Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn theo pháp luật bảo vệ môi trường từ thực tiễn thành p...

Tài liệu Kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn theo pháp luật bảo vệ môi trường từ thực tiễn thành phố hồ chí minh(mới)

.PDF
81
149
131

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TIẾNG ỒN THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TIẾNG ỒN THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60.38.01.07 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHÓA HỌC PGS.TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TIẾNG ỒN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TIẾNG ỒN . 7 1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn................................ 7 1.1.1. Khái niệm, phân loại Tiếng ồn ...................................................................... 7 1.1.2. Ảnh hưởng của tiếng ồn đối với sức khoẻ cộng đồng................................ 11 1.1.3. Kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn ......................................................................... 14 1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn .............. 17 1.2.1. Khái niệm pháp luật kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn ....................................... 17 1.2.2. Các nguyên tắc trong điều chỉnh pháp luật Kiểm soát ô nhiễm Tiếng ồn 20 1.2.3. Vai trò của pháp luật Kiểm soát ô nhiễm Tiếng ồn .................................... 23 1.2.4. Nội dung của pháp luật Kiểm soát ô nhiễm Tiếng ồn ................................ 26 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TIẾNG ỒN QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ............................................................................................................ 32 2.1.Đánh giá thực trạng pháp luật bảo vệ môi trường trong kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh .......................... 32 2.1.1.Các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường và Tiêu chuẩn môi trường ............................................................................................................... 32 2.1.2.Pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn ......................................................................................................... 36 2.1.3.Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn từ nguồn ồn di động ................... 40 2.1.4.Các quy định về kiểm soát ô nhiễm Tiếng ồn trong sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh và dịch vụ ............................................................................................. 51 2.1.5.Các quy định pháp luật trong xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm Tiếng ồn ................................................................................................................... 55 2.2.Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về bảo vệ môi trường trong kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn ......................... 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 73 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Tiếng ồn tác động lên con người ở ba phương diện: tác động về mặt cơ học, tác động về mặt sinh học và tác động lên các hoạt động xã hội. Tiếng ồn là một trong những tác nhân mà có thể tác động đến tất cả mọi người, già hay trẻ, nam giới hay nữ giới, trong bất cứ môi trường nào. Ở Việt Nam, từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, mở cửa cho đến nay, nhiều nhà máy, nhà xưởng, khu đô thị, nhà cao tầng, được thành lập và xây dựng khắp nơi, phương tiện giao thông ngày càng tăng nhưng sự phát triển này không được quy hoạch trong thời gian dài, dẫn đến ô nhiễm tiếng ồn ngày càng tăng. Điển hình như ở các thành phố lớn hoặc các thành phố đang phát triển, mật độ, tốc độ xây dựng và phương tiện giao thông ngày càng dày đặc, các khu vực vui chơi giảm trí ngày càng nhiều… mà vấn đề ô nhiễm tiếng ồn lại chưa được mọi người quan tâm đúng mức. Kiến thức phổ thông về tiếng ồn không phải là kiến thức khoa học đơn thuần mà còn là vấn đề có tính thời sự trong cuộc sống. Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, có thể thấy Luật quy định còn khá chung chung, chưa cụ thể, còn nhiều thiếu sót và chưa mang tính hệ thống dẫn tới việc thực hiện khó khả thi. Bên cạnh đó, quy định về quy chuẩn môi trường tiếng ồn hiện nay đã lạc hậu so với khu vực và thế giới, những điểm thiếu sót hạn chế trong quy định pháp luật đã gây khó khăn rất lớn cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng như người dân trong kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức của thế giới như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái 1 Bình Dương APEC, các Hiệp định Thương mại tự do FTAs… và sắp tới sẽ là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP… Việc tham gia vào các tổ chức thế giới này đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện các quy định pháp luật để phù hợp với quy định chung của thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tham gia vào một số công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, vì vậy nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn là một đòi hỏi cấp thiết. Mặt khác, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy Nhà nước phải có nghĩa vụ đảm bảo phát triển kinh tế nâng cao đời sống của con người nhưng cũng phải đảm bảo sức khoẻ, tạo môi trường sống lành mạnh nhằm đảm bảo quyền lợi về tự nhiên của con người, để thực hiện được điều này, nhà nước phải hoàn thiện pháp luật, để khi sử dụng pháp luật như công cụ đảm bảo thì bản thân nhà nước không bị lúng túng và người dân cảm thấy hài lòng. Vì vậy tác giả chọn thực hiện đề tài “Kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn theo pháp luật bảo vệ môi trường từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về vấn đề trên so thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình kiểm tra, xử lý, kiểm soát, cũng như là cơ sở để chỉ ra những điểm còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng từ đó đưa ra những hướng hoàn thiện hơn đối với những quy định liên quan đề tài. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu, tiêp cận các tài liệu, sách, báo, bài viết của các học giả liên quan đến đề tài nghiên cứu này, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường, nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, có thể kể tên một số nghiên cứu như: PGS.TS Phạm Hữu Nghị (2005) “Nâng cao hiệu lực thi hành 2 pháp luật bảo vệ môi trường”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị môi trường toàn quốc, Hà Nội; Chương trình hợp tác trong lĩnh vực môi trường giữa Việt Nam và Đan Mạch "Kiểm soát ô nhiễm khu vực đông dân nghèo – Khu kế hoạch hành động kiểm soát ô nhiễm cấp địa phương", các luận văn nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể có thể kể tên một số nghiên cứu về ô nhiễm không khí như Vũ Thị Duyên Thuỷ (2002) "Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và hướng hoàn thiện" luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; nghiên cứu về chất thải nguy hại như Vũ Thị Duyên Thuỷ (2009) "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam" luận án tiến sỹ Luật học, Đại học luật Hà Nội; chất thải rắn như Lưu Việt Hùng (2009) "Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam" luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội; chất thải y tế như Phạm Hồng Ngọc (2016) "Pháp luật về quản lý chất thải y tế từ thực tiễn Thành phố Hà Nội" luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, đây là nền tảng lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu các vấn đề về thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn chưa được nghiên cứu, chỉ có các đề tài về kiểm soát tiếng ồn dưới góc độ kỹ thuật như Phạm Tiến Sỹ (2016) "Xây dựng bản đồ tiếng ồn do hoạt động giao thông đường bộ tại một số trục giao thông trọng yếu của Thành phố Hà Nội" luận văn thạc sỹ Khoa học môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, hoặc lồng ghép một phần kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn vào trong công trình nghiên cứu về không khí, tiếng ồn và độ rung. Do đó có thể khẳng định, đề tài "Kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn theo pháp luật bảo vệ môi trường từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh" là một đề tài mới 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, tổng