Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính được ...

Tài liệu Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính được thực hiện bởi công ty kiểm toán và kế toán hà nội

.PDF
90
155
60

Mô tả:

Luận văn tốt nghiệp Lời nói đầu Kiểm toán báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả kiểm toán của các chu trình nghiệp vụ kinh tế riêng biệt. Trên cơ sở đó để đưa ra những kết luận về báo cáo tài chính được trình bày trung thực và hợp lý, không mắc sai sót nghiêm trọng trên các khía cạnh trọng yếu. Việc thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính là cơ sở để đưa ra ý kiến khách quan trung thực về báo cáo tài chính, cung cấp cho các nhà đầu tư, các nhà cung cấp, khách hàng cũng như người quan tâm, cơ quan chủ quản của Nhà nước những thông tin đáng tin cậy. Qua đó góp phần nâng cao uy tín, chất lượng dịch vụ do công ty kiểm toán cung cấp và tăng khả năng cạnh tranh với công ty kiểm toán khác. Chu trình bán hàng và thu tiền có vai trò quan trọng trong một chu kỳ kinh doanh, có quan hệ mật thiết với các chu trình nghiệp vụ cơ bản khác và cũng là giai đoạn cuối cùng để đánh giá toàn bộ kết quả của một chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, theo như nhận định của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì kết quả của chu trình bán hàng và thu tiền thể hiện hàng loạt các khoản mục quan trọng có tính chất trọng yếu trên báo cáo tài chính và bản chất của chu trình thể hiện mối quan hệ phức tạp của nhiều bên. Cho nên kết quả của chu trình bán hàng thu tiền là đối tượng chủ yếu được người sử dụng báo cáo tài chính quan tâm. Như vậy, thực hiện tốt việc kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính cho phép công ty kiểm toán tiết kiệm được thời gian, chi phí và nâng cao được hiệu quả kiểm toán. Qua đây giúp cho doanh nghiệp thấy được những sai sót, yếu kém trong công tác kế toán và công tác quản lý để giúp doanh nghiệp có thể hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua chu trình góp phần bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, xác định đúng trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng như vậy, trong thời gian học tập tại trường Đại học Kinh tế Quốc Dân và thời gian thực tập tại Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội em đã chọn đề tài :" Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính được thực hiện bởi Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội " Thông qua việc nghiên cứu đề tài em muốn hiểu được rõ hơn về bản chất cũng như về việc thực hiện công việc kiểm toán trên cả góc độ lý thuyết và thực tiễn dựa trên cơ sở kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập và thực tập. Nội dung của luận văn ngoài phần lời nói đầu và kết luận còn có các vấn đề chính như sau : Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 1 Luận văn tốt nghiệp Phần I : Cơ sở lý luận của kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong Kiểm toán báo cáo tài chính Phần II : Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội Phần III : Kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền Trong quá trình nghiên cứu, do có những hạn chế chủ quan và khách quan nhất định luận văn của em không tránh được khỏi những sai sót. Chính vì vậy em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các Thầy, cô giáo và các cô, chú, anh chị tại CPA - Hà Nội để em có thể hoàn thiện tốt hơn. Em xin gửi lời cảm ơn chân trọng sâu sắc nhất tới Thầy giáo - Thạc sĩ Tô Văn Nhật, Ban lãnh đạo Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội và các thầy, cô giáo trong khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Các anh, chị những người đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này. Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 2 Luận văn tốt nghiệp PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH I.1 CHU TRÌNH BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP I.1.1 Đặc điểm của chu trình bán hàng và thu tiền Trong các doanh nghiệp sản xuất, để tồn tại và duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải nối tiếp liên tục và lặp đi lặp lại tạo thành những chu kỳ sản xuất. Thực tế chu kỳ sản xuất bao gồm các chuỗi nghiệp vụ có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành chu kỳ nghiệp vụ cơ bản. Chu kỳ kinh doanh tại một doanh nghiệp thường bắt đầu từ khi doanh nghiệp tạo vốn có thể bằng vốn tự có hoặc nguồn vốn đi vay mượn ( chu trình tài chính ) để thực hiện việc xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị vật tư, nguyên liệu để phục vụ sản xuất ( chu trình mua vào và thanh toán ). Trong quá trình thực hiện công việc của sản xuất kinh doanh của mình doanh nghiệp phải thuê mướn, tuyển chọn nhân viên do đó phải tính và thanh toán tiền lương cho nhân viên trong doanh nghiệp ( chu trình tiền lương và nhân viên ). Các yếu tố đầu vào được kết hợp với nhau để sản xuất ra sản phẩm nhập kho ( chu trình hàng tồn kho). Sau khi sản phẩm nhập kho thì công đoạn cuối cùng của chu kỳ kinh doanh là việc tiêu thụ sản phẩm, đồng thời là quá trình thu tiền từ hoạt động bán hàng để thu hồi lại vốn kinh doanh. Chu trình bán hàng thu tiền chấm dứt một chu kỳ kinh doanh để bắt đầu chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Như vậy quá trình kinh doanh bao gồm các chu kỳ diễn ra liên tục, đều đặn và mỗi chu kỳ đều là mắt xích quan trọng không thể thiếu được. Các chu kỳ kinh doanh nối tiếp nhau, chu kỳ sau là kết quả của chu kỳ trước. Trong đó kết quả của chu trình bán hàng và thu tiền không chỉ phản ánh riêng kết quả của chu trình mà còn phản ánh toàn bộ kết quả của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Chu trình bán hàng và thu tiền là quá trình thực hiện công việc tiếp theo của giai đoạn sản xuất trước đó. Doanh nghiệp sẽ thực hiện chuyển giao hàng hoá, sản phẩm cho khách hàng và được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá có thể bắt đầu từ phía nhu cầu của khách hàng hoặc từ phía doanh nghiệp. Có rất nhiều hình thức tiêu thụ sản phẩm khác nhau. Nhưng tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà doanh nghiệp có thể áp dụng các hình thức cho phù hợp. Sau đây là những những phương thức tiêu thụ chủ yếu : + Phương thức tiêu thụ trực tiếp : Đây là phương thức mà doanh nghiệp giao hàng trực tiếp cho người mua có thể mua tại kho hoặc tại phân xươngr sản xuất của mình và thực hiện bàn giao quyền sở hữu. Khi đó hàng hoá sản phẩm coi như được tiêu thụ. + Phương thức tiêu thụ theo hợp đồng : Đây là phương thức tiêu thụ mà hàng hoá được chuyển đến đại lý để tiêu thụ. Số hàng này vẫn thuộc sở Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 3 Luận văn tốt nghiệp hữu của doanh nghiệp còn đại lý chỉ là nơi tiêu thụ hàng cho doanh nghiệp và được hưởng hoa hồng như đã thoả thuận. + Các phương thức tiêu thụ khác : Ngoài những phương thức tiêu thụ chủ yếu ở trên thì trong một số doanh nghiệp còn áp dụng một số phương thức tiêu thụ khác nhau : dùng hàng đổi lấy hàng, dùng hàng hoá để trả lương cho nhân viên trong doanh nghiệp ( tiêu thụ nội bộ ). Cùng với việc tiêu thụ hàng hoá là các hình thức thanh toán của khách hàng. Khi khách hàng thanh toán đủ tiền hàng thì nghiệp vụ tiêu thụ coi như kết thúc. Trong khi thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ thì có các loại chứng từ và sổ sách sau hay được sử dụng. + Đơn đặt hàng của khách hàng : Đây là chứng từ thể hiện yêu cầu về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng, đơn đặt hàng của khách hàng có thể bằng thư, mẫu in sẵn hay thông qua điện thoại, fax.... + Các chứng từ vận chuyển hàng hoá : Đây là chứng từ được lập vào lúc giao hàng cho khách hàng và ghi rõ mẫu mã của hàng hoá số lượng hàng và các số liệu khác có liên quan. + Hoá đơn bán hàng, hoá đơn kiêm phiếu xuất kho : Đây là chứng từ doanh nghiệp sử dụng để xác định số lượng, chất lượng, đơn giá. + Mẫu phê chuẩn các khoản thu được : Đây là chứng từ sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp để cho phép xoá sổ các khoản nợ không thu hồi được. Bên cạnh những chứng từ được sử dụng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá thì còn các loại sổ sách sau đây được sử dụng. + Sổ nhật ký bán hàng : Sổ này dùng để ghi chép tất cả các lần bán hàng, sổ thường ghi rõ doanh thu gộp của nhiều mặt hàng khác nhau, các khoản phải thu và khoản thu được bằng tiền. Sổ được ghi thu hằng ngày và được tổng hợp từng tháng. + Sổ nhật ký doanh thu bán hàng bị trả lại , các khoản chiết khấu và giảm giá hàng bán, sổ này để theo dõi các khoản chiết khấu, giảm giá hàng bán và các khoản doanh thu của hàng hoá bị trả lại về tính đúng đắn và hợp lý của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. + Sổ chi tiết các khoản phải thu : là loại sổ dùng để theo dõi từng khách hàng và phản ánh nợ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình mua bán mà khách hàng nợ tiền và các khoản tiền khách hàng thực hiện thanh toán. + Sổ tổng hợp chi tiết : Sổ tổng hợp các khoản nợ đầu kỳ, các khoản nợ phát sinh trong kỳ và các khoản thanh toán của khách hàng trong kỳ. + Báo cáo kế toán : Nhằm cung cấp những thông tin về tình hình tài chính về kết quả kinh doanh trong niên độ của doanh nghiệp Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 4 Luận văn tốt nghiệp Trên đây là toàn bộ chứng từ, sổ sách được sử dụng trong chu trình bán hàng và thu tiền: I.1.2 Nguyên tắc hạch toán Để thực hiện tốt chu trình bán hàng và thu tiền trong doanh nghiệp có các bộ phận chức năng khác nhau thực hiện các công việc khác nhau. Quá trình được bắt đầu từ việc phát sinh nhu cầu mua hàng từ phía khách hàng đến các khâu tiếp theo như việc phê chuẩn các phương thức bán hàng, cách thức thanh toán và việc thực hiện tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm. Thông thường chu trình bán hàng và thu tiền thực hiện 6 chức năng cơ bản sau : 1.Xử lý đơn đặt hàng của khách hàng : khi nhận được đơn đặt hàng của khách hàng gửi đến doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải thực xem xét có nhất trí việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng không. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào nhu cầu hàng hoá của khách hàng và khả năng cung cấp của doanh nghiệp và các yếu tố khác như giá cả, phương thức thanh toán. 2. Phê chuẩn phương thức bán chịu : Đối với phương thức bán chịu hàng cho khách hàng, hàng sẽ được chuyển đi sau khi có được sự phê chuẩn của người có thẩm quyền trong doanh nghiệp. Việc phê chuẩn phương thức bán chịu được thực hiện tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt các khoản nợ phải thu. 3. Vận chuyển thành phẩm, hàng hoá : khi hàng hoá được chuyển đi thì chứng từ vận chuyển sẽ được lập, đấy là điều cần thiết cho việc tính tiền đúng số hàng gửi đi 4. Gửi hàng cho khách hàng và thực hiện ghi sổ doanh thu : khi đã có được sự phê chuẩn cho việc bán hàng cho khách hàng thì phòng kinh doanh sẽ thực hiện lập hoá đơn bán hàng. Trên hoá đơn phải chứa đựng đầy đủ những thông tin như : số lượng, chất lượng và đơn giá hàng bán, phương thức giao hàng hình thức và phương tiện thanh toán.Ngoài ra trong hoá đơn cũng phải ghi rõ những chính sách áp dụng đối với khách hàng. Hoá đơn sẽ làm căn cứ quan trọng cho kế toán ghi sổ doanh thu và các sổ khác có liên quan tại đơn vị bán hàng. Cũng như vậy hóa đơn là căn cứ cho chứng từ đi đường và ghi sổ kế toán tại đơn vị mua hàng. Khi thực hiện gửi hoá đơn bán hàng đi một vấn đề quan trọng là tất cả các hóa đơn được gửi đi đều phải tính tiền đúng và không có chuyến hàng nào bị tính tiền hai lần. 5. Xử lý và ghi sổ các tài khoản chiết khấu, giảm giá hàng bán và doanh thu hàng bán bị trả lại: Tất cả các khoản chiết khấu, giảm giá hàng bán và doanh thu hàng bán bị trả lại phải được phê chuẩn đúng đắn bởi những người có trách nhiệm và các khoản này phải được ghi sổ kế toán một cách chính xác và nhanh chóng. Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 5 Luận văn tốt nghiệp 6. Dự phòng nợ khó đòi và xoá sổ các khoản phải thu không thu hồi được: Trước khi khoá sổ các tài khoản và chuẩn bị lập báo cáo tài chính phải tiến hành đánh giá phí tổn cho các khoản phải thu có khả năng không thu hồi được qua đó tiến hành lập dự phòng cho các khoản đó. Còn những khoản thu đã không thu hồi được thì phải tiến hành xoá sổ kế toán cho các khoản này. Trong các chức năng trên của chu trình bán hàng và thu tiền thì bốn chức năng đầu cần thiết cho việc đưa hàng đến tay người tiêu dùng, tính tiền chính xác và phản ánh các thông tin kế toán vào sổ sách kế toán. Trong chu trình bán hàng và thu tiền thì các chứng từ, hoá đơn được luân chuyển qua các phòng chức năng khác nhau và được thể hiện qua sơ đồ sau :( Sơ đồ 1) Sơ đồ 1 : Quy trình luân chuyển chứng từ trong chu trình bán hàng và thu tiền Khách hàng Phòng thị trường Nhu cầu mua hàng Đơn đặt hàng của khách phiếu tiêu thụ Thủ kho Phòng thị trường Giám đốc - Phê chuẩn phương thức bán chịu - Phê chuẩn phương thức tiêu thụ Phòng thị trường - Lập hoá đơn bán hàng - Lập phiếu xuất kho Phòng kế toán Lưu trữ và bảo quản chứng từ Xuất kho Vận chuyển hàng Lập chứng từ vận chuyển Ghi các loại sổ Lập báo cáo Tất cả những thông tin kế toán sẽ được phản ánh trên hệ thống tài khoản mà doanh nghiệp sử dụng để hạch toán. Các tài khoản của chu trình bán hàng và thu tiền được phản ánh trên sơ đồ 2 : Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 6 Luận văn tốt nghiệp Sơ đồ 2 : Quy trình hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ TK 111, 112 TK 811, 531,532 (1) TK 511, 512 TK 111, 112 (3) (2) TK 3387 (4) (5) TK 131, 136 TK 004 TK 642 - Xoá sổ nợ - Nợ khó đòi đã khó đòi xoá sổ nay đòi được (6) TK 721 (7) TK 139 (8) (9) 1. Chiết khấu, giảm giá, hàng bán trả lại 2. Kết chuyển khoản giảm trừ doanh thu 3. Doanh thu bằng tiền 4. Doanh thu kỳ này 5. Doanh thu nhận trước 6. Doanh thu chưa thu tiền 7. Xử lý xoá nợ phải thu khó đòi 8. Hoà nhập dự phòng phải thu khó đòi 9. Lập dự phòng phải thu khó đòi Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 7 Luận văn tốt nghiệp Các tài khoản được sử dụng trong qúa trình hạch toán chu trình bán hàng. TK 531, 532 : Giảm giá hàng bán và hàng bị trả lại TK 511 : Doanh thu bán hàng TK 3387 : Doanh thu nhận trước TK 131 ) 136 ) : Các khoản phải thu TK642 : Các chi phí quản lý doanh nghiệp TK 139 : Dự phòng phải thu khó đòi TK 721 : Thu nhập hoạt động bất thường TK 811 : Chi phí tài chính I.1.3 Hệ thống kiểm soát nội bộ với chu trình bán hàng và thu tiền Trong mỗi doanh nghiệp hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ là khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm và quy mô của doanh nghiệp đó. Với mục đích chung của các doanh nghiệp khi tổ chức, xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ là nhằm để phục vụ cho công tác kiểm toán, kiểm soát và qua đó có thể cung cấp những nguồn thông tin nhanh chóng và đáng tin cậy giúp cho các nhà quản lý có thể chỉ đạo tốt hoạt động của đơn vị mình đem lại những thành công trong công việc. Hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ những chính sách, các thủ tục kiểm soát do đơn vị lập ra và duy trì nhằm điều hành các hoạt động của đơn vị để thoả mãn các mục tiêu sau : - Chỉ đạo hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. - Đảm bảo mọi hoạt động của đơn vị đều được thực hiện đúng như kế hoạch. - Phát hiện kịp thời những khó khăn và sai sót có thể xử lý. - Ngăn chặn và phát hiện kịp thời những gian lận, sai sót trong đơn vị. - Thực hiện được mục tiêu bảo vệ tài sản và thông tin của tổ chức - Thực hiện các công việc kế toán và đưa ra các báo cáo hoạt động. Hệ thống kiểm soát nội bộ có vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động của công ty. Cũng như vậy đối với với chu trình bán hàng và thu tiền, hệ thống kiểm soát nội bộ giúp cho việc điều hành giám sát và hoàn thiện các hoạt động của chu trình. Hệ thống kiểm soát nội bộ gồm 3 yếu tố cấu thành chính. Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 8 Luận văn tốt nghiệp + Môi trường kiểm soát. + Hệ thống kế toán. + Các thủ tục kiểm soát. Chính vì vậy việc xây dựng và điều hành tốt hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ giúp cho các nhà lãnh đaọ thành công trong việc điều hành các hoạt động đơn vị mình. I.2 KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH " Kiểm toán là quá trình mà theo đó một vài cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu nhập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng và các chuẩn mực đã được xây dựng" ( Kiểm toán Alvin trang 9 NXB Thống Kê ) Trong mỗi tổ chức, báo cáo tài chính hàng năm là đối tượng quan tâm của rất nhiều người : các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, khách hàng, nhà cung cấp, ngân hàng, các cơ quan chủ quản của Nhà nước cũng như người tiêu dùng và nhân viên trong doanh nghiệp. Do đó có được những thông tin chính xác và đáng tin cậy là điều rất quan trọng và cần thiết. Để làm được điều đó cần phải có một bên thứ ba độc lập với khách hàng có kỹ năng nghề nghiệp và có địa vị, trách nhiệm pháp lý để kiểm tra và đưa ra kết luận về các báo cáo tài chính của doanh nghiệp xem có được lập đúng hay không. Những công việc này sẽ do kiểm toán viên thuộc các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện trong việc xác định xem các báo cáo tài chính có phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận hay không? Các báo cáo tài chính thường được kiểm toán là báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo về tình hình tài chính. (Kiểm toán, Alvin NXB Thống Kê trang 13) Trong khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính kiểm toán viên có thể thực hiện kiểm toán theo các cách khác nhau. Thông thường kiểm toán viên có thể thực hiện theo hai cách sau đây. Cách 1 : Kiểm toán theo cách phân đoạn số dư của các tài khoản Theo cách này báo cáo kiểm toán được phát hành sau khi kiểm toán viên xác định từng khoản mục rồi thực hiện tổng hợp lại. Đây là cách làm để thực hiện nhưng hiệu quả lại không cao, thường có sự khác biệt giữa các tài khoản có liên quan chặt chẽ với nhau như : tài khoản giá vốn hàng bán với tài khoản hàng tồn kho hay tài khoản hàng tồn kho với tài khoản phải trả nhà cung cấp, tài khoản phải thu khách hàng với tài khoản doanh thu... Do đó hạn chế tầm nhìn tổng quát của kiểm toán viên về tình hình tài chính Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 9 Luận văn tốt nghiệp của doanh nghiệp. Đồng thời nếu như không có sự phân công và trình độ chuyên môn tốt sẽ có sự trùng lặp trong việc thực hiện các khoản mục đó gây lãng phí thời gian kiểm toán. Ví dụ : Khi thực hiện kiểm toán tài sản doanh thu thì kiểm toán viên phải xem xét và xác minh tài khoản tiền hay khoản phải thu. Nhưng trong khi đó kiểm toán viên khác thực hiện kiểm toán khoản mục phải thu khách hàng cũng laị xem xét và kiểm tra lại do đó sẽ có sự trùng lặp trong khi thực hiện cuộc kiểm toán. Trong khi thực hiện kiểm toán theo cách phân đoạn số dư của các tài khoản thường mắc phải những nhược điểm này vì vậy thực hiện kiểm toán theo chu trình đã khắc phục được nhược điểm đó. Cách 2 : Kiểm toán theo chu trình nghiệp vụ Cuộc kiểm toán theo chu trình nghiệp vụ dựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại nghiệp vụ và số dư tài khoản. Thông thường cuộc kiểm toán báo cáo tài chính được chia thành 5 chu trình lớn là kiểm toán chu trình mua vào và thanh toán, kiểm toán chu trình tiền lương nhân sự, kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền. Trong 5 chu trình kiểm toán của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính thì chu trình bán hàng thu tiền là chu trình có mật độ phát sinh nghiệp vụ dày đặc và phức tạp. Do đó khi khảo sát nghiệp vụ về doanh thu hàng bán bị trả lại triết khấu, giảm giá ,và số dư các tài khoản phải thu thì kiểm toán viên cần đi sâu vào khảo sát chi tiết số dư tài khoản và kiểm toán viên phải xác định được các khoản điển hình của chu trình qua đó để thu thập đủ bằng chứng xác đáng về các khía cạnh để làm cơ sở kết luận cho phần hành và cho báo cáo tài chính ( Mối quan hệ giữa các chu trình được trình bày ở sơ đồ 3 ) Sơ đồ 3 : Mối quan hệ của 5 chu trình trong kiểm toán báo cáo tài chính Kiểm toán chu trình huy động và hoàn trả vốn Kiểm toán chu trình tiền lương và nhân sự Kiểm toán chu trình mua vào và thanh toán Kiểm toán chu trình hàng tồn kho Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền I.3 NỘI DUNG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 10 Luận văn tốt nghiệp I.3.1 Mục tiêu kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền Trong việc thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền của kiểm toán báo cáo tài chính đều phải xác định rõ phạm vi công việc và mục tiêu của cuộc kiểm toán. Với chu trình bán hàng và thu tiền xác định rõ mục tiêu và phạm vi công việc để làm cơ sở cho việc thu nhập bằng chứng kiểm toán để chứng minh cho ý kiến của mình trong báo cáo kiểm toán. Theo chuẩn mực kiểm toán số 200 (Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán BCTC ) hay chuẩn mực kiểm toán 1 ( SAS - AU 10 ) thì " Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận về các báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành ( hoặc được chấp nhận ), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không?. Các mục tiêu kiểm toán đặt ra có liên hệ chặt chẽ đến xác nhận của doanh nghiệp về các thông tin tài chính định trình bày trên báo cáo tài chính. Thông thường mục tiêu của một cuộc kiểm toán được triển khai qua các bước sau ( trên sơ đồ 4 ) ( Nguồn được lấy ở chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 trang 16) (hoặc Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 1 ): Sơ đồ 4 : Các bước triển khai mục tiêu của cuộc kiểm toán Các báo cáo tài chính Các bộ phận cấu thành của báo cáo tài chính ( Chu trình bán hàng và thu tiền ) Xác nhận của ban quản trị về các bộ phận cấu thành ( Chu trình bán hàng và thu tiền ) Các mục tiêu kiểm toán chung đối với bộ phận cấu thành ( Chu trình bán hàng và thu tiền ) Các mục tiêu kiểm toán đặc thù đối với bộ phận cấu thành ( Chu trình bán hàng và thu tiền ) ( Kiểm toán Alvin trang 107 NXB Thống kê) Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 11 Luận văn tốt nghiệp Các mục tiêu của kiểm toán độc lập có mối quan hệ với những xác nhận của ban quản trị. Do đó để thực hiện tốt cuộc kiểm toán cần phải hiểu được những xác nhận đó. Theo như văn bản chuẩn mực kiểm toán số 31 ( AU. 326 ) phân loại xác nhận thành 5 loại chung. Năm loại xác nhận của chu trình bán hàng và thu tiền bao gồm. + Xác nhận về sự hiện hữu : Doanh thu trên báo cáo thu nhập phản ánh quá trình trao đổi về hàng hoá và dịch vụ thực tế đã xảy ra, các khoản phải thu trong bảng cân đối là có thực vào ngày lập bảng cân đối kế toán. + Xác nhận tính đầy đủ : Tất cả doanh thu về dịch vụ, hàng hoá các khoản phải thu và đã thu đều đã được ghi sổ và được đưa vào báo cáo tài chính. + Xác nhận về quyền sở hữu : hàng hoá và các khoản phải thu của doanh nghiệp tại ngày lập bảng cân đối tài sản đều thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. + Xác nhận về sự đánh giá và phân loại : các khoản doanh thu, phải thu được phân loại đúng bản chất và được tính đúng đắn. + Xác nhận về sự trình bày : Doanh thu và các khoản phải thu được trình bày trung thực và đúng đắn trên bảng cân đối tài sản hay trên báo cáo tài chính theo đúng hệ thống kế toán của ban quản trị của doanh nghiệp và các quy định kế toán hiện hành. Bên cạnh những xác nhận của ban quản trị của doanh nghiệp thì các mục tiêu chung và mục tiêu đặc thù của kiểm toán cần phải được xem xét. Mục tiêu chung gồm 2 loại : -Mục tiêu về tính hợp lý chung -Mục tiêu về tính hợp lý chung khác Sau khi kiểm toán viên đã hoàn thành việc xác định các mục tiêu kiểm toán đặc thù cho chu trình bán hàng và thu tiền, yếu tố cấu thành của báo cáo tài chính thì kiểm toán viên bắt đầu việc thu thập bằng chứng. Việc thu thập bằng chứng kiểm toán của kiểm toán viên tuân theo quy trình kiểm toán. Quy trình kiểm toán là một hệ thống phương pháp rõ ràng của tổ chức một cuộc kiểm toán nhằm giúp cho kiểm toán viên tập hợp đầy đủ chứng cứ cần thiết. Một quy trình kiểm toán gồm có 4 giai đoạn : các giai đoạn của quy trình kiểm toán đựơctrình bày trên ( sơ đồ 5) Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 12 Luận văn tốt nghiệp Sơ đồ 5 : Bốn giai đoạn của kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng Giai đoạn 1 Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán của chu trình bán hàng và thu tiền Giai đoạn 2 Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán của chu trình bán hàng và thu tiền Giai đoạn 3 Khảo sát các quá trình kiểm soát khảo sát nghiệp vụ chu trình bán hàng và thu tiền Giai đoạn 4 Hoàn tất công tác kiểm toán và công bố báo cáo tài chính (Tài liệu trích Kiểm toán Alvin, trang 123 NXB Thốngkê) Chu trình bán hàng và thu tiền là một bộ phận cấu thành của báo cáo tài chính. Do đó khi tiến hành kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền phải tuân thủ theo quy trình kiểm toán chung cuả một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính để đảm bảo tính thống nhất. I.3.2 Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền Với mọi cuộc kiểm toán khác nhau thì kiểm toán viên có nhiều cách khác nhau để thu thập bằng chứng kiểm toán nhằm thoả mãn các mục tiêu kiểm toán. Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán là bước đầu tiên trong quy trình kiểm toán ( bước chuẩn bị kiểm toán ) thông qua việc chuẩn bị kiểm toán, kiểm toán viên có thể thu thập được những bằng chứng thích hợp và đầy đủ với mức chi phí hợp lý để đưa ra các kết luận kiểm toán chính xác trên các khía cạnh trọng yếu. Thực hiện tốt được công việc trên sẽ giúp cho công ty kiểm toán luôn giữ được những khách hàng cũ và có thể tạo ra nhiều khách hàng mới. Qua đó nâng cao được uy tín và chất lượng công việc, thực hiện góp phần tăng sức cạnh tranh của công ty với các công Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 13 Luận văn tốt nghiệp ty kiểm toán khác. Mặt khác việc lập kế hoạch cũng giúp cho kiểm toán viên có thể phối hợp với nhau nhằm xác định được trọng tâm công việc để đảm bảo hoàn thành đúng kế hoạch và chất lượng. Giai đoạn lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán thường gồm các bước sau đây và các bước này cũng được áp dụng vào trong kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền một cách cụ thể với các khách hàng mà công ty cung cấp dịch vụ. Sơ đồ 6: Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán chu trình bán hàng -thu tiền Thu thập thông tin cơ sở đối với chu trình bán hàngthu tiền Thu thập thông tin về nghĩa vụ, pháp lý của khách hàng ( chu trình bán hàng thu tiền) Đánh giá tính trọng yếu, rủi ro kiểm toán, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kinh doanh ( chu trình bán hàng thu tiền ) Tìm hiểu cơ cấu kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát ( chu trình bán hàng và thu tiền ) Triển khai kế hoạch kiểm toán toàn bộ và chương trình kiểm toán ( Kiểm toán, trang và 148 NXB ( chu trìnhAlvin bán hàng thu tiền)Thống kê ) I.3.2.1 Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán nói chung và kế hoạch kiểm toán chu trình bán hàngthu tiền nói riêng - Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền là một phần hành cụ thể của kiểm toán tài chính. Vì vậy,nhiệm vụ chung của kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền là triển khai các chức năng kiểm toán thông qua việc vận dụng các phương pháp kiểm toán thích ứng với đặc thù phần hành này Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 14 Luận văn tốt nghiệp thông qua các bước trong quy trình kiểm toán : Để có kế hoạch kiểm toán cụ thể cho một khách hàng nói chung và kế hoạch kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng kiểm toán viên thường trực thực hiện các bước như sau : - Khách hàng của một cuộc kiểm toán bán hàng và thu tiền trong kiểm toán BCTC Trước khi kiểm toán viên đưa ra một kế hoạch kiểm toán cụ thể đòi hỏi phải xác định được khách hàng của một cuộc kiểm toán. Thông thường có hai loại khách hàng : + Khách hàng cũ : với những khách hàng thường xuyên mà công ty kiểm toán đã ký kết từ những năm trước kiểm toán viên cần xác định xem có tiếp tục tiến hành cung cấp dịch vụ kiểm toán hay không. Điều này xuất phát từ nhu cầu của khách hàng và khả năng cung cấp dịch vụ của công ty kiểm toán. + Khách hàng mới : trước khi chấp nhận một khách hàng mới, hầu hết các công ty kiểm toán đều phải điều tra, xem xét công ty khách hàng để xác định khả năng chấp nhận khách hàng đó. Nếu có thể công ty kiểm toán sẽ phải đánh giá vị trí tương lai của khách hàng trong giới kinh doanh, trạng thái ổn định về mặt tài chính và các quan hệ của công ty đối với các công ty kiểm toán trước kia. Khi khách hàng tương lai chưa được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán nào khác thì cần phải có một cuộc điều tra khác. Qua tất cả các yếu tố trên nếu công ty kiểm toán chấp nhận kiểm toán thì công ty kiểm toán sẽ lập thư hẹn kiểm toán, còn nếu như không chấp nhận thì từ chối thư mời kiểm tra của khách hàng. - Xác định mục tiêu và phạm vi của cuộc kiểm toán nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng. Mục tiêu của cuộc kiểm toán : - Như chúng ta đã biết có rất nhiều mục tiêu khác nhau khi tiến hành cuộc kiểm toán. Nhưng thông thường cuộc kiểm toán được tiến hành vì các mục tiêu sau : + Kiểm toán để vay vốn ngân hàng + Kiểm toán vì mục đích thuế + Kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.... Phạm vi: Cuộc kiểm toán sẽ thực hiện kiểm toán bảng can đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh trong niên độ kế toán mà báo cáo đã phản ánh. - Bố trí kiểm toán viên. Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 15 Luận văn tốt nghiệp Để thực hiện tốt và có hiệu quả cuộc kiểm toán báo cáo tài chính thì lãnh đạo công ty kiểm toán cần bố trí đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ tuỳ thuộc vào nhu cầu của cuộc kiểm toán, hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của cuộc kiểm toán đó. Hợp đồng kiểm toán. Sau khi đã thực hiện xong các bước công việc trên thì công ty kiểm toán sẽ đưa rathư chấp nhận lời mời kiểm toán của khách hàng và tiến hành lập hợp đồng kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán là tài liệu trong đó nêu rõ trách nhiệm của cong ty kiểm toán, trách nhiệm của cong ty khách hàng, thời gian tiến hành cuộc kiểm toán, giá phí kiểm toán hay phạm vi của cuộc kiểm toán. Trong khi đó mục tiêu của kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền ngoài các mục tiêu chung của một cuộc kiểm toán nó có các mục tiêu đặc trưng sau đây : Bảng số 1 : Mục tiêu đặc thù của kiểm toán nghiệp vụ bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính Mục tiêu kiểm toán nghiệp vụ thu tiền Mục tiêu kiểm toán chung Mục tiêu kiểm toán nghiệp vụ bán hàng Các khoản thu tiền đều bảo đảm hợp lý chung I. Mục tiêu hợp lý chung Các nghiệp vụ bán hàng đều có căn cứ hợp lý Các mục tiêu chung - Các khoản phải thu ở khách hàng là có thật Hiệu lực Hàng bán vận chuyển đến khách hàng là có thật - Mọi khoản thu ở khách hàng đều được ghi sổ Trọn vẹn - Mọi nghiệp vụ bán hàng đều được ghi rõ - Các khoản phải thu có người sở hữu Quyền và nghĩa vụ - Hàng hoá đã bán thuộc sở hữu của đơn vị - Các khoản phải thu được đánh giá đúng Định giá - Các nghiệp vụ bán hàng được phân loại thích hợp - Các khoản phải thu được tính toán đúng Chính xác cơ học Các nghiệp vụ ghi sổ tổng hợp, chi tiết thích hợp và khớp đúng các sổ cộng II. Các mục tiêu kiểm toán - Những thay đổi về thể thức thời gian, thủ tục thanh toán tiền hàng đều được cho phép đúng đắn Cho phép Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B Các nghiệp vụ bán hàng kể cả bán chịu, vận chuyển được cho phép đúng đắn 16 Luận văn tốt nghiệp Các nghiệp vụ phải thu được ghi sổ đúng kỳ Kịp thời ( đúng thời gian ) Các khoản bán hàng đựoc ghi sổ đúng thời gian ( Kiểm toán tài chính, NXB Tàichính của trường ĐHKTQD tr. 177 ) Trên cơ sở mục tiêu kiểm toán đặc thù đã xác định, cần cụ thể hoá các công việc tương ứng với mỗi mục tiêu kiểm toán nội bộ nói riêng hay kiểm soát nội bộ nói chung. Từ đó, xác định những công việc tương ứng của các trắc nghiệm đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ tin cậy trong kiểm toán tài chính. Trên cơ sở đó, xác định những mẫu chọn để thực hiện các thủ tục xác minh cụ thể như đối chiếu lại hoá đơn với sổ sách lấy xác nhận của người mua hàng và các khoản thu v.v... I.3.2.2 Thu thập những thông tin cơ sở phục vụ cho kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính Để thực hiện tốt công việc kiểm toán nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền thì kiểm toán viên cần phải có những hiểu biết về công việc kinh doanh của khách hàng và kiến thức về lĩnh vực kinh doanh của công ty khách hàng. Khi tiến hành kiểm toán có rất nhiều cách khác nhau để thu thập thông tin cơ sở. Thông thường thông tin cơ sở được thu thập dưới các hình thức sau đây : - Qua tìm hiểu về doanh nghiệp : Kiểm toán viên tiến hành tìm hiểu về doanh nghiệp để thu thập những thông tin về cơ cấu tổ chức, loại hình kinh doanh hay phương pháp kế toán áp dụng tại doanh nghiệp - Qua tham quan nhà xưởng : Tất cả những thông tin thu thập được qua tìm hiểu doanh nghiệp chủ yếu trên giấy tờ, tài liệu ở văn phòng của công ty. Do đó tham quan nhà xưởng sẽ giúp cho kiểm toán viên có cách nhìn thực tế hơn về các phương tiện vật chất giúp cho việc hiểu biết được công tác bảo vệ tài sản và giúp cho cho việc thuyết minh số liệu kế toán bằng cách đưa ra một khung tham gia chiếu qua đó hình dung ra những tài sản này như, sản phẩm đang chế tạo và máy móc thiết bị, phân xưởng để chế tạo ra hàng hoá bán trong kỳ. - Xem xét lại các chính sách của công ty : nhiều chính sách của công ty được phản ánh trên báo cáo tài chính là một phần của cơ cấu kiểm soát nội bộ. Nhưng ngoài phạm vi của hệ thống kế toán như các chính sách tín dụng, chính sách kế toán và ghi sổ tài khoản... Để thực hiện công việc kiểm soát một cách hiệu quả, nhiều công ty kiểm toán đã thực hiện việc ghi vào hồ sơ thường xuyên những chính sách quan trọng nhất mà khách hàng chấp nhận hay việc thay đổi những chính sách đó. - Qua phỏng vấn : Kiểm toán viên cũng có thể thu được thông tin cơ sở qua việc phỏng vấn trong nội bộ công ty hoặc bên ngoài. Như việc thực Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 17 Luận văn tốt nghiệp hiện phỏng vấn ban quản trị của công ty, bộ phận bán hàng, bộ phận marketing... để biết được thái độ hay phong cách làm việc của họ. Thực hiện phỏng vấn công nhân để biết việc ghi số giờ công làm việc của công nhân do những người quản lý thực hiện hoặc phỏng vấn những bên có liên quan về những thông tin khác. I.3.2.3 Thu nạp thông tin về trách nhiệm pháp lý của khách hàng làm cơ sở phục vụ cho kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền nói riêng. Những thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng sẽ do kiểm toán viên thực hiện qua đó cho phép kiểm toán viên đánh giá sơ bộ về rủi ro kiểm soát của qúa trình bán hàng và thu tiền Các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng được trình bày trên các tài liệu như + Hồ sơ thành lập : Đây là tài liệu về thông tin của doanh nghiệp về quá trình thành lập công ty khách hàng, về vốn thành lập, cơ cấu của hội đồng quản trị ( nếu có ), về các thành viên, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của công ty khách hàng. + Biên bản các cuộc họp : Biên bản các cuộc họp trong công ty là tài liệu chính thức về các cuộc họp của hội đồng quản trị và các thành viên trong tổ chức. Biên bản sẽ cung cấp những thông tin quan trọng để xác định xem các báo cáo tài chính có thật sự đúng không. + Hợp đồng : Đây là tài liệu cung cấp những thông tin về nghĩa vụ pháp lý của công ty khách hàng trong việc thực hiện công việc kinh doanh việc cung cấp các dịch vụ hàng hoá mà công ty khách hàng đã ký kết với bạn hàng của họ, đây cũng là bằng chứng thiết thực nói lên quá trình kinh doanh của đơn vị có được ổn định và phát triển qua các thời kỳ kế toán hay không. I.3.2.4 Đánh giá trọng yếu và rủi ro trong quá trình kiểm toán BCTC nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng Việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro là rất quan trọng trong việc thực hiện lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán. - Tính trọng yếu của chu trình bán hàng và thu tiền: Trọng yếu là khái niệm chỉ tầm cỡ và tính hệ trọng của các sai phạm trong chu trình bán hàng thu tiền trên BCTC ( có thể là gian lận và sai sót ) gây ảnh hưởng tới các quyết định của các nhà đầu tư, chủ nợ, khách hàng... khi sử dụng các thông tin tài chính. Mức độ trọng yếu ảnh hưởng rất lớn tới việc lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán hay việc phát hành báo cáo tài chính có bị sai phạm không. Nếu như kiểm toán viên xác định có sai phạm trọng yếu thì yêu cầu khách hàng sửa lại và nếu khách hàng từ Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 18 Luận văn tốt nghiệp chối sửa lại các báo cáo thì ý kiến chấp nhận có loại trừ hoặc phủ nhận sẽ được công bố tuỳ theo mức độ trọng yếu của sai phạm. Với tầm quan trọng của mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu và thực hiện phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu của cho các khoản mục. - Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu trong chu trình bán hàng và thu tiền : Là mức sai số tối đa cho phép, nghĩa là mức mà kiểm toán viên tin tưởng rằng không làm cho các báo cáo tài chính bị sai lầm nghiêm trọng gây ảnh hưởng tới nhận định của người sử dụng ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho phép kiểm tóan viên lập kế hoạch thu thập bằng chứng thích hợp. Tuy nhiên để xây dựng được các ước lượng ban đầu không phải là điều dễ dàng mà đòi hỏi phải có những phán xét xác đáng về chuyên môn. Cho nên khi tiến hành công việc này những kiểm toán viên có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ thường chỉ định để thực hiện công việc này... Trong khi tiến hành xây dựng ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cần xem xét tới các nhân tố ảnh hưởng như : - Tính trọng yếu là khái niệm tương đối: một sai số có quy mô nhất định có thể là trọng yếu với khách hàng nhỏ nhưng lại không trọng yếu đối với khách hàng lớn. Do đó với mỗi khách hàng khác nhau phải xây dựng quy mô sai số khác nhau, không thể thực hiện áp đặt giống nhau được. - Cơ sở đánh giá tính trọng yếu : vì tính trọng yếu là tương đối nên có các cơ sở để xây dựng khi nào sai phạm là trọng yếu là điều cần thiết. - Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục : Hầu hết kiểm toán viên khi thực hiện phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thì thường thực hiện phân bổ ước lượng đó cho các tài khoản trên bảng cân đối kế toán thay vì thực hiện phân bổ cho các tài khoản tren báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Do hầu hết những sai sót trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng có ảnh hưởng tương tự như trên bảng cân đối kế toán vì hệ thống bút toán ghi sổ kép. Mặt khác do số lượng tài khoản trên bảng cân đối kế toán ít hơn số lượng tài khoản trên báo cáo kết quả kinh doanh. Trong hầu hết các cuộc kiểm toán và các thể thức kiểm toán thường tập trung vào các tài khoản trên bảng cân đối kế toán là phương cách thích hợp nhất. Mục đích của việc phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu do các tài khoản trên bảng tổng hợp nhằm giúp kiểm toán viên xác định đầy đủ bằng chứng thích hợp đốivới từng tài khoản để tối thiểu hoá các chi phí kiểm toán. Việc phân bổ sẽ thực hiện dựa trên mức độ rủi ro cũng như quy mô của các khoản mục. - Rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 19 Luận văn tốt nghiệp Có hai loại rủi ro liên quan trực tiếp đến cuộc kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền và kiểm toán báo cáo tài chính là rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh doanh + Rủi ro kiểm toán của chu trình bán hàng và thu tiền ( AR ): là những rủi ro mà kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về thông tin trong chu trình bán hàng thu tiền khi các thông tin này có sai sót nghiêm trọng ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. + Rủi ro kinh doanh của chu trình bán hàng và thu tiền: là rủi ro mà kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán sẽ phải chịu trách nhiệm vì mối quan hệ với khách hàng cho dù báo cáo kiểm toán cung cấp cho khách hàng đó là đúng. Trong khi tiến hành các cuộc kiểm toán thì rủi ro kiểm toán là điều khó tránh khỏi do đó các kiểm toán viên luôn mong muốn rủi ro kiểm toán ở mức có thể chấp nhận được. Khi kiểm toán viên quyết định một tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn thấp thì có nghĩa là kiểm toán viên muốn chắc chắn hơn là các báo cáo tài chính không bị sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán có thể được ước lượng theo % (từ 0% đến 100% ) Sơ đồ 7 : Quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền Rủi ro kiểm Rủi ro đạt tới toán Rủi ro mong muốn 100% Bằng chứng kiểm toán ( chi phí) ( Lý thuyết kiểm toán; GS.TS Nguyễn Quang Quynh ) Rủi ro kiểm toán có 3 yếu tố cấu thành đó là : * Rủi ro tiềm tàng trong chu trình bán hàng và thu tiền (IR ) * Rủi ro phát hiện trong chu trình bán hàng và thu tiền (DR ) * Rủi ro kiểm soát trong chu trình bán hàng và thu tiền ( CR ) Sinh viªn : NguyÔn V¨n HiÕu - Líp KiÓm to¸n 40B 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan