Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp theo pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay từ th...

Tài liệu Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp theo pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn cục thuế thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
87
82
144

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TIẾN ANH KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN CỤC THUẾ THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN ĐỨC MINH HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn NGUYỄN TIẾN ANH MỤC LỤC MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP................................................................. 6 1.1. Khái quát về kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp.......................................... 6 1.2. Cơ sở lý luận của pháp luật thuế đối với doanh nghiệp................................. 25 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở CỤC THUẾ THÀNH PHỐ HÀ NỘI....................................................................................... 32 2.1. Thực trạng pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp............................. 32 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp từ thực tiễn cục thuế Thành phố Hà Nội.......................................................................... 53 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP.............................................................................. 65 3.1. Quan điểm, yêu cầu đặt ra trong hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp......................................................................................................... 65 3.2. Khuyến nghị hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp........ 67 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp qua thực tiễn thực hiện ở thành phố Hà Nội.................................. 73 KẾT LUẬN......................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….. 80 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DN: Doanh nghiệp GTGT: Giá trị gia tăng KTTT: Kiểm tra thanh tra NNT: Người nộp thuế NSNN: Ngân sách nhà nước QTKT: Quy trình kiểm tra TNCN: Thu nhập cá nhân TP: Thành phố UBND: Ủy ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Kết quả kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế năm 2015-2016……………………………………………………...54 Bảng 2.2. Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra tại trụ sở ĐTNT năm 2015, 2016……………………………………………………………55 Bảng 2.3. Kết quả chuyên đề kiểm tra sau hoàn thuế năm 2016…………56 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật kiểm tra thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách Nahà nước để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định. Ngoài ra, pháp luật kiểm tra thuế còn được sử dụng như một công cụ để điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của Nhà nước. Việc xây dựng hệ thống pháp luật kiểm tra thuế phải được đảm bảo những nguyên tắc như: nghĩa vụ thuế phải đảm bảo công bằng, đánh thuế phải đảm bảo lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế, đánh thuế phải đảm bảo tính nhất quán, dễ hiểu, đạt hiệu quả và đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần; luật thuế phải tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đối với doanh nghiệp, pháp luật kiểm tra thuế có tầm quan trọng trong nền kinh tế, tác động nhiều mặt về kinh tế - chính trị - xã hội. Có hiệu lực từ 01/07/2007, Luật quản lý thuế được coi như một bước tiến quan trọng trong công tác quản lý thu nộp ngân sách khi nó điều chỉnh thống nhất về mặt thủ tục đối với toàn bộ các loại thuế từ nội địa cho đến thuế đối với hàng xuất khẩu và các khoản thu khác thuộc Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, do Luật quản lý thuế mới được triển khai thực hiện trong một thời gian ngắn nên không thể không tồn tại những hạn chế, thiếu sót như hiện tượng nợ đọng thuế chưa giải quyết được, tình trạng lách luật để gian lận trong kê khai thuế, trốn thuế… Bên cạnh đó, do tính chất là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, là đầu mối của các hoạt động sản xuất, kinh doanh của toàn quốc, nên các loại hình sản xuất, kinh doanh ở Hà Nội là vô cùng đa dạng và phức tạp, là tiền đề để hoạt động gian lận thuế diễn ra, dẫn đến làm hao hụt Ngân sách Nhà nước. Trong bối cảnh đó, thực hiện chức năng quản lý thuế của ngành thuế sẽ giữ vai trò vô cùng quan trọng, góp phần phát hiện, truy thu về cho Ngân sách Nhà nước. Công tác kiểm tra thuế là một trong các chức năng quản lý thuế. Với chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cùng với xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực hiện nay, việc cải cách hệ 1 thống pháp luật kiểm tra thuế nhằm phù hợp với tình hình đổi mới và thông lệ quốc tế là tất yếu khách quan. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khía cạnh bất cập chưa hợp lý hoặc không mang tính khoa học cao khi áp dụng vào thực tiễn, trong đó nổi bật là luật thuế áp dụng đối với doanh nghiệp. Hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp đang áp dụng hiện nay là một nội dung rất lớn và cấp bách đòi hỏi phải có nhiều thời gian nghiên cứu về lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế tại địa phương trên tôi lựa chọn đề tài “Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp theo pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn cục thuế thành phố Hà Nội” với hy vọng tìm chọn một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động kiểm tra thuế doanh nghiệp trên địa bàn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp, thực trạng quy định và thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đói với doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp. Đối với pháp luật kiểm tra thuế, có nhiều tác giả quan tâm và vận dụng những thành tựu về lý luận pháp luật thuế, đồng thời đưa ra nhiều vấn đề về các giải pháp, kinh nghiệm xuất phát từ thực tiễn. Sau khi tổng quan tình hình nghiên cứu về các vấn đền nêu trên, tác giả đã tìm hiểu một số nội dung của các đề tài đã nghiên cứu trước đây, cụ thể: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế của tác giả Trương Thị Hồng Nhung với đề tài “ Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam” được thực hiện năm 2013. Luận văn đã đưa ra kết luận khoa học về thực trạng pháp luật quản lý thuế GTGT và thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế, kết luận về nguyên nhân của thực trạng để làm cơ sở cho việc xây dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Bài viết của tác giả Trần Thị Trinh viết về “Thuế thu nhập cá nhân hiện hành – Những vấn đề cần tháo gỡ” được đăng trên Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng – số 6 năm 2010 đề cập đến luật thuế thu nhập cá nhân kể từ khi áp dụng chính thức ngày 01/01/2009 đến nay đã xuất hiện nhiều vướng mắc cần tháo gỡ. Thông qua bài viết này, tác giả mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn chỉnh hơn luật thuế đang rất còn mới mẻ này ở nước ta. 2 Luận văn Thạc sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa với đề tài “Chính sách thuế bất động sản ở Việt Nam” được thực hiện năm 2009. Trong luận văn, tác giả đã trình bày những chính sách thuế liên quan đến bất động sản nói chung, đưa ra định hướng cải cách chính sách thuế để từ đó đề xuất những giải pháp hỗ trợ thực hiện cải cách chính sách thuế bất động sản cho phù hợp. Các luận văn này tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hỗ trợ, cải cách các chính sách thuế giá trị gia tăng, thuế bất động sản, nhưng vấn đề pháp luật thuế đối với doanh nghiệp trên phương diện tổng quát thì còn rất ít. Đặc biệt là các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp ở vùng có tốc độ đô thị hóa nhanh như thành phố Hà Nội hiện nay. Dựa trên những tài liệu đã nghiên cứu trước đây, trong luận văn này, tác giả sẽ trình bày lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp và thực trạng thực hiện pháp luật kiểm tra thuế của doanh nghiệp từ thực tiễn hoạt động kiểm tra thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu hướng đến mục đích làm rõ thực trạng quy định của pháp luật và thực hiện pháp luật kiểm tra thuế của doanh nghiệp, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích trên được cụ thể trong việc khái quát những nhiệm vụ chính của luận văn là: Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp; về quản lý thuế; công tác kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá để làm rõ thực trạng quy định của pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp; những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội. Đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp và các quy định khác có liên quan. Ngoài ra, luận văn nghiên cứu cả thực tiễn thực hiện pháp luật về lĩnh vực này qua trường hợp thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tác giả nghiên cứu hoạt động thực hiện pháp luật kiểm tra thuế của doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, các học thuyết kinh tế về thuế, về kinh tế thị trường, cũng như quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta về thuế, kinh tế thị trường, về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Trong từng nội dung cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành cùng các phương pháp khác một cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu như sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, so sánh. Ngoài ra, luận văn sẽ sử dụng các số liệu thứ cấp để minh chứng và phân tích thực trạng vấn đề. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu lý luận của luận văn góp phần bổ sung một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Qua phân tích và khảo sát thực trạng thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp từ thực tiễn ở thành phố Hà Nội. Luận văn đã nêu được những ưu điểm, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn luận văn nêu nên các nguyên tắc đề xuất biện pháp và đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội. 4 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phục lục. Nội dung chính của luận văn được chia làm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp qua thực tiễn thực hiện công tác kiểm tra thuế ở Cục thuế thành phố Hà Nội. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 1.1. Khái quát về kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp Bất cứ một sự quản lý nào, công hay tư, thuộc lĩnh vực nào cũng cần có kiểm tra, đây là một khâu không thể thiếu trong hoạt động quản lý. Quản lý nhà nước, hơn đâu hết lại càng cần có kiểm tra. Chỉ nói riêng sự kiểm tra đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính cũng bao gồm một phạm vi rất rộng: Kiểm tra tính hợp hiến, kiểm tra tính hợp pháp, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới; kiểm tra của các cơ quan xét xử… Hoạt động quản lý nhà nước và trong quá trình thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám sát. Một cơ quan nắm trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà nước mà không được kiểm tra thì dễ phát sinh lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền, vì động cơ mục đích cá nhân, cục bộ bản vị ngành, địa phương. Tùy theo bản chất, đối tượng, chủ thể tổ chức thực hiện, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra. Cơ cấu tổ chức và cơ chế kiểm tra của Nhà nước ta gồm đủ các loại hình kiểm tra nói trên. Giám sát, tiếng Anh là supervision hoặc overseer để chỉ một hoạt động xem xét có tính bao quát của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống khác, tức là giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ thống trực thuộc nhau theo chiều dọc. Trong bộ máy nhà nước ta, giám sát thường thể hiện chức năng của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động của bộ máy nhà nước hoặc của Toà án nhân dân, các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động quản lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, kỷ luật trong quản lý nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”, “…thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội” (Điều 83, 84 của Hiến pháp 1992). Nếu xét tính quyền lực cao nhất của Quốc hội thì ngoài việc lập hiến, lập pháp, bầu Chính phủ, thành lập các cơ 6 quan tối cao của đất nước, chức năng giám sát cũng thể hiện tính hơn trội, tính bao quát từ phía quyền lập pháp đến việc giám sát các hoạt động của các cơ quan do Quốc hội thành lập. Ở nước ta còn một loại hình giám sát nữa là giám sát của các tổ chức xã hội. Với tư cách là một thành tố của hệ thống chính trị, hoạt động giám sát của các tổ chức xã hội là một bộ phận không thể thiếu được nhằm củng cố kỷ luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (Điều 9, 10 Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, hoạt động này không mang tính quyền lực nhà nước, các chủ thể giám