Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kinh nghiệm dạy luyện từ và câu cho hs năng khiếu lớp 5...

Tài liệu Kinh nghiệm dạy luyện từ và câu cho hs năng khiếu lớp 5

.PDF
13
187
81

Mô tả:

KINH NGHIỆM DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH NĂNG KHIẾU LỚP 4 - 5 I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tiếng Việt của ta rất giàu và đẹp. Nó không những giàu về số lượng từ được dùng( Từ Tiếng Việt, từ thuần Việt, từ Hán Việt , từ gốc Hán và từ vay mượn…)mà nó còn giàu về sắc thái biểu hiện của từ ( từ đồng nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và từ trái nghĩa…). Tiếng Việt cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội vẫn theo kịp thời đại và tự biết làm giàu cho mình bằng cách ngày càng tạo thêm từ mới,từ vay mượn nhưng không tự đánh mất mình. Vì vậy người sử dụng Tiếng Việt phải biết tôn trọng, giữ gìn và phát huy thứ của cải vô cùng quý giá của dân tộc này. Nhưng mỗi lần lựa chọn HS năng khiếu để bồi dưỡng, đa số các bậc phụ huynh không muốn cho con mình theo học Tiếng Việt mà lựa chọn cho con em học Toán và Tiếng Anh nhiều hơn.Với thực trạng đó, HS năng khiếu môn Tiếng Việt sẽ một ngày một mai một đi.Và người giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt không ai khác ngoài thế hệ tương lai của đất nước. Thế hệ đó chính là các em học sinh và đặc biệt là học sinh năng khiếu môn Tiếng Việt. Chính các em sẽ là người mài, dũa cho tiếng Việt của chúng ta ngày càng trong sáng và tươi đẹp hơn. Vậy dạy Tiếng Việt cho HS năng khiếu chính là truyền lại cho thế hệ mai sau một kho của cải vô giá của dân tộc Việt Nam mà các em cần phải giữ gìn cẩn thận và không ngừng phát triển nó. Muốn cho HS và phụ huynh HS chấp nhận môn Tiếng Việt, người GV phải không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy và cho các em thấy được giá trị của Tiếng Việt, phải làm cho các em yêu quý thích thú với môn học này thì mới nâng cao chất lượng dạy – học môn Tiếng Việt được.Do đó việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong các trường học nói chung và nâng cao chất lượng, số lượng học sinh năng khiếu, học sinh giỏi môn Tiếng Việt nói riêng, góp phần bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực cho địa phương và đất nước,nhằm tăng cường khả năng sử dụng Tiếng Việt, tạo ra sự phát triển toàn diện, hình thành nhân cách, giúp HS cảm nhận được cái hay, cái đẹp của các văn bản, sự đa dạng về từ và câu của Tiếng Việt; giữ gìn nét đẹp và sự trong sáng của Tiếng Việt là rất quan trọng.Chính vì vậy việc luôn luôn học hỏi, trao dồi kĩ năng dạy môn Tiếng Việt là rất quan trọng cho mỗi GV. Và đấy cũng là lí do mà tôi đã lựa chọn đề tài này. II. THỰC TRẠNG: THUẬN LỢI: Trên thực tế, số lượng trẻ em được đến trường ngày một tăng, nhu cầu học tập của các em ngày một nâng lên. Quan trọng hơn nữa là để đáp ứng mục tiêu của Đảng, Nhà nước ta vươn tới là Dân giàu – Nước mạnh – Xã hội công bằng – Dân chủ - Văn minh thì ngành GD phải cung cấp cho xã hội một nguồn nhân lực cao, nguồn nhân tài dồi dào nhằm đáp ứng với sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Ngày nay, ngành giáo dục là một trong những ngành mà cả xã hội rất quan tâm, theo dõi từng bước chuyển mình của nó.Gia đình quan tâm đến việc học của con, xã hội quan tâm đến kết quả của ngành giáo dục. Đảng và Nhà nước xây dựng trường học khang trang, thiết bị hiện đại; thầy cô giáo được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn;cuộc sống của người dân từng bước được cải thiện; vẫn còn khá nhiều các em học sinh và phụ huynh mong muốn con em mình được học Tiếng Việt nhiều hơn để dễ dàng giao tiếp với mọi người.Không ít phụ huynh HS nhận thức rằng: Toán rèn luyện cho con người sự nhạy bén, cứng cỏi trong cuộc sống thì Tiếng Việt lại làm cho con người ta dịu dàng, biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc,khéo léo trong giao tiếp.Chính vì thế việc thuyết phục để HS học nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cũng một phần nào được thuận lợi hơn. KHÓ KHĂN Nhìn lại sự nghiệp GD của tỉnh Bạc Liêu nói chung và huyện Giá Rai nói riêng, trong những năm qua đã không ngừng chuyển mình vươn lên và đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng nhưng chúng ta vẫn chưa ngang tầm với bạn bè lân cận trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Số lượng HS tham gia thi HS giỏi môn Tiếng Việt có tăng so với các năm trước nhưng chất lượng còn hạn chế, còn nhiều điều cần phải quan tâm. Ví dụ: bài tập yêu cầu tìm từ ghép xếp vào bảng thì vẫn có em xếp cả các từ đơn lẫn với từ ghép..Hay các em còn lúng túng về phân loại từ ( danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ) và từ loại( đồng âm hay lẫn với nhiều nghĩa, khả năng tìm các từ đồng nghĩa cũng cần phải bàn). Điều đó chúng tỏ về phần kiến thức cơ bản các em nắm chưa vững, chưa sâu, chưa cao nên các em mới xếp và không phân biệt rõ ràng được, khi các em thực hành sử dụng từ ngữ để viết hay giao tiếp còn chưa chuẩn lắm. Đội ngũ giáo viên cốt cán làm công tác bồi dưỡng HS giỏi của các trường tuy có nhiều kinh nghiệm, trình độ, tâm huyết nhưng không tránh khỏi sự mất cân đối về mặt bằng trình độ năng lực chung của giáo viên, về nền nếp thói quen, sự say mê học tập của học sinh và sự quan tâm của cha mẹ học sinh về học tập của con em giữa các trường ở nông thôn với các trường ở thành phố, thị trấn…Do đó, tôi có một số biện pháp mà tôi đã thực hiện trong những năm qua và thu được kết quả khả quan như sau: III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN A. Trang bị kĩ năng cho người dạy: Để nâng cao hiệu quả dạy – học phân môn LTVC ở lớp 4- 5 chúng ta cần trang bị cho mình một số kĩ năng sau đây 1. Nắm vững nội dung chương trình phân môn LTVC của cả cấp học (bắt đầu từ lớp 2) để xây dựng kế hoạch dạy- học của lớp mình được bảo đảm tính liên thông về mặt kiến thức - kỹ năng cho học sinh. 2. Giáo viên cần tiếp tục tự học, tự bồi dưỡng để trang bị cho mình một vốn kiến thức hiểu biết về từ ngữ - ngữ pháp – thành ngữ, tục ngữ, ca dao,… từ cơ bản đến nâng cao thông qua việc nghiên cứu SGK, tài liệu và sách tham khảo các loại. Nghiên cứu kĩ ta mới có các biện pháp, phương pháp hướng dẫn HS lĩnh hội các kiến thức cơ bản của môn LTVC lớp 4 -5 như: phân biệt và nhận diện từ ghép- từ láy; từ ghép phân loại – từ ghép tổng hợp; câu đơn – câu ghép; từ đồng âm – từ nhiều nghĩa; phân biệt các từ loại, loại từ… 3. Có kỹ năng lựa chọn và phối hợp các phương pháp giảng dạy phù hợp cho từng đối tượng HS năng khiếu, phải nắm được khả năng làm bài, những ưu điểm, hạn chế của từng em mà có biện pháp uốn nắn, chăm bồi phù hợp, kịp thời. 4. Nắm các thông tin, văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình phân môn LTVC của Bộ GD&ĐT. Nắm và bám sát theo các công văn hướng dẫn bồi dưỡng HS giỏi của Sở GD &ĐT Bạc Liêu. 5. Phải có kĩ năng sư phạm thật tốt để xử lí các tình huống và kĩ năng phân tích, nhận xét, đánh giá trước câu trả lời, các kết quả bài làm của HS một cách chính xác, cẩn thận. Đồng thời phải có kĩ năng phân tích giảng giải cho HS hiểu vấn đề mà mình kết luận ở kết quả bài làm và câu trả lời miệng của học sinh một cách rõ ràng, mạnh lạc và thấu đáo. Đồng thời người giáo viên còn phải rèn luyện cho mình ngày càng cao về kĩ năng diễn đạt, dùng từ ngữ chính xác, dễ hiểu, dễ nhớ để giúp các em hiểu sâu và nhớ bền. 6. Phải luôn kiên trì, bền bỉ, cẩn thận trong dạy bồi dưỡng và chấm bài của từng em vì không phải học sinh năng khiếu, học sinh giỏi nào cũng đều đồng loạt có chung 1 mặt bằng kiến thức ý tưởng như nhau. 7. Phải có kĩ năng ra đề bài kiểm tra, khi ra đề cần đa dạng các kiểu bài tập để rèn kĩ năng làm bài dưới nhiều dạng khác nhau cho HS. 8. Hơn ai hết, người giáo viên dạy bồi dưỡng còn phải nặng một chữ “Tâm” để dạy –học. Có Tâm chúng ta sẽ có phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả. Có Tâm chúng ta có ý chí, nghị lực và sức khỏe để dạy học tốt hơn. Có Tâm chúng ta mới dạy học một cách vô tư, không tính toán thiệt hơn về thù lao vật chất bù đắp cho công sức của mình và chữ Tâm giúp ta gắn bó hơn và giúp ta có trách nhiệm hơn với công việc mình đang làm. B. Tiến hành dạy bồi dưỡng học sinh năng khiếu, học sinh giỏi phân môn Luyện từ và câu 4 -5: 1. Giảng dạy hàng ngày trên lớp: - Từng bài dạy LT&C, GV phải giúp HS nắm vững chắc khái niệm và tác dụng của các từ loại (DT - ĐT -TT -Đại từ - QHT - Từ dùng để nối…) và loại từ (Từ ghép - Từ láy - Từ ghép phân loại - Từ ghép tổng hợp), câu đơn - câu ghép, các thành phần của câu, các bộ phận phụ của câu (các loại trạng ngữ), phân biệt chúng một cách rõ ràng để vận dụng thực hành chính xác. Ví dụ: Khi dạy cho HS khái niệm về danh từ( LTVC4),thì khái niệm trong SGK chỉ nói chung chung như: Danh từ là từ chỉ người,đồ vật, cây cối, sự vật… Với khái niệm như vậy, HS rất khó phân biệt và khó tìm danh từ một các chính xác được đặc biệt là với danh từ chỉ sự vât. Vì vậy khi dạy HS năng khiếu bài này, GV nên mở rộng thêm cụ thể hơn cho HS về khái niệm Danh từ như: Danh từ chỉ người: có hai loại: DT chung và DT riêng.DT chung chỉ các tầng lớp, thứ bậc con người trong xã hội. Ví dụ: ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, bộ đội, công an, kĩ sư…Danh từ riêng là tên riêng của mỗi người mà cha mẹ đặt cho, ten đơn vị hành chính, tên riêng của núi, sông…. GV cần nhấn mạnh thêm là tất cả tên gọi các bộ phận trên cơ thể con người đều là danh từ.Đối với danh từ chỉ sự vật thì nó bao hàn rất rộng, cho nên GV cũng cần phải cho HS ghi một số ý về khái niệm này như: các từ chỉ địa danh về địa lí ( sông, núi,đất trời,….) thời gian ( ngày, tháng, năm….), chất liệu( cát đá, xi măng, vải, giấy…) - GV cần có một số câu hỏi và bài tập (sử dụng bài tập đã giảm tải hay bài tập mà GV tự biên soạn trong giáo án của mình) phù hợp dành riêng cho đối tượng HS năng khiếu. Các câu hỏi và bài tập phải nâng cao hơn so với các câu hỏi, bài tập dành cho HS đại trà. Dạy kiến thức LTVC không chỉ dạy ở phân môn LTVC thôi mà còn dạy lồng ghép trong các môn học như Tập đọc, Tập làm văn thậm chí cả các bài Khoa học –Lịch sử- Địa lí nếu có chi tiết hay phù hợp để lồng ghép kiến thức LTVC được chúng ta cũng lồng ghép. Ví dụ: dạy bài Mùa thu Cách mạng có chi tiết: “ Cướp chính quyền” chúng ta có thể hỏi HS từ đồng nghĩa với từ cướp là từ nào? HS sẽ tìm các từ đồng nghĩa với từ cướp xong, GV sẽ hỏi tiếp một câu: Theo em, từ đồng nghĩa nào có thể thay thế từ cướp có trong bài? Sau đó GV khẳng định cho HS nghe là từ thay thế tốt nhất cho từ cướp trong bài là từ GIÀNH LẠI CHÍNH QUYỀN chứ chúng ta không cướp chính quyền vì chính quyền đó là của ta, Pháp cướp của ta, ta lấy lại mà thôi. Như vậy ta vừa dạy cho các em về từ đồng nghĩa, vừa cho các em biết nghĩa của từ cướp trong bài kẻo các em hiểu lầm là ta cướp chính quyền của Pháp. Hay bài Địa lí Châu Phi chúng ta cũng lồng ghép từ đồng âm như: châu Phi – ngựa phi – thùng phi – phi lao…; hay từ nhiều nghĩa: ngựa phi – phi đao. Bài Khoa học chúng ta cũng dạy tương tự. - Dạy môn Tập đọc. Bài nào có từ đồng nghĩa, đồng âm, nhiều nghĩa, trái nghĩa, từ ghép, từ láy, câu ghép, câu đơn đủ các thành phần: trạng ngữ - chủ ngữ - vị ngữ thì GV nên yêu cầu HS tìm hay phân tích chúng. Từ đó các em được tăng thêm kĩ năng thực hành làm các bài tập ngoài bài tập có trong sách giáo khoa môn LTVC. Nếu bài nào có các thành ngữ, tục ngữ, ca dao thì chúng ta cũng nên hướng dẫn và yêu cầu các em giải nghĩa các thành ngữ, tục ngữ, cao dao đó. Ví dụ: Bài LTVC đầu tiên (tiết 1) của chương trình LTVC lớp 5 là bài Từ đồng nghĩa( dạy ngày thứ ba theo báo giảng).Sau đó là thứ tư trong chương trình là dạy tiết 2 của môn Tập đọc bài :Quang cảnh làng mạc ngày mùa. Khi dạy bài Tập đọc này,chúng ta có thêm câu hỏi yêu cầu các em tìm các từ đồng nghĩa có trong bài ( các từ chỉ màu vàng và từ trông – thấy). Ngoài ra chúng ta yêu cầu các em phân tích một số câu như: Trong vườn,lắc lư những chùm quả xoan vàng lim…treo lơ lửng;tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo lại mở năm cánh vàng tươi;… Bài Tập đọc Thư gửi các học sinh và các bài Tập đọc khác chúng ta cũng làm tương tự. Bài chính tả đầu tiên Việt Nam thân yêu chúng ta cũng có thể yêu cầu HS tìm từ ghép phân loại, ghép tổng hợp, từ láy có trong bài cũng được. - Môn Tập làm văn: GV hướng dẫn các em làm bài nên sử dụng các từ đồng nghĩa để thay thế cho nhau, tránh lặp từ dẫn đến đặt câu lủng củng, dùng từ trái nghĩa đặt cạnh nhau làm đa dạng câu văn, dùng từ đồng âm và nhiều nghĩa, từ láy, các từ tượng thanh, tượng hình,….sẽ làm cho bài văn các em thêm sinh động, hấp dẫn hơn ;dùng các kiểu liên kết câu đã học để liên kết các câu trong bài văn, đoạn văn giúp cho nội dung của bài gắn với nhau chặt chẽ.Đó cũng là giúp HS vận dụng tốt vốn hiểu biết, kiến thức LTVC đã học của mình vào thực hành làm bài tập. Ví dụ: Yêu cầu HS viết một đoạn văn ngắn tả lại một người bạn thân của mình, hay tả cảnh sông nước, HS có thể viết như sau: VD a.Thư là lớp trưởng lớp tôi và cũng là cô bạn mà tôi thân nhất. Cô bạn nhỏ bé có đôi mắt to tròn đen láy ẩn sau hàng lông mi dài cong vút, nước da ngăm ngăm, mịn màng khiến ai gặp Thư một lần thôi cũng phải nhớ mãi.Lớp trưởng của tôi nói chuyện rất có duyên nhờ trời ban cho cô cách diễn đạt trôi chảy, hoạt bát lại thêm cái răng khểnh nữa nên đã duyên lại càng duyên thêm. * Từ đồng nghĩa được sử dụng trong đoạn văn là từ dùng thay thế cho từ Thư: cô bạn- cô bạn nhỏ bé – lớp trưởng của tôi. VD b. Ôm ấp lấy ngôi làng nhỏ bé của tôi là một con sông nhỏ mềm mại, hiền lành. Con sông này bắt đầu từ đâu và nó được bao nhiêu tuổi rồi dân làng tôi không ai biết. Họ chỉ biết rằng nó thật cần mẫn và tốt bụng nên mọi người đã đặt cho nó cái tên dễ mến: sông Thương. Mùa xuân, sông Thương mang trên mình một màu biêng biếc của lũy tre xanh mướt bên sông.Mùa hè, nó thay màu phơn phớt hồng khi bình minh ló rạng và trở màu đào khi đối diện với mặt trời rực rỡ của ban trưa… * Từ đồng nghĩa: con sông – nó- sông Thương; dân làng tôi – họ - mọi người; biêng biếc – xanh mướt; hồng – đào. Ngoài ra còn sử dụng một số từ láy: mềm mại, biêng biếc, rực rỡ. 2. Dạy ở lớp bồi dưỡng HS năng khiếu: - GV cần tiếp tục củng cố lại phần lí thuyết mà các em đã được học ở trên lớp, phần nào cần mở rộng thêm để HS dễ làm bài thì GV nên làm. Sau đó cho các em làm bài tập thực hành thật nhiều lần. Khi các em đã làm tốt phần bài tập này rồi thì GV hãy tiếp tục dạy các em phần bài tập khác kẻo các em chưa nắm được bài này thì đã phải học bài kia cuối cùng chẳng bài nào HS nắm thật vững cả. Sau đó GV ra đề kiểm tra những phần mà mình đã hướng dẫn HS nhằm kiểm tra, đánh giá lại mức độ các em nắm bài ra sao để còn điều chỉnh phương pháp dạy của mình cho phù hợp. Khi trả bài thì phải sửa tỉ mỉ, cần chỉ cho HS thấy rõ nội dung sai hoặc chưa đầy đủ và giải thích tại sao sai, có thế HS mới củng cố thêm được kiến thức, nắm bài sâu hơn. * Một số ví dụ về luyện tập nâng cao kiến thức và kỹ năng LT & C cho học sinh năng khiếu: - Phân biệt giữa từ ghép có bộ phận giống nhau và từ láy. Trong bài “Từ láy” (LTVC 4) khái niệm về từ láy ở sách giáo khoa rất đơn giản là: Từ láy là từ có các bộ phận giống nhau. Một khái niệm chung chung HS có thể lẫn lộn giữa từ ghép có các bộ phận giống nhau với từ láy như các từ ghép: bay bổng, chạy nhảy, bực tức, hoàn hảo, lẫn lộn, đi đứng …hay một số từ đơn được viết liền nhau mà chúng có bộ phận giống nhau như: leo lên, bên bờ, vội về, lớn hơn, lạng vàng,… Để giúp các em phân biệt được từ ghép với từ láy, GV cần hướng dẫn HS của mình phân biệt như sau: Trước tiên cho các em nắm được các kiểu từ láy: Láy âm đầu, láy vần, láy tiếng, láy âm đầu và vần, láy khuyết âm đầu. Trong Tiếng Việt các âm như k –c –qu về mặt ngữ âm chỉ là 1 và chúng được phát âm giống nhau (chỉ khác nhau về chữ viết - chữ ghi âm) nên các từ như: cuống quýt, cập kênh, cồng kềnh, quanh co, cũ kĩ, cáu kỉnh, kém cỏi, kèn cựa, kề cà,… cũng chính là từ láy (láy âm đầu) Sau đó lấy ví dụ minh họa các từ láy đặt cạnh các từ ghép có bộ phận giống nhau như: đẹp đẽ, vạm vỡ, sặc sỡ, leng keng, bệ vệ, inh ỏi…- chạy nhảy, bực tức, lẫn lộn, ẩn ý… cho HS tìm ra đặc điểm giống và khác nhau của hai loại từ này và rút ra kết luận: + Từ láy đặc biệt là láy vần và láy âm thông thường thì chỉ có một tiếng có nghĩa và một tiếng còn lại không có nghĩa (đẹp đẽ, xinh xắn, hồng hào, xanh xao…) hoặc cả hai tiếng đều không có nghĩa (sặc sỡ, vạm vỡ, xơ xác, núng nính….) trừ trường hợp láy tiếng và láy cả âm vần. + Từ ghép thì cả các tiếng trong nó đều có nghĩa (chạy – nhảy; bực – tức; đi – đứng, bức – bách,….) + Tất cả các từ gốc Hán và Hán Việt nếu có bộ phận giống nhau thì đều là từ ghép: hoàn hảo, hoan hỉ, thiêng liêng, mẫu mực, hữu hiệu,… - Phân biệt từ ghép phân loại và từ ghép tổng hợp: * Từ ghép phân loại: Trước tiên ta lấy ví dụ minh họa như sau: Chọn từ“hạt” là từ đơn (thuần Việt) làm gốc, sau đó hỏi HS tiếng “hạt” thường đi kèm với tiếng nào để tạo thành từ ghép? (thóc, gạo, kê, vừng, đậu…). Sau đó hướng dẫn HS tìm ra đặc điểm chung và riêng của các từ ghép trên và rút ra kết luận: Từ ghép phân loại có một tiếng chỉ sự vật, hiện tượng là yếu tố chính, làm trung tâm (hạt); một tiếng còn lại chỉ sự vật, hiện tượng là yếu tố phụ dùng để phân biệt (thóc, gạo, kê, vừng). VD: “hoa” ghép với các tiếng: lan. huệ, hồng… thành từ ghép phân loại. Thường thì các từ ghép phân loại cả hai tiếng ta đều hiểu được nghĩa của chúng nhưng có một số từ ghép phân loại mà chúng ta thường dùng thì chỉ có một tiếng có nghĩa còn tiếng kia không có nghĩa như: đỏ au, xanh ngắt, tre pheo, chợ búa, cây cối, vườn tược *Từ ghép tổng hợp: Thường có chung một đặc điểm là cùng chỉ sự vật: tóc tai, quần áo, mồm mép, chân tay… , chỉ hoạt động : ăn uống, chạy nhảy, bay nhảy, đi đứng… ; chỉ ,tính chất: cứng rắn, trắng đen, phải trái, hiền lành… - Các từ ghép đều có cấu trúc rất chặt chẽ, ta không thể tách hay chen các tiếng khác vào giữa các tiếng của từ, nếu ta chen tiếng thứ ba vào giữa thì nghĩa của từ bị phá vỡ: Ví dụ: chén bát, xoong nồi, ông bà, …, cá mè, cá chép, lá mít, lá tre… - Những từ ghép trên ta không thể chen hay tách chúng ra được. Nhưng một số tổ hợp từ như: lá xanh è lá rất xanh hay lá màu xanh; trải rộng trải ra rất rộng. Những cụm từ như vậy,ta dễ dàng tách và chen các tiếng khác vào giữa hai tiếng đó, vậy nó không phải là từ ghép. Chúng ta cũng nên hướng dẫn cho HS biết một số từ ghép đặc biệt như: bồ kết, bồ hóng, ác là, bù nhìn, ắc quy, cà phê, a xít, xà phòng,…để các em không lúng túng khi gặp các từ này trong bài tập. (vì bản chất chúng là từ cổ hoặc từ có nguồn gốc tiếng Pháp, tiếng Anh) - Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: Trước hết GV phải cho HS thấy được sự giống và khác nhau của hai từ loại này. * Giống nhau: cả hai từ loại đều có cấu tạo âm tiết giống nhau.Từ nhiều nghĩa thì nghĩa của các từ lại có quan hệ với nhau( nghĩa chuyển được hiểu rộng ra từ nghĩa gốc) còn từ đồng âm thì nghĩa của chúng hoàn toàn khác nhau. Ví dụ: độc thân – nấm độc ( đồng âm) Nấm độc – độc mồm ( nhiều nghĩa) Tù đày – tù trưởng ( đồng âm) Tù đày – tù túng( nhiều nghĩa) Quả bí – bí hơi ( đồng âm) Bí hơi – nước cờ bí quá! ( nhiều nghĩa) - Phân biệt nghĩa gốc – nghĩa chuyển * Từ nhiều nghĩa thường có ba dạng khác nhau: Dạng là danh từ: thì thường là các từ chỉ bộ phận trên cơ thể người hay động vật, cây cối là mang nghĩa gốc ( trừ một số từ như: cổ tay, cổ chân, chân tóc, chân lông,đầu gối, mắt cá chân… thì không phải nghĩa gốc mà mang nghĩa chuyển vì nó được hiểu rộng ra từ nghĩa của các từ cái cổ, cái đầu, cái chân của cơ thể người). Những từ có dạng như trên mà dùng chỉ một bộ phân khác của sự vật khác thì mang nghĩa chuyển: Ví dụ: cây có ngọn, gốc, lá… Nhưng từ ngọn chỉ ngọn núi;gốc chỉ gốc tích, nguồn gốc; lá chỉ lá phổi, lá gan… thì những từ đó được hiểu theo nghĩa chuyển ( nghĩa mở rộng của nghĩa gốc vì nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ đều có chung một đặc điểm về vị trí hay hình dáng …) Ví dụ như: mùi vị của sầu riêng – mùi vị của quê hương – mùi vị của sự cay đắng trong cuộc đời...thì mùi vị sầu riêng mang nghĩa gốc và mùi vị còn lại mang nghĩa chuyển vì mùi vị sầu riêng là đặc điểm của loại trái cây này mà ta cảm nhận được qua vị giác còn mùi vị còn lại thì cảm nhận qua cảm tính, cảm nhận. Dạng là tính từ: Tính từ chỉ mùi vị của cây trái, thức ăn, nước uống… thường mang nghĩa gốc. Nhưng những từ đó chỉ mùi vị của một thứ khác thì nó lại mang nghĩa chuyển. Ví dụ: khổ qua đắng, dưa hấu ngọt, cây tre cứng, lá bàng xanh, … được mang nghĩa gốc vì nó chỉ đặc điểm các bộ phận của cây. Nhưng khi sử dụng những từ đó vào văn cảnh khác như: trong câu thơ của cố nhà thơ Tố Hữu: Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm Thì ngọt bùi- đắng cay lại hiểu theo nghĩa chuyển ( sung sướng hạnh phúc – đau khổ, hi sinh, mất mát…). Thường HS rất hay lộn từ lá phổi, lá gan là bộ phận trong cơ thể người nên mang nghĩa gốc. Nhưng lá phổi, lá gan lại mang nghĩa chuyển vì chỉ có lá cây mới mang nghĩa gốc còn lá phổi, lá gan thì chúng lại có đặc điểm giống chiếc lá về hình dáng nên chúng mang nghĩa chuyển Dạng động từ: Thường những từ chỉ hoạt động, trạng thái của người hay con vật mang nghĩa gốc nhưng khi chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật khác thì có nghĩa chuyển. Ví dụ: Em bé ngủ ( nghĩa gốc)- rừng cây ngủ ( nghĩa chuyển); em bé đứng im (nghĩa gốc) – cây cối đứng im ( nghĩa chuyển). Từ những kinh nghiệm trên, trong những năm qua, tôi đã vận dụng vào công việc bồi dưỡng HS năng khiếu của trường cũng như của huyện đều thu được những kết quả rất tốt,HS nắm và vận dụng làm bài rất hay. Cụ thể kết quả thi HS năng khiếu của năm học 2012 – 2013 như sau: IV.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: ĐƠN VỊ HSNK CẤPHUYỆN HSNK CẤPTỈNH LỚP 5A 7 em 4 em TRƯỜNG TH GIÁ RAI B 13 em 8 em PHÒNG GD&ĐT GIÁ RAI 13 em 14 em V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Muốn bồi dưỡng HS năng khiếu môn Luyện từ và câu lớp 4 -5, đòi hỏi người bồi dưỡng phải có kiến thức liên thông và nâng cao kết hợp với trình độ chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm trong dạy học, có tâm huyết với nghề. Biết xử lí các tình huống mà HS đưa ra. Biết nhận xét khách quan, chính xác bài làm của HS. Biết làm tất cả các dạng bài tập từ đơn giản đến phức tạp.Biết các kiểu câu và các mẫu câu kể. Biết phân tích cấu tạo của câu có đủ các bộ phận(TN – CN –VN từ đơn giản đến phức tạp).Biết phân biệt từ loại (danh từ - động từ tính từ - quan hệ từ - phụ từ - đại từ - tình thái từ..) và phân biệt loại từ( từ đồng nghĩa – từ trái nghĩa –từ nhiều nghĩa – từ đồng âm).Nắm vững các yếu tố tạo nên từ phức ( từ ghép, ghép phân loại, ghép tổng hợp, từ láy) và giúp HS phân biệt chúng để làm bài tập. Ngoài ra, giáo viên bồi dưỡng còn phải linh hoạt vận dụng những hiểu biết của HS và phương pháp giảng dạy để hướng dẫn các em lĩnh hội kiến thức và vận dụng thành thạo vào thực hành làm bài tập. Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã vận dụng trong công tác bồi dưỡng HS năng khiếu môn TV lớp 5 đạt được kết quả khả quan, tôi trình bày ra đây để các thầy cô cùng thảo luận, đóng góp giúp tôi có thêm nhiều kinh nghiệm quí báu hơn trong công tác BDHS năng khiếu Tiếng Việt. Giá Rai, ngày 07 tháng 05 năm 2013 Người viết Nguyễn Thị Dung
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất