Việc phát triển công nghiệp không có sự quy hoạch tổng thể, dân số vẫn tiếp tục tăng và đô thị ngày càng mở rộng đã làm tăng áp lực lên nguồn tài nguyên nước. Trong đó, ô nhiễm kim loại nặng (KLN) đang là một vấn đề rất cấp bách. Ô nhiễm KLN ngày càng trở nên phổ biến, có ảnh hưởng lâu dài không chỉ đến hệ sinh thái mà cả sức khỏe con người. Hàm lượng KLN trong nước thải vượt ngưỡng các quy chuẩn sẽ gây ô nhiễm nguồn nước và khi tích lũy trong cơ thể con người, nó sẽ gây các rối loạn về thận, gan, tim mạch, thần kinh…
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA SINH – MÔI TRƯỜNG
TIỂU LUẬN
Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG
TRONG NƯỚC
GVGD: ThS. Phạm Thị Hà
SVTH:
Nguyễn Bảo Ngọc
Nguyễn Thị Phương Thảo
Phan Minh Thông
Phan Nhật Trường
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................3
I. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong nước ở Việt Nam và thế giới........4
1. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong nước trên thế giới......................4
2. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong nước ở Việt Nam.......................5
II. Đặc điểm và ảnh hưởng của các kim loại nặng trong nước:.......................6
1. Khái niệm chung:.....................................................................................6
2. Tính độc của một số kim loại nặng phổ biến...........................................6
2.1. Tính độc của chì ( Pb ):.....................................................................6
2.2. Tính độc của Cadimi (Cd ):...............................................................8
2.3. Tính độc của Crom ( Cr ):...............................................................10
2.4. Tính độc của thủy ngân ( Hg ):........................................................12
2.5. Tính độc của một số kim loại nặng khác:........................................14
III.
Biện pháp...............................................................................................16
1. Biện pháp phòng ô nhiễm kim loại nặng:..............................................16
2.
Biện pháp xử lý nước thải ô nhiễm kim loại nặng................................17
IV.
Tài liệu tham khảo.................................................................................20
2
MỞ ĐẦU
71% bề mặt Trái Đất là được bao phủ bới lớp nước. Tổng lượng nước
trên Trái Đất là 1.454.000.000 km3, nhưng chỉ có 2,5% là nước ngọt. Đến
98,8% nước ngọt ở dạng băng tuyết, tập trung ở hai cực, số còn lại là nước
ở các ao hồ sông suối, trong khí quyển, nước ngầm và trong cơ thể sinh vật.
Tuy nhiên, chính số ít nước ngọt đó đã tạo ra sự khác biệt giữa Trái Đất và
các hành tinh khác. Có thể nói, nước ngọt là nguồn sống của sinh giới.
Nước tham gia vào hầu hết quá quá trình sinh - địa – hóa, nước đóng vai trò
rất quan trọng trong những hoạt động sống của sinh vật, hoạt động sinh
hoạt và sản xuất của con người.
Thế nhưng hiện nay, nguồn tài nguyên quý giá đó đang suy giảm nghiêm
trọng về cả số lượng lẫn chất lượng do những tác động của con người. Việc
phát triển công nghiệp không có sự quy hoạch tổng thể, dân số vẫn tiếp tục
tăng và đô thị ngày càng mở rộng đã làm tăng áp lực lên nguồn tài nguyên
nước. Trong đó, ô nhiễm kim loại nặng (KLN) đang là một vấn đề rất cấp
bách. Ô nhiễm KLN ngày càng trở nên phổ biến, có ảnh hưởng lâu dài
không chỉ đến hệ sinh thái mà cả sức khỏe con người. Hàm lượng KLN
trong nước thải vượt ngưỡng các quy chuẩn sẽ gây ô nhiễm nguồn nước và
khi tích lũy trong cơ thể con người, nó sẽ gây các rối loạn về thận, gan, tim
mạch, thần kinh…
Để phòng chống và có biện pháp xử lí thích hợp đối với nguồn nước bị ô
nhiễm kim loại nặng, trước hết cần phải có sự hiểu biết đầy đủ về sự ô
nhiễm này. Tiểu luận “Ô nhiễm kim loại nặng trong nước” bước đầu tìm
hiểu về tình hình ô nhiễm kim loại nặng, nguồn gốc, cơ chế và tác động
tiêu cực của KLN đến sức khỏe con người, đồng thời, đưa ra một số biện
pháp đã và đang được sử dụng để phòng, chống ô nhiễm.
3
I. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong nước ở Việt Nam và thế giới
1. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong nước trên thế giới
Trên thế giới tình hình ô nhiễm KLN không chỉ diễn ra ở các nước phát
triển mà cả ở những nước đang phát triển và ngày càng diễn biến theo
chiều hướng xấu. Các sự cố nhiễm độc KLN đã được ghi nhận ở nhiều nơi
trên thế giới.
Thành phố Tianying thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc cũng là nơi có hàm
lượng Pb trong nguồn nước rất cao, ngay cả trong lúa mì ở Tianying cũng
chứa Pb với nồng độ gấp 24 lần mức cho phép. KLN này đã đi vào trong cơ
thể trẻ em ở đây gây ra một số bệnh và làm cho chỉ số thông minh của trẻ
em bị giảm đi rất nhiều. Theo đánh giá của tổ chức Bình Minh Xanh
(2004), nồng độ Hg đã tăng gấp 280 lần TCCP và lượng Cr trong nước
uống tại Hồng Kông đã ở mức ung thư. Có tới 12 triệu tấn trong tổng số
484 triệu tấn ngũ cốc của Trung Quốc bị nhiễm độc KLN do tình trạng ô
nhiễm đất trồng trọt [1].
Ở khu vực Nam Mỹ, ô nhiễm Hg chủ yếu từ hoạt động khai thác vàng.
Hg được dùng để tách vàng ra từ quặng sa khoáng. Theo các báo cáo
nghiên cứu của Elmer Diaz (Mỹ), mức độ nhiễm Hg có trong các loài cá
sống ở đây rất cao, từ 10,2 - 35,9 ppm. Hàm lượng Hg có trong mẫu tóc và
máu xét nghiệm của người dân sống xung quanh lưu vực các con sông như
Tapajos, Madeira và Negro những nơi mà hoạt động khai thác vàng diễn ra
mạnh mẽ được xác định lần lượt là 0,74 - 71,3 µg/g trong tóc và 90 - 149
µg/l trong máu.
Tại Glasgow (1979 - 1980) có khoảng 42% các mẫu nước sinh hoạt có
hàm lượng Pb vượt quá 100 mg/l. Ngoài ra theo thống kê của các nhà
nghiên cứu khi phân tích 42 mẫu bùn từ các thành phố công nghiệp ở Anh
và Wales thì hàm lượng Pb dao động trong khoảng 120 - 3.000 mg/l (trung
bình 820 mg/l khối lượng khô) [2].
Tại Thái Lan, theo báo cáo của Viện Quốc tế quản lý nước (IWMI) năm
2004 thì hầu hết các ruộng lúa tại tỉnh Tak đã bị nhiễm Cd cao gấp 94 lần
TCCP, có đến 5,756 người dân chịu ảnh hưởng và có nguy cơ nhiễm độc
Cd dễ mắc chứng bệnh Itai Itai (làm mềm hóa và méo mó xương, gây tổn
hại thận). Loại bệnh này đã từng xảy ra ở tỉnh Toyama (Nhật Bản) vào
những năm 1940. Do hoạt động khai khoáng, làm ô nhiễm Cd trên sông
JinZu đã làm cho hàng trăm người dân sống ở đây bị tổn thương thận,
loãng xương và nhiều người bị tử vong [3].
4
Có tới 60% nước sinh hoạt ở Sukinda (Ấn Độ) chứa Cr hóa trị VI với
nồng độ lớn hơn hai lần so với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo ước tính của
một nhóm y tế Ấn Độ, 84,75% số người chết ở khu mỏ này đều liên quan
đến các bệnh do Cr gây ra [4].
2. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong nước ở Việt Nam
Việt Nam là một nước đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa diễn ra mạnh mẽ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển nền kinh tế
của đất nước nhưng cùng với sự phát triển đó các vấn đề về môi trường
chưa được quan tâm nên tình trạng ô nhiễm KLN diễn ra ngày một tăng
cao. Ô nhiễm KLN ở Việt Nam chủ yếu diễn ra ở khu công nghiệp, khu đô
thị, khu khai thác khoángsản.Theo báo cáo môi trường quốc gia 2011 có tới
90% số doanh nghiệp không đạt yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng dòng xả
nước thải xả ra môi trường, 73% số doanh nghiệp xả nước thải không đạt
tiêu chuẩn, do không có các công trình và thiết bị xử lý nước thải. Có 60%
số công trình xử lý nước thải hoạt động vận hành không đạt yêu cầu. Thành
phần nước thải chứa hàm lượng lớn các kim loại nặng như Cd, Cu, Fe, Zn,
Cr,… Nước thải hiện thời vẫn chưa được phân loại dẫn đến khó khăn khi
xử lý đồng thời hiệu quả xử lý không cao.
Tại TP. Đà Nẵng theo đánh giá hiện trạng môi trường năm 2005 cho
thấy tại vùng cửa sông, ven biển đang có tình trạng ô nhiễm một số KLN.
Tại khu vực cửa sông Cu Đê, cửa sông Phú Lộc hàm lượng Hg trong nước
vượt TCCP 0,08 – 0,56 lần, hàm lượng Pb vượt 0,06 – 0,27 lần TCCP, tại
khu vực cửa Mũi Vịnh hàm lượng As, Fe, Zn vượt tiêu chuẩn từ 2,17 –
11,4 lần TCCP [5], [6].
Theo nghiên cứu của Phạm Thị Nga và cộng sự (Trung tâm Địa chất và
Khoáng sản Biển, 125 Trung Kính, Cầu Giấy, Hà Nội) về hiện trạng KLN
trong trầm tích Vịnh Đà Nẵng cho thấy: hàm lượng As trung bình là5ppm
cao hơn nhiềusovới hàm lượng trung bình của As trong trầm tích biển nông
thế giới, và đã xuất hiện những khu vực ô nhiễm Hg ở mức trung bình
0,2ppm.Hàm lượng Pb là 40ppm cao hơn nhiều so với mức tiêu chuẩn
Canada (32ppm). Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Đà Nẵng công
bố kết quả kiểm tra nguồn nước tại vịnh Mân Quang và Âu thuyền Thọ
Quang bị ô nhiễm với hàm lượng KLN vượt từ 1 đến 33 lần [5].
5
II.
Đặc điểm và ảnh hưởng của các kim loại nặng trong nước:
1. Khái niệm chung:
Kim loại nặng là những kim loại có khối lượng riêng lớn hơn 5g/cm 3.
Một vài KLN có thể cần thiết cho cơ thể sống bao gồm động vật, thực vật,
các vi sinh vật, khi chúng chỉ ở một hàm lượng nhất định nào đó. Tuy
nhiên, khi ở một lượng lớn hơn giới hạn cho phép nó sẽ trở nên độc
hại.Những nguyên tố như Pb, Cd, Hg, Cr… không có lợi cho cơ thể
sống.Những KLN này khi đi vào cơ thể sống ngay cả ở dạng vết cũng có
thể gây độc hại.
Trong tự nhiên, KLN tồn tại ở cả 3 môi trường: môi trường khí, môi trường
nước và môi trường đất. Trong môi trường nước, thì KLN tồn tại dưới
dạng ion hoặc phức chất.. So với hai môi trường trên thì nước là môi
trường có khả năng phát tán KLN đi xa và rộng nhất.Nguồn nước có chứa
KLN nếu được đưa đi tưới cây thì sẽ khiến cây trồng bị nhiễm KLN, và đất
trồng cây cũng bị ô nhiễm KLN. Do đó, KLN trong môi trường nước có thể
đi vào cơ thể người thong qua con đường ăn uống.
Trong các KLN thì Cd, Pb, Cr, Hg là những KLN được cơ quan Bảo vệ
Môi trường của Mỹ (US- EPA) xếp vào nhóm tám KLN phổ biến nhất và
có độc tính cao nên báo cáo sẽ phân tích về nguồn gốc cũng như cơ chế
phát sinh của 4 KLN đó.
2. Tính độc của một số kim loại nặng phổ biến
2.1.Tính độc của chì ( Pb ):
a. Nguồn gốc:
Chì có trong nước thải của các cơ sở sản xuất pin, acqui, luyện kim đen,
hóa dầu, sản xuất năng lượng. công nghệ mỹ phẩm . Hoặc đưa vào môi
trường nước từ nguồn không khí bị ônhiễm do sử dụng xăng pha chì trong
các động cơ của phương tiện giao thông để chống kích nổ trong động cơ.
Thời gian lưu trung bình của hợp chất chì trong không khí là 14 ngày. Do
quá trinh tích tụ và lắng đọng, các hợp chất này được giữ lại ở trên bề mặt
trái đất hoặc đi vào đại dương.
b. Tính chất và cơ chế:
6
Chì có kí hiệu hóa học là Pb, khối lượng nguyên tử 209,2 khối lượng
riêng d = 11,35 g/cm3, là kim loại thuộc nhóm IV, số thứ tự 82 trong bảng
tuần hoàn hóa học. Trong tự nhiên Pb tồn tại dưới dạng quặng PbS, PbCO 3,
PbSO4 [7].
Chì tương đối bền, có độc tính cao, có ái lực mạnh nên có thể thế chỗ kim
loại khác trong cấu trúc của enzym. Phần lớn các muối vô cơ của chì (PbS,
PbCO3, PbSO4, Pb(OH)2) là chất ít tan nên hàm lượng chì trong nước ngầm
tương đối ít. Chúng có thể tạo nên các phức hydro, cacbonat, sunfat và
cacboxyl trong thủy quyển. Nước ngọt chứa chủ yếu ở dạng phức cacbonat,
nước biển chứa hợp chất chì chủ yếu ở dạng các phức clorua, nước của đất,
chì lại ở dạng phức của các axit humic hoặc fulvic. Thêm vào đó , chì có
khả năng tích lũy lâu dài trong cơ thể thông qua dây chuyền thực phẩm,
tích lũy sinh học trong cơ thể động vật biển thông qua quá trình metyl hóa
như (CH3)3PbCl, (CH3)4Pb,…
Phản ứng oxy hóa khử của chì trong môi trường:
Pb2+
+
2H2O
PbO2 +
4H+
+
2e-
c. Tác động:
Nguồn nước bị nhiễm các kim loại nặng đặc biệt là Pb có ảnh hưởng rất
lớn đến sức khỏe của chúng ta. Pb ảnh hưởng đến hệ sinh sản, có thể gây
vô sinh, gây sẩy thai. Đặc biệt đối với phụ nữ đang mang thai và trẻ em là
nhưng đối tượng mẫn cảm với nguy hại của chì nhất. Sự thâm nhiễm chì
vào cơ thể con người từ rất sớm ở tuần thứ 20 trở đi của thai kì và tiếp diễn
suốt thời kì mang thai. Còn đối với trẻ em có mức hấp thụ chì cao gấp 3-4
lần người lớn.Chì gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh đặc biệt đối với trẻ sơ
sinh và trẻ đang ở tuổi phát triển hệ thần kinh Một số nghiên cứu cho thấy
nhiễm độc Pb làm giảm chỉ số thông minh (IQ) của trẻ. Một số đánh giá
của các nhà khoa học cho thấy cứ tăng 10mg/l Pb trong máu sẽ gây giảm 1
– 5 điểm IQ đối với trẻ em bị nhiễm độc Pb. Nhiễm độc Pb làm hệ thần
kinh luôn căng thẳng và rối loạn tập trung chú ý ở trẻ em từ 7 – 11 tuổi.
Pb tích tụ ở xương, cản trở chuyển hóa canxi bằng cách trực tiếp hay
gián tiếp thông qua kìm hãm sự chuyển hóa vitamin D.Kết quả chụp
Xquang ở bé gái 19 tháng tuổi tại Kiên Giang cho thấy các đầu xương dài
có đường viền tăng sáng do việc lắng đọng chì. Các bác sĩ đã thử định
lượng chì trong máu, kết quả cho thấy mức chì rất cao, tới 65mg/l (bình
thường dưới 5mg/l). Nguyên nhân do nhà cháu nằm gần con sông bị ô
nhiễm, do việc xả nước thải của cơ sở sản xuất chì dung làm lưới đánh cá.
7
Kết quả chụp Xquang ở bé gái 19 tháng tuổi tại Kiên Giang
Ở tuổi trung niên, nhiễm độc Pb sẽ làm huyết áp tăng gây nhiều rủi ro về
các bệnh tim mạch. Ngộ độc cấp tính do Pb thường ít gặp. Ngộ độc thường
diễn ra do ăn phải thức ăn có chứa một lượng Pb, tuy ít nhưng liên tục hằng
ngày. Chỉ cần hằng ngày cơ thể hấp thu từ 1 mg Pb trở lên thì sau một vài
năm sẽ có triệu chứng: hơi thở có mùi hôi thối, sưng lợi với viền đen ở lợi,
da vàng, đau bụng dữ dội, táo bón, đau khớp xương, bại liệt chi trên (tay bị
biến dạng), mạch yếu, nước tiểu ít [2], [4], [8].
Độc tính của Pb chủ yếu là do khả năng ức chế một số enzim của quá
trình tổng hợp máu dẫn đến ngăn chặn quá trình tạo hồng cầu. Khi Pb trong
máu khoảng 0,3 ppm thì quá trình sử dụng oxi để oxi hóa glucoza tạo năng
lượng cho quá trình sống bị ngăn cản làm cơ thể mệt mỏi. Ở nồng độ > 0,8
ppm gây thiếu máu do không tổng hợp được hemoglobin.
Quá trình tích lũy Pb trong nước gây ảnh hưởng đến các cơ quan, chu
trình hoạt động sinh lý của sinh vật. Độ độc mãn tính của Pb là làm cho cá
bị stress, đen vây. Độ độc cấp tính ảnh hưởng lên hệ thống mang, làm tôm
cá không hô hấp được, gây chết hàng loạt.
Theo WHO, nồng độ Pb tối đa cho phép trong nước uống là 0,05mg/l.
2.2.Tính độc của Cadimi (Cd ):
a. Nguồn gốc :
Cd là kim loại được sử dụng trong công nghiệp luyện kim, chế tạo đồ
nhựa, hợp chất cadmium được sử dụng để sản xuất pin, cho các chất lân
quang màu đen trắng truyền hình. Nguồn gốc cadimi đi vào nước là do quá
trình khai thác quặng kẽm , đi vào khí quyển từ quá trình đốt rác, sản xuât
phân bón nhưng không được xử lí sạch nên đã tích tụ lại vào nước ngầm,
bụi lắng.
8
b. Tính chất và cơ chế :
Cadimi có kí hiệu hóa học là Cd, khối lượng nguyên tử 112,411 đvC có
khối lượng riêng d = 8,642 g/cm3, thuộc nhóm phân loại IIB là kim loại
thuộc nhóm 12, số thứ tự 48 trong bảng tuần hoàn hóa học. Cadimi màu
trắng ánh xanh, có hóa trị 2, rất dễ cắt bằng dao.Nó có những tính chất hóa
học tương tự như kẽm nhưng có xu hướng tạo ra các hợp chất phức tạp
hơn.
Cadimi tạo ra nhiều loại muối trong đó sunfua cadmi là phổ biến
nhất.Sulfua này được sử dụng trong thuốc màu vàng.Kẽm là nguyên tố cần
thiết cho sự sống thì cadimi lại không cần thiết cho cơ thể sống và có thể
thay thế kẽm(Zn) trong một số cấu trúc của cơ thể nên có thể trữ lại trong
người và gây độc chỉ với một lượng rất nhỏ.
Độ linh động của các hợp chất Cd trong thủy quyển được xác định bởi
độ hòa tan của hydroxyt, cacbonat, sunfit cadimi và ảnh hưởng của độ hòa
tan do sự thay đổi pH và sự tạo phức. Độ linh động của Cd trong nước sẽ
giảm đi bởi sự có mặt của CO32-.
Dưới điều kiện hiếu khí, tại lớp nước bề mặt đại dương thì phức clo sẽ
được tạo thành với cadimi:
Cd2+ +
ClCdCl+
Cd2+ +
OH- +
ClCd(OH)Cl
Trong môi trường thiếu oxy, sẽ xuất hiện CdS kết tủa:
CdCl+
+
H2S
CdS(R) + 2H+ +
Clc. Tác động:
Trong cơ thể người Cadimi tích tụ mãn tính ở trong thận, nó có thể gây
ra rối loạn chức năng nếu hàm lượng lên đến 200mg/kg trọng lượng cơ
thể.Cadimi là một trong rất ít nguyên tố không có ích lợi gì cho cơ thể con
người. Nguyên tố này và các dung dịch các hợp chất của nó là những chất
cực độc thậm chí chỉ với nồng độ thấpvà chúng sẽ tích lũy sinh học trong
cơ thể cũng như trong các hệ sinh thái.
Hít thở phải bụi có chứa Cadimi nhanh chóng dẫn đến các vấn đề đối với
hệ hô hấp và thận, có thể dẫn đến tử vong (thông thường là do hỏng
thận).Nuốt phải một lượng nhỏ Cadimi có thể phát sinh ngộ độc tức thì và
tổn thương gan và thận. Các hợp chất chứa Cadimi cũng là các chất gây
ung thư. Thức ăn và nước uống là con đường chính mà Cadimi đi vào cơ
thể, nhưng việc hút thuốc lá cũng là nguồn gây nhiễm kim loại này. Những
người hút thuốc lá có thể thấm vào cơ thể lượng Cadmi từ 20 – 36 µg/ngày.
9
Do lượng Cadimi thải ra khỏi cơ thể con người rất chậm (0,1% trong một
ngày đêm) nên dễ diễn ra quá trình ngộ độc mãn tính. Những triệu chứng
sớm nhất của nó là tổn thương ở thận và hệ thần kinh, có albumin trong
nước tiểu, rối loạn chức năng các cơ quan sinh dục, sau đó thấy đau dữ dội
ở xương sống lưng và xương chậu [2], [8], [9].
Hơn nữa, thực vật sẽ không phát triển được nếu chúng tích lũy Cadimi
với hàm lượng quá cao.
Theo WHO, nồng độ Cd tối đa cho phép với nước uống là 0,003mg/l.
2.3.Tính độc của Crom ( Cr ):
a. Nguồn gốc:
Cr xuất hiên là kết quả của quá trình khoáng hóa và sự hòa tan Cr hữu cơ
từ trong đất. Chúng thường được sử dụng trong ngành luyện kim, làm
thuốc nhuộm , vải sợi, mực in, ảnh màu và sơn, làm chất chống ăn mòn
trong các thiết bị giếng khoan (mạ) , cromit được dùng để nung gạch, ngói.
Nguồn Cr do hoạt động nhân tạo và tự nhiên ( phong hóa) đi vào môi
trường khoảng 150.103 tấn/năm.
b. Tính chất và cơ chế :
Crôm có kí hiệu hóa học là Cr, nguyên tử khối là 51,9961 đvC, có khối
lượng riêng d = 7,2 g/cm3 thuộc nhóm phân loại VIB, số thứ 24 trong bảng
hệ thống tuần hoàn hóa học. Trong nước, crom tồn tại ở 2 dạng Cr(III) và
Cr(VI). Hợp chất Cr3+ hầu như không độc, thường tồn tại trong môi trường
axit, nhưng trong môi trường kiềm lại tồn tại ở dạng hydroxyt Cr(OH) 3
hoặc Cr(OH)4- với cân bằng sau:
Cr(OH)3
+
OH -
[Cr(OH)4] -
K(25oC) =10-2
Tuy nhiên, ở hợp chất Cr6+ là những chất oxy hóa mạnh và độc hại đối
với động thực vật và con người. Nồng độ của chúng trong nguồn nước tự
nhiên tương đối thấp vì chúng rất dễ bị khử bởi các chất hữu cơ. Người ta
hay sử dụng tính chất này để xác định lượng oxy cần thiết trong mẫu nước
vì chất hữu cơ luôn sử dụng nguồn O2 cho tiêu thụ và phân hủy ra những
chất vô cơ đơn giản hơn.
{CH2O}
+
O2
vsv
CO2 +
H2O
10
Cr6+ tồn tại ở dạng ion khác nhau dưới những cân bằng xác định, chúng có
thể chuyển hóa qua lại lẫn nhau tùy thuộc vào điều kiện môi trường:
2CrO42- +
2H+
Cr2O72-
+
H2O
Phản ứng oxy hóa khử:
2Cr3+ +
7H2O
Cr2O72- + 14H+ + 6ec. Tác động:
Cr(III) cần thiết cho cơ thể ở liều lượng nhỏ nó tham gia vào quá trình
trao đổi chất của đường trong cơ thể, nếu thiếu hụt sẽ gây nên bệnh thiếu
hụt Cr. Ngược lại Cr(VI) rất độc hại khi hít phải [10]. Nồng độ Cr trong
nước uống thường thấp hơn 2 µg/l (mặc dù thực tế đã có trường hợp nồng
độ Crôm trong nước uống cao tới 120 µg/l). Nhìn chung thực phẩm là
nguồn chính đưa Cr vào cơ thể con người, sự hấp thụ Cr tùy thuộc trạng
thái oxi hóa của chất đó. Cr(VI) hấp thụ qua dạ dày, ruột nhiều hơn Cr (III)
và còn có thể thấm qua màng tế bào. Các hóa chất hóa trị VI của Cr gây
viêm loét da, xuất hiện mụn cơm, viêm gan, viêm thận, ung thư phổi…
IARC đã xếp Cr(VI) vào nhóm 1 và Cr(III) vào nhóm 3. Hàm lượng cao
Cr có thể làm kết tủa protein, các axit nucleic và ức chế hệ thống enzim cơ
bản [11].
Theo WHO, nồng độ Cr tối đa cho phép trong nước uống là 0,05mg/l.
Cr (VI) gây ung thư phổi
2.4.Tính độc của thủy ngân ( Hg ):
a. Nguồn gốc:
11
Các hợp chất thủy ngân được ứng dụng rộng rãi trong các ngành kỹ thuật
khác nhau như: quá trình điện phân, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc chống
nấm , kỹ thuật điện tử ( sản xuất đèn huỳnh quang), chế tạo xúc tác, nha
khoa, dược phẩm , bột giấy và các ngành khác. Nhờ tuần hoàn tự nhiên do
quá trình phong hóa, núi lửa, vận chuyển theo dòng chảy ..mà thủy ngân
được tích lũy trong đất, trong nước, trong cơ thể động thực vật, con người,
hàm lượng thủy ngân thải ra ở mặt đất lớn hơn ở đại dương.
b. Tính chất và cơ chế:
Thủy ngân có kí hiệu là Hg, có khối lượng riêng là 13,579g/cm 3 .Thủy
ngân là kim loại có màu sáng bạc, dạng lỏng, các muối tan trong nước là
clorua, sunfat, nitrat, clorat. Trong hệ thống nước bão hòa oxy, có thể thấy
thủy ngân ở dạng Hg2+ tạo thành từ Hg. Trong điều kiện yếm khí thường
gặp thủy ngân ở dạng Hg hoặc phức chất với HgS22-.Các phản ứng metyl
hóa sinh học có một ý nghĩa quan trọng đối với tính độc của các hợp chất
thủy ngân. Quá trình metyl hóa thủy ngân có thể xảy ra liên tiếp dưới
những điều kiện yếm khí nhờ các co-enzym chứa Co(III) sinh ra metyl
cobalamin như là chất trung gian trong quá trình tổng hợp. Vì vậy nước và
các chất lắng trong quá trình thối rửa sẽ tạo điều kiện cho quá trình sinh ra
metyl thủy ngân hoặcdimetyl thủy ngân vì ở dạng hữu cơ thì Hg liên kết
với nhóm sulfhydryl (-SH) từ các acid amin có chứa S trong cơ thể sinh vật
chết. Ngoài ra, Hg còn liên kết với các gốc hydrocarbon như là CH 3HgCl,
CH3Hg+ và CH3HgCH3 .Các hợp chất thủy ngân có độ độc tính cao và tích
tụ lâu đặc biệt là methy thủy ngân.Nếu môi trường axit, methy thủy ngân
(dễ hòa tan trong nước) là dạng tồn tại chủ yếu, còn môi trường kiềm thì
dạng ưu thế là dimethyl thủy ngân (dễ bay hơi đi vào khí quyển).
c. Tác động:
Khi xâm nhập vào cơ thể thủy ngân sẽ liên kết với những phân tử
nucleotit trong cấu trúc protein làm biến đổi cấu trúc và ức chế hoạt tính
sinh học của tế bào. Đối với tế bào não, sự nhiễm độc thủy ngân có thể gây
nên những tổn thương cho trung tâm thần kinh với các triệu chứng như run
rẩy, khó khăn trong diễn đạt và giảm sút trí nhớ, nặng hơn là gây tê liệt,
nghễnh ngang, nói lắp và thậm chí có thể gây tử vong. Nhiễm độc metyl
thủy ngân cũng dẫn đến sự phân chia nhiễm sắc thể, phá vỡ nhiễm sắc thể
và ngăn cản sự phân chia tế bào. Đặc biêt là phụ nữ mang thai khi bị phơi
nhiễm với thủy ngân có thể sinh con bị nhiễm độc thủy ngân bẩm sinh gây
quái thai, dị tật… [12], [4].
12
Những trẻ em bị dị tật do nhiễm độc thủy ngân
Tính độc của thủy ngân phụ thuộc vào dạng hợp chất hóa học của nó:
- Thủy ngân kim loại tương đối trơ và không độc, nếu nuốt thủy ngân vào
trong bụng thì sau đó lại được thải ra ngoài, không gây hậu quả nghiêm
trọng. Nhưng hơi thủy ngân nếu hít vào thì rất độc.Khi hít phải hơi thủy
ngân, thủy ngân sẽ vào não qua máu, huỷ hoại hệ thần kinh trung ương [4].
- Thủy ngân (I) Hg22+ vào cơ thể thì tác dụng với ion Cl - trong dạ dày tạo
hợp chất không tan Hg2Cl2, bị đào thải ra ngoài, nên Hg22+ không độc [4].
- Thủy ngân (II) Hg2+ rất độc, nó dễ dàng kết hợp với các amoni axit có
chứa lưu huỳnh của protein. Hg2+ cũng tạo liên kết với hemoglobin và
albumin trong huyết thanh vì cả hai chất đều có chứa nhóm –SH [4].
- Các hợp chất hữu cơ của thủy ngân có độc tính cao nhất, đặc biệt là ion
metyl thủy ngân CH3Hg+, chất này tan được trong mỡ,phần chất béo của
các màng trong não tủy [4].
Các triệu chứng nhiễm độc thủy ngân bắt đầu xuất hiện khi nồng độ metyl
thủy ngân trong máu vào khoảng 0,5 µg/g [12], [4].
Theo WHO nồng độ Hg tối đa cho phép với nước uống là 1mg/l, với nước
nuôi thủy sản là 0,5mg/l.
2.5.Tính độc của một số kim loại nặng khác:
Kim
Nguồn phát
Tính chất và dạng
loại
thải
tồn tại
nặng
Cơ chế
13
Arsen
(As)
Có
trong
thành phần
các
loại
khoáng,
thuốc trừ sâu,
chất thải hóa
học, chất độc
hóa học trong
chiến tranh
như
ClCH=CHAsCl2;
(C6H5)2AsCl;
(C6H5)2AsCN
không màu, không
mùi,
độc
như As2O3 vàAs2O5 là
những chất hút ẩm và
dễ dàng hòa tan trong
nước để tạo thành các
dung dịch có tính axít.
Trong nước, arsen tồn
tại dạng muối arsenat
và arsenic.
Selen
(Se)
Nguồn nước
tự
nhiên,
quặng
sunfua, than
Selen có mặt tự nhiên
trong một số dạng hợp
chất vô cơ, bao
gồm selenua,selenat,
selenit. selen là chất vi
dinh dưỡng thiết yếu
nhưng lại có độc tính
nếu dùng thái quá. Sử
dụng vượt giới hạn
trên của DRI là 400
microgam/ngày có thể
dẫn tới ngộ độc selen
Manga
n (Mn)
Chất
thải
công nghiệp
mỏ, các qúa
trình vi sinh
trong
các
quặng Mn ở
giá trị pH
Mn cần thiết cho sinh
vật, tồn tại chủ yếu ở
dạng MnO2 .H2O
trong nước biển và
dạng hợp chất của
Mn2+ khó tan.
As5+ được khử
bằng vi sinh về
As3+
rồi được
metyl hóa bởi
nấm hoặc vi
khuẩn tùy vào
điều kiện môi
trường
khác
nhau. Các đi- và
trimetyl
arsen
tích tụ căn lắng
gây độc cao.
Muối
mangan
được hình thành
do quá trình oxy
hóa khử, ở điều
kiện pE và pH
trung bình sẽ tạo
nên các hợp chất
mangan Mn4+ và
14
thấp,
lửa ,
Sắt (Fe)
sẽ tạo Mn2+ trong
môi truong yếm
khí dưới tác dụng
của vi khuẩn
núi
Chất
thải
công nghiệp,
mạ kim loại,
hàn
Là kim loại trắng bạc,
tỉ khối 7,874, thường
tan trong nước dưới
dạng bicacbonat và
hidroxyt, vòng tuần
hoàn của Fe qua sông
ra biển với lượng
103triệu tấn /năm,
trong đó 95% ở dạng
keo phân tán với đặc
tính hấp phụ
Các phản ứng tạo
phức chất bền ,
tạo liên kết phối
trí với các tác
nhân vòng. Các
quá trình khử
proton hóa và
khử hydrat hóa.
Cac phản ứng
phân hủy FeS2.
15
III. Biện pháp
1. Biện pháp phòng ô nhiễm kim loại nặng:
a. Xây dựng mạng lưới giám sát chất lượng nước trong vùng: giám sát chất
lượng nước là công cụ quan trọng để thu thập số liệu nhằm hiểu được tình
trạng chất lượng nước, phát hiện xu thế biến đổi chất lượng nước, mối quan
hệ nguyên nhân - hậu quả và trên cơ sở đó đề ra các biện pháp thích hợp để
bảo vệ chất lượng nước.
b. Xây dựng ngân hàng dữ liệu chất lượng nước: Trong công tác quản lý và
bảo vệ tài nguyên nước ngoài yếu tố số lượng thì các thông tin về chất
lượng nước ngày càng có vị trí quan trọng. Ngân hàng dữ liệu không phải
chỉ là nơi thuần tuý lưu trữ số liệu mà đó chính là một mô hình có chức
năng tập hợp, cập nhật và xử lý số liệu nhằm đưa ra các thông tin thoả mãn
các yêu cầu đa dạng của người sử dụng.
c. Hành chính: Phí xả nước thải vào nguồn nước: Phí xả nước thải đối với
nguồn ô nhiễm điểm. Việc thực hiện loại phí này phản ánh rõ ràng nguyên
tắc “ai gây ô nhiễm - người đó phải trả tiền” ở đây không chỉ các cơ sở sản
xuất xả chất thải phải chịu phí mà cả những ai gây ô nhiễm cũng phải chịu
phí kể cả các hộ gia đình xả nước thải sinh hoạt của mình. Nghị định số
67/2003/ NĐ-CP ngày 13/6/200.
d. Tuyên truyền: Tiến hành các hình thức trao đổi trực tiếp với các địa phương
để phổ biến Luật Tài nguyên nước và xem xét tình hình thực hiện. Lấy ý
kiến của địa phương về các nội dung cần quy định trong văn bản dưới luật.
e. Xử lí nước thải ô nhiễm kim loại nặng trước khi thải ra môi trường:
Nước thải ô nhiễm kim loại nặng thường được xử lí theo các mô hình sau
16
- Dòng nước thải được đưa vào bể tiếp nhận. Song chắn rác được dùng để
loại bỏ các chất rắn có kích thước lớn như: giấy, gỗ, nilon, lá cây…
- Nước tiếp tục được đưa vào bể điều hòa để điều hòa lưu lượng và nồng độ
nước thải đầu vào hệ thống xử lý.
- Nước thải từ bể điều hòa sang bể phản ứng, tại đây, bơm định lượng sẽ
châm hóa chất vào bể với với liều lượng nhất định và được kiểm soát chặt
chẽ. Cánh khuấy giúp trộn nhanh và đều hóa chất vào nước thải. Sau đó,
nước thải tự chảy qua bể keo tụ tạo bông.
- Hóa chất được thêm vào và hệ thống motor cánh khuấy với tốc độ chậm ở
bể keo tụ tạo bông sẽ tạo lên các bông cặn có kích thước lớn, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình ở bể lắng.
- Nước thải sau bể lắng sẽ chảy qua bể trung gian để chuẩn bị quá trình lọc
áp lực. Bùn được bơm về bể chứa bùn, và xử lý theo quy định.
-
-
-
2. Biện pháp xử lý nước thải ô nhiễm kim loại nặng
a. Sử dụng sinh vật chỉ thị: là các loài sinh vật mà sự hiện diện và thay đổi
số lượng các loài chỉ thị cho sự ô nhiễm hay xáo trộn của môi trường. Các
loài này thường mẫn cảm cao với các tác nhân hóa lý xảy ra trong môi
trường đó, nên có thể dùng để nhận biết ô nhiễm.
Ưu điểm
Có khả năng thu nhận kim loại nặng ở mức độ cao, diện tích bề mặt sinh
khối lớn, giá thành thực hiện thấp. Trong quá tình thu mẫu dễ dàng, không
ảnh hưởng đến sinh cảnh tự nhiên khi thu mẫu.
Đã được định loại rõ ràng, dễ nhận dạng, có kích thước vừa phải, số lượng
nhiều, dễ tích tụ chất ô nhiễm, có khả năng sống dài.
Trai, ốc có thể tích tụ Cd trong cơ thể cao gấp 100.000 lần so với môi
trường xung quanh. Có khả năng thích ứng cao với mọi đk thời tiết, môi
trường.
Nhược điểm:
Không xử lý nhanh chóng được, cần thời gian.
Dùng sinh vật xử lý môi trường nước bán ra thị trường -> ảnh hưởng đến
sức khỏe con người.
b. Công nghệ NANO VAST xử lý nước nhiễm Asen và kim loại nặng:
Trong công nghệ NanoVAST, một hệ thống tiền xử lý theo kỹ thuật thông
thường được lắp đặt trước hệ thống hấp phụ. Nhiệm vụ của hệ thống này là
bão hòa oxy không khí nhằm tách loại triệt để Fe, Mn… và qua đó giảm tối
đa nồng độ asen và các chất rắn lơ lửng.Hiệu quả làm việc của hệ thống
này là rất quan trọng nhằm giảm tải và chống làm bẩn các chất hấp phụ.
17
HxtliýửềệnN-M/2CF0LọhcBsạưểớ
Công nghệ được sử dụng hai vật liệu tiên tiến: NC-F20 và NC-MF.
Vật liệu NC-F20
Vật liệu NC-MF
• Đặc tính vật liệu: Cả hai vật liệu (Nc-F20 và NC-MF) đều có thời gian
sống cao khi làm việc liên tục, dễ sử dụng, dễ loại bỏ khi vật liệu hết tác
dụng, rất thích hợp với các hệ thống nhỏ nhất là quy mô hộ gia đình, cơ
quan xí nghiệp, chi phí hoạt động thấp và thân thiện với môi trường.
(a)Hệ thống Nano VAST công suất 1,5m3/h được lắp đặt tại trạm xá xã Nhân
Khang – Lý Nhân – Hà Nam;(b) Hệ thống Nano VAST công suất 1,2m3/h – Xử
lý nước nhiễm asen đã qua lọc được lắp đặt tại phố Trung Yên – Hà Nội.
c. Xử lý kln nhờ khả năng hấp thụ của thực vật.
18
Xử lý nước rỉ rác từ các bãi chôn lấp rác hiện đang là vấn đề "nóng" tại các
đô thị lớn ở Việt Nam. Ðây là nguồn nước thải độc hại do có chứa nhiều
chất độc hại hủy diệt đối với sinh vật và con người như ni-tơ, a-mô-niắc,các chất kim loại nặng.
Giải pháp "cánh đồng tưới" và "cánh đồng lọc” đưa ra giúp tận dụng diện
tích đất tại bãi chôn lấp để trồng cây có khả năng hấp thu kim loại nặng cao
và đóng góp một phần giá trị kinh tế như cỏ Vetiver. Cánh đồng lọc, cánh
đồng tưới dựa theo cơ chế xử lý nước thải trong đất. Khi tưới nước thải lên
mặt đất, nước thải sẽ thấm vào lòng đất và được đất giữ lại, chuyển hóa các
chất bẩn. Quá trình lọc qua đất, các hạt keo và chất lơ lửng sẽ được giữ lại
ở lớp trên cùng, sau đó sẽ tạo ra lớp màng sinh vật hấp thụ các chất hữu cơ
có trong đất, ngoài ra còn cỏ thể hấp thụ các chất kim loại nặng Fe, Cd,…
khỏi hệ thống nước.
19
IV. Tài liệu tham khảo
[1] Phạm Văn Hiệp (2008), Nghiên cứu sự tích lũy kim loại nặng
cadimium (Cd )và chì (Pb trong loài Corbicula sp. ở các vùng cửa sông
tại thành phố Đà Nẵng, Khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Sư phạm –
Đại học Đà Nẵng.
[2] Lê Huy Bá (2006), Độc học môi trường, NXB Đại học quốc gia TP
HCM.
[3] Nguyễn Văn Khánh, Phạm Văn Hiệp (2009), Nghiên cứu sự tích lũy
kim loại nặng Cadmium (Cd) và Chì (Pb) của loài Hến (Corbicula sp.)
vùng cửa sông thành phố Đà Nẵng, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại
học Đà Nẵng, 1(30), tr.83-89.
[4] Hoàng Thái Long Hóa học môi trường, NXB Đại học Khoa học Huế.
[5] Phạm Thị Nga, Lê Văn Đức, Nguyễn Duy Duyến, Lê Việt Thành,
Trung tâm Địa chất và Khoáng sản Biển (2001), Đánh giá ô nhiễm kim loại
nặng trong trầm tích vịnh Đà Nẵng: Kiến nghị và giải pháp phòng ngừa,
Báo cáo khoa học môi trường thành phố Đà Nẵng.
[6] Dương Công Vinh (2009), Nghiên cứu sự tích lũy một số kim loại nặng
ở loại Hến (Corbicula sp.) và Hầu sông (Ostrearivularis Gould) tại cửa
sông Cu Đê TP. Đà Nẵng, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm, Đại học
Đà Nẵng.
[7] Doãn Văn Kiệt, Một số nguyên tố vi lượng thường gặp trong nước và
ảnh hưởng của chúng, Đại học Tây Bắc.
[8] Munir Ziya Lugal Goksu, Mustafa Akar, Fatma Cevik, Ozlem Findik
(2007), Bioaccumulation of Some Heavy Metals( Cd, Fe, Zn, Cu) in Town
Bivalvia Species, Faculty of Fisheries, Adana publishers, Turkey.
[9] Sari Airas (2008), Trace metal concentrations in blue mussel
Mytilusedulis in Byfiorden and the coastal areas of Bergen, Institute for
Fisheries and Marine, Bergen University, Bẹjing.
[10] Mertz, Walter (1993), Chromium in Human Nutrition, Journal of
Nutrition 123(4): 632-636.
[11] Nguyễn Văn Dục, Nguyễn Dương Tuấn Anh, Ô nhiễm nước bởi kim
loại nặng ở khu vực công nghiệp Thượng Đình, Tạp chí Khoa học, Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
[12] Bộ y tế (2007), Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT về việc ban hành
“Quy định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm”.
20
- Xem thêm -