sát không có quyền áp dụng trực tiếp các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Kết quả giám sát của các tổ chức xã hội chỉ dừng lại ở mức “kiến nghị, đề nghị”, tức là áp dụng các biện pháp tác động, mang tính xã hội vào hoạt động của đối tượng bị giám sát (sự lên án, phê bình từ phía xã hội), từ đó đối tượng bị giám sát tự chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong quá trình hoạt động của mình. Mở rộng hình thức giám sát của các tổ chức xã hội là sự giám sát của công dân, một nội dung đặc thù chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa, một loại hình dân chủ cao của xã hội phát triển. Kiểm sát là khái niệm được sử dụng trong thực tiễn tổ chức bộ máy và khoa học pháp lý (investigate) để chỉ hoạt động bảo đảm pháp chế của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung), vai trò công tố (bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân). Kiểm sát việc tuân theo pháp luật là nhằm bảo đảm tính hợp pháp của các quyết định quản lý nhà nước từ cấp bộ trở xuống (Điều 137 Hiến pháp 1992 và các Điều 2, 3 và 4 của Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân). Trong quá trình kiểm sát công tác điều tra, Viện Kiểm sát có quyền: “phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra” và “quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra”. Việc kiểm sát chung không tự làm đình chỉ các quyết định quản lý của các cơ quan nhà nước trái pháp luật. Chỉ có trường hợp duy nhất là Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có quyền ra quyết định đình chỉ và buộc phải sửa chữa những hành vi vi phạm pháp luật có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng (khoản 2 Điều 10 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân). Trong hoạt động kiểm sát, Viện Kiểm sát không có quyền áp dụng các biện pháp kỷ luật. Khi cần thiết, Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp kỷ luật, hoặc gửi kiến nghị, ra 7 quyết định khởi tố. Mặt khác, tính chất thường xuyên trong hoạt động kiểm sát cũng bị hạn chế, chỉ “kiểm sát việc chấp hành pháp luật khi phát hiện có vi phạm pháp luật…” (Điều 8 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân) hoặc khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện Kiểm sát “trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc khi các yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân… không được thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu…”. Hoạt động kiểm sát hiện nay là một trong những vấn đề đang được tranh luận sôi nổi tại các diễn đàn khoa học, đặc biệt là vấn đề kiểm sát chung, vai trò công tố của Viện Kiểm sát và pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Tuy nhiên, so với các hoạt động khác như thanh tra, kiểm tra thì phạm vi hoạt động của kiểm sát hẹp hơn. Mặt khác, chức năng công tố (procutator) cũng là vấn đề còn đang bàn, song để giải quyết vấn đề này, nên chăng có một cơ chế phối hợp hoạt động giữa 3 loại quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La-tinh (in-spectare) có nghĩa là “nhìn vào bên trong” chỉ một sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng nhất định: “là sự kiểm soát đối với đối tượng bị thanh tra” trên cơ sở thẩm quyền (quyền hạn và nghĩa vụ) được giao, nhằm đạt được mục đích nhất định. Tính chất của thanh tra mang tính thường xuyên, tính quyền lực, do đó hệ quả của thanh tra thường là “phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”. Thanh tra là hoạt động xem xét, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc theo sự uỷ quyền của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp dưới (mang tính trực thuộc) và là một bộ phận của hoạt động hành pháp. Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [Từ điển pháp luật Anh - Việt. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994, tr.203], để chỉ hoạt động của chủ thể tác động vào đối tượng kiểm tra (có thể trực thuộc hoặc không trực thuộc). Tuy nhiên, khái niệm kiểm tra (control) có thể được hiểu theo 2 nghĩa: Theo nghĩa rộng, để chỉ hoạt động của các tổ chức xã hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra hoạt động bộ máy của nhà nước. Theo nghĩa này, tính quyền lực nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế vì các chủ thể thực hiện kiểm tra không có quyền áp dụng trực tiếp những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Theo nghĩa hẹp hơn, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét, xác định một việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay 8 không phù hợp với trạng thái định trước (kiểm tra mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ quan, kiểm tra phương tiện giao thông…). Theo nghĩa này, chủ thể kiểm tra có thể áp dụng một chế tài pháp lý nhất định như áp dụng các hình thức kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc buộc phải thực hiện một số biện pháp ngăn chặn hành chính. Ở nghĩa này, khái niệm kiểm tra nằm trong khái niệm thanh tra “tổ chức Thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng, của chính quyền trong việc kiểm tra sự chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật, kế hoạch của Nhà nước”[Chỉ thị số 38/CT ngày 20/02/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh tra]. Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng hơn thanh tra rất nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là một chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Công đoàn, Mặt trận, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…), hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp: kiểm tra của Giám đốc đối với các phòng, ban, kiểm tra của Quản đốc đối với người lao động. Trên một bình diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận xét của bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào. Khi con người biết lao động một cách có ý thức thì đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải kiểm tra. Ăng ghen đã nói “mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người đều chứa đựng trong đó những yếu tố của kiểm tra” và “đối với mỗi con người tự nhiên, mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra được xem như là phương thức hành động để thực hiện mục đích”. Như vậy, kiểm tra cũng xuất hiện trước thanh tra và xuất hiện trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu tiên trong lịch sử. Có thể nói, kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài người. Khi Nhà nước tự tiêu vong, thanh tra sẽ mất đi như đã nói ở trên, nhưng kiểm tra thì vẫn còn tồn tại cùng với “chức năng quản lý đơn thuần là chăm lo đến lợi ích của xã hội” như Ăng ghen đã chỉ ra. Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức, một cán bộ, công chức nhất định và thường theo một số hướng sau: Theo dõi để cho hoạt động của tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và sự phân công giữa các đơn vị; Quan sát để đảm bảo rằng nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực hiện, phù hợp với thực tế. Hướng dẫn và điều chỉnh kịp thời để đảm bảo hiệu suất công việc của từng đơn vị; Kiểm tra kết quả cuối cùng, đánh giá hiệu quả thực tế của các hoạt động theo kế hoạch đặt ra. 9 Trong quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra có mục tiêu là tìm kiếm động cơ, nguyên nhân cán bộ làm tốt (hay không làm tốt) nhiệm vụ được giao. Một sự kiểm tra như vậy có thể được thực hiện trong nội bộ của bộ máy quản lý, nhưng cũng có thể ở ngoài hệ thống đó mà người ta có thể gọi là kiểm soát ngoại lai. Ở nước ta, trong các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 cũng xem thanh tra và kiểm tra như là những mặt, phương diện của quản lý nhà nước, có chung mục đích đều là những chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Hiến pháp năm 1980, khi đề cập đến nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ, quy định: “Chính phủ tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê…; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước; chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân” (khoản 15 Điều 107). Thông báo Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) chỉ rõ: “tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để mọi thành phần kinh tế kinh doanh đúng pháp luật”. Như vậy, về cơ bản, thanh tra, kiểm tra và giám sát có nghĩa như nhau, tính chất như nhau, nhưng khác nhau về chủ thể thực hiện và khác nhau về phạm vi - tức đối tượng thanh tra, kiểm tra, giám sát. Tóm lại, kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, do tính chất này mà chúng ta không thể nói là đã có một hệ thống hay cơ chế kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ, tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm tra. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức, giữa hai nhân tố chủ quan và khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc. Hiểu một cách chung nhất, kiểm tra là loại hoạt động mà chủ thể kiểm tra tiến hành xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra để đưa ra những đánh giá, nhận xét, kiến nghị, xử lý. Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên. Do tính chất này mà chúng ta không thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm tra công việc. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức và giữa các đơn vị phối hợp. Cơ sở của kiểm tra là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhân tố chủ quan và khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc. 10 Quản lý nhà nước nói chung, quản lý thuế nói riêng là sự tác động có định hướng của chủ thể quản lý (cơ quan thuế) đến đối tượng quản lý (người nộp thuế NNT) nhằm động viên một phần thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước (NSNN). Kiểm tra thuế chính là một công đoạn và là một yếu tố cấu thành của hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan thuế. Nói cụ thể hơn, kiểm tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nhằm đảm bảo pháp luật thuế được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế - xã hội. Kiểm tra thuế thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế [Luật quản lý thuế năm 2006]. Kiểm tra thuế là một trong bốn chức năng cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý thuế, có vai trò quyết định đến hiệu quả thực thi pháp luật thuế của NNT. Theo pháp luật quản lý của nước ta, kiểm tra thuế là công việc thường xuyên, liên tục, là một yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế được thực hiện tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ kê khai của NNT hoặc kiểm tra tại trụ sở của NNT theo kết quả của phân tích rủi ro. Nội dung kiểm tra thuế là kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ của NNT trong việc kê khai, thực hiện nghĩa vụ thuế. Nói một cách khái quát: Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp là hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của doanh nghiệp - đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá và kiến nghị những giải pháp khắc phục. 1.1.2. Nguyên tắc kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp Trong công tác quản lý thuế, cùng với việc tôn trọng kết quả tự tính, tự khai, tự nộp thuế của NNT, cơ quan thuế còn thực hiện các biện pháp giám sát hiệu quả nhằm khuyến khích sự tự nguyện tuân thủ đồng thời đảm bảo phát hiện, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật thuế, cảnh báo NNT về việc luôn có một hệ thống giám sát kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm của họ. Bên cạnh việc ngăn ngừa vi phạm của NNT, công tác kiểm tra thuế cũng góp phần phát huy các nhân tố tích cực, góp phần hoàn thiện chính sách thuế, tăng cường pháp chế XHCN. Để thực hiện được các mục đích đó, công tác kiểm tra thuế cần tuân thủ các nguyên tắc sau: 11 1.1.2.1. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật Kiểm tra thuế phải tuân thủ các quy định của Luật quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Kiểm tra thuế là hoạt động của cơ quan quản lý chuyên ngành nên vừa có những đặc điểm của công tác kiểm tra nói chung vừa có tính đặc thù của công tác quản lý thuế. Bởi vậy, nguyên tắc áp dụng pháp luật trong kiểm tra thuế là ưu tiên áp dụng các quy định của Luật quản lý thuế đồng thời tuân thủ các quy định khác của pháp luật khi kiểm tra, thanh tra. Trong quá trình kiểm tra phải tuân thủ đúng những quy định pháp luật, bảo đảm tính độc lập, nghiêm túc khi thực hiện những thủ tục cần thiết và trong phạm vi thẩm quyền cho phép. Cơ quan thuế nằm trong tổ chức của bộ máy hành chính nhà nước, do vậy, trong tổ chức và hoạt động của mình, cơ quan thuế cũng chịu sự điều chỉnh của phương pháp mệnh lệnh quyền uy, phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Nguyên tắc tuân theo pháp luật là nguyên tắc chung được thể hiện ở trong tất cả các giai đoạn của hoạt động kiểm tra. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính pháp chế xuyên suốt trong hoạt động kiểm tra. Nguyên tắc tuân theo pháp luật cũng thể hiện trong việc tuân thủ đúng thời hạn ghi trong quyết định kiểm tra; tuân thủ thời hạn báo cáo kết quả kiểm tra; tuân thủ về thời hạn ra kết luận kiểm tra. Khi kết thúc kiểm tra, Đoàn kiểm tra phải thông báo với NNT về việc kết thúc kiểm tra. 1.1.2.2. Nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ Kiểm tra thuế phải đảm bảo chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời. Trong hoạt động kiểm tra phải đảm bảo tôn trọng sự thật, đánh giá đúng sự vật, hiện tượng như nó vốn có, không được tùy tiện, chủ quan, khi kết luận một vấn đề phải có chứng lý, không được suy diễn. Trong quá trình kiểm tra phải tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng, phát huy dân chủ, động viên quần chúng tham gia cung cấp thông tin tài liệu cho cơ quan thuế. Nghiêm cấm việc cán bộ kiểm tra cố ý làm sai lệch nội dung vụ việc, mở rộng nội dung kiểm tra, lợi dụng quyền hạn để sách nhiễu, gây phiền hà cho NNT hoặc bao che cho hành vi vi phạm. Nguyên tắc chính xác: Trong giai đoạn tiến hành kiểm tra, nguyên tắc chính xác được thể hiện rõ nét nhất là trong việc áp dụng các văn bản pháp luật vào việc nhận định, đánh giá thông tin, tài liệu thu thập được. 12 Nguyên tắc này cũng thể hiện ở việc báo cáo, dự thảo kết luận kiểm tra đầy đủ và chính xác các nội dung: tài liệu, chứng cứ, kết quả kiểm tra, chế tài xử lý, căn cứ pháp luật áp dụng để kết luận, kiến nghị. Bảo đảm tính chính xác trong việc đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của NNT; kết luận về nội dung được kiểm tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của NNT có hành vi vi phạm; các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý trong dự thảo kết luận kiểm tra. Nguyên tắc khách quan, trung thực: khách quan, trung thực là vấn đề có tính nguyên tắc cao, nó đảm bảo phản ánh đúng sự thật, không thiên lệch và bóp méo sự thật. Nếu như tính chính xác nhấn mạnh đến khả năng, năng lực chuyên môn của hoạt động kiểm tra thì tính khách quan, trung thực đòi hỏi người làm công tác kiểm tra phải có quan điểm và thái độ đúng đắn. Trước khi kết thúc kiểm tra tại đơn vị, Đoàn kiểm tra cần đánh giá tình hình hết sức công tâm, rõ ràng về những vấn đề đã kiểm tra và những vấn đề chưa làm rõ để xác định thời điểm kết thúc kiểm tra, hay cần tiếp tục gia hạn thời gian kiểm tra, cần tránh việc cố tình kéo dài cuộc kiểm tra vì sự chủ quan, duy ý chí. Các báo cáo kiểm tra phải nêu đầy đủ những tài liệu, những vấn đề, những thông tin mà trong quá trình kiểm tra Đoàn kiểm tra thu thập hay phát hiện; Đoàn kiểm tra cần báo cáo đầy đủ, rành mạch, chi tiết, cụ thể kể cả những suy nghĩ của mình về những vấn đề phát hiện trong quá trình tiến hành kiểm tra với lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Nguyên tắc công khai: khi tiến hành kiểm tra, Đoàn kiểm tra phải thông báo đầy đủ nội dung kiểm tra cho NNT biết; công khai trong việc thu thập hồ sơ, tài liệu (việc cung cấp thông tin, tài liệu được thể hiện bằng văn bản của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp hoặc Đoàn kiểm tra lập biên bản về việc cung cấp thông tin, tài liệu); công khai khi tiếp xúc với đối tượng kiểm tra và những người có liên quan ở nơi có hoạt động kiểm tra. Đoàn kiểm tra thông báo kết thúc việc kiểm tra tại trụ sở NNT; công khai về những đánh giá, kết luận của đoàn sau khi kết thúc kiểm tra NNT có cơ hội giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu, chứng cứ. Việc bảo đảm nguyên tắc này sẽ tạo một môi trường làm việc chuyên nghiệp, có trách nhiệm với một đội ngũ cán bộ có chất lượng và trách nhiệm nghề nghiệp cao 13 hơn. Nhóm nguyên tắc này là cách thức để cán bộ, công chức thuế tự hoàn thiện mình, kết quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm tra được nâng cao. Nguyên tắc dân chủ: Được thể hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên Đoàn kiểm tra với nhau và giữa Đoàn kiểm tra với NNT khi đưa ra kết luận kiểm tra. Đó là việc các thành viên Đoàn kiểm tra thảo luận, đưa ra ý kiến của mình về từng vấn đề cụ thể khi xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra, dự thảo kết luận kiểm tra; ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn kiểm tra với Trưởng đoàn kiểm tra về nội dung báo cáo kết quả kiểm tra. Với đối tượng kiểm tra, họ có quyền đưa ra quan điểm của mình về những đánh giá, kết luận của Đoàn kiểm tra dựa trên những thông tin, tài liệu, chứng cứ, quy định của pháp luật và những ý kiến của đối tượng kiểm tra phải được thảo luận, xem xét một cách khách quan, dân chủ. 1.1.2.3. Nguyên tắc tuân thủ đúng quy trình kiểm tra thuế Kiểm tra thuế phải tuân thủ đúng quy trình của ngành đã quy định, việc tiến hành kiểm tra phải thực hiện theo kế hoạch và đề cương đã được duyệt. Trong quá trình kiểm tra phải đảm bảo không cản trở hoạt động bình thường của NNT. Việc thực hiện nguyên tắc này trong giai đoạn tiến hành kiểm tra được hiểu là: tuân thủ về trình tự, thủ tục; tuân thủ về thời hạn kiểm tra; tuân thủ việc sử dụng đúng quyền của cán bộ kiểm tra trong quá trình kiểm tra … Để không làm cản trở hoạt động bình thường của NNT thì Đoàn kiểm tra phải có kế hoạch rõ ràng, trao đổi cụ thể với NNT về nội dung, thời gian làm việc; kế hoạch làm việc với những người có trách nhiệm phải giải trình với Đoàn thanh tra; có kế hoạch làm việc với những tổ chức, đơn vị có liên quan đến nội dung kiểm tra để tiến hành xác minh thông tin, tài liệu... để NNT chuẩn bị, sắp xếp chương trình làm việc với Đoàn kiểm tra trên nguyên tắc thảo luận bình đẳng để không làm cản trở đến hoạt động bình thường của đối tượng kiểm tra. 1.1.2.4. Nguyên tắc bảo vệ bí mật Kiểm tra thuế phải đảm bảo bí mật các thông tin về NNT vì trong quá trình kiểm tra, bộ phận kiểm tra được NNT cung cấp nhiều hồ sơ tài liệu, có những hồ sơ tài liệu nếu phổ biến ra ngoài sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (DN), gây thiệt hại cho NNT và còn có thể ảnh hưởng đến các lợi ích quốc gia. Ngoài ra, theo quy định tại quy trình kiểm tra thuế, cán bộ thuế còn phải đảm bảo bí mật các thông tin về kết quả kiểm tra thuế trừ các trường hợp công khai thông tin vi phạm pháp 14 luật về thuế của NNT theo quy định tại Điều 73, Điều 74 Luật Quản lý thuế và Điều 72 Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20/6/2012. 1.1.2.5. Nguyên tắc hiệu quả Kiểm tra thuế được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến NNT, đánh giá việc chấp hành pháp luật của NNT, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Việc lựa chọn đối tượng để kiểm tra dựa trên căn cứ khách quan là phân tích nguồn cơ sở dữ liệu thông tin liên quan đến NNT, đánh giá thông tin theo phương pháp đánh giá rủi ro, xác định, lựa chọn đúng đối tượng có mức độ rủi ro cao nhất để tiến hành kiểm tra. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thông tin về NNT, cơ quan quản lý thuế sẽ xác định tiến hành về hình thức, quy mô và phạm vi kiểm tra. Điểm cần lưu tâm trong công tác kiểm tra là kiểm tra không dàn trải mà chủ yếu tập trung vào những đối tượng có vấn đề về rủi ro. Đối tượng cần kiểm tra chủ yếu được xác định qua việc phân tích thông tin về NNT và các thông tin có liên quan khác. Từ phân tích thông tin về NNT, cơ quan quản lý thuế sẽ điều chỉnh cơ cấu cuộc kiểm tra như: tăng thời gian phân tích, kiểm tra hồ sơ tại cơ quan thuế, giảm thời gian trực tiếp kiểm tra tại trụ sở NNT; tránh phiền hà cho doanh nghiệp nhưng tăng tỉ lệ số đối tượng vi phạm được phát hiện. Thực hiện nguyên tắc này mới đảm bảo cho kiểm tra thuế đạt được mục đích của nó. Nguyên tắc này đòi hỏi kiểm tra thuế phải đảm bảo tính hiểu quả, nghĩa là phải có tác dụng đề phòng, ngăn ngừa những thiếu sót, vi phạm; phải đảm bảo giúp các đối tượng kiểm tra thực hiện đúng chính sách thuế. Mặt khác nguyên tắc hiệu quả trong kiểm tra thuế còn phải thể hiện ở chỗ chi phí phục vụ cho công tác kiểm tra thuế nhỏ nhất trên một đơn vị số thu do kết quả kiểm tra mang lại. 1.1.2.6. Nguyên tắc trách nghiệm tập thể Kiểm tra thuế là một dạng hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, nói đến công tác kiểm tra thuế nói đến trách nhiệm của cán bộ kiểm tra thuế trong việc hỗ trợ NNT thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật thuế. Trong quá trình kiểm tra, người kiểm tra tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Tính hiệu lực, hiệu quả trong kiểm tra thuế đều dựa trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm, với tinh thần tận tụy, mẫn cán và làm tròn bổn phận của người kiểm tra. Theo đó, trong quá trình thực hiện kiểm tra thuế các thành viên và từng thành viên đoàn kiểm tra vừa phải chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan