bị xâm phạm được xác định là thiệt hại gồm:
1.1. Tài sản bị mất. Ví dụ trong vụ án bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích, do bị cáo
tấn công, người bị hại bỏ chạy, trong lúc chạy thì chiếc đồng hồ đeo tay trị giá
5.000.000 đồng văng ra rơi xuống sông, không tìm thấy được. Trong trường hợp này
ngoài trách nhiệm bồi thường thương tích, bị cáo còn phải bồi thường tài sản bị mất là
trị giá chiếc đồng hồ nói trên cho người bị hại.
1.2. Tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; Ví dụ do có mâu thuẫn từ trước, bị cáo
đã bật lửa đốt cháy chiếc xe gắn máy trị giá 7.000.000 đồng của người bị hại.
Trong trường hợp này, bị cáo phải bồi thường toàn bộ thiệt hại là trị giá chiếc xe
gắn máy đó.
1.3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; Ví dụ bị cáo phạm tội xâm
phạm chỗ ở của người khác, bị cáo đã đánh đuổi cả gia đình chủ sở hữu và những
người đang ở trong nhà ra khỏi nhà, trong số đó có 2 người đang ở thuê khiến chủ
nhà không thu được tiền thuê nhà. Trường hợp này, bị cáo phải bồi thường khoản
tiền thuê nhà bị thất thu cho chủ sở hữu nhà.
1.4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Ví dụ trong vụ án
hủy hoại tài sản (đốt nhà) do nhà bị kẻ phạm tội đốt cháy, chủ nhà phải dỡ một
phần nhà (01 gian) của gia đình mình để đám cháy không cháy lan sang cả dãy nhà
của các chủ nhà khác.
Như vậy khi giải quyết bồi thường thiệt hại về tài sản phải xem xét, giải quyết một
trong số những dạng thiệt hại đã được đề cập nêu trên.
2. Kỹ năng giải quyết bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Điều 609 Bộ luật dân sự quy định:
“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng
bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập
thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp
dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị
thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và
cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho
việc chăm sóc người bị thiệt hại;
2. Người xâm phạm sức khỏe người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định
tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà
người đó gánh chịu. Mức bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà
nước quy định”.
Căn cứ vào quy định của Điều luật nói trên, để giải quyết đúng nội dung bồi
thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm thì cần xác định đúng thiệt hại đã xảy ra,
cụ thể là:
Một là: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại gồm:
- Tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế;
- Tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt
lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ;
- Tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho
người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ;
- Các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí
cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc
phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất
hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
Hai là: Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng
do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị, do đó khoản thu nhập thực tế của họ
bị mất hoặc bị giảm sút thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút đó.
a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ
tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức
lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khỏe nhân
với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng
có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu
nhập trung bình của 6 tháng liền kề. Nếu chưa đủ 6 tháng thì lấy thu nhập bình
quân của tất cả các tháng trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị
để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế,
nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung
bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập
thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có
thu nhập thực tế thì không được bồi thường về thu nhập thực tế bị mất.
b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được
thực hiện như sau:
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị
có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời
gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn
tại điểm (a) nêu trên. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt
hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất;
nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị
giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ
bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 5.000.000 đồng. Do sức khoẻ bị
xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này
thu nhập thực tế của A bị mất là 05 triệu đồng.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B
trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là
6.000.000 đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều
trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 3.000.000 đồng. Trong trường hợp này thu
nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 3.000.000 đồng.
Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 5.000.000 đồng. Do sức
khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các
khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.
Ba là: Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người
bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao
gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực
hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại
trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.
b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị được xác định như sau:
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương
trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công
của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với
thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn
định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6
tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải
đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu
nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc,
có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công
chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại
địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ
quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của
pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó
không được bồi thường.
Bốn là: Trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và
cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao
động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường
hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao
động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm
sóc người bị thiệt hại.
a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý
hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho
người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.
b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính
bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương
nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một
người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.
Năm là: Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.
a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi
thường cho chính người bị thiệt hại.
b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi
thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b
tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 để xác
định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất
- Xem thêm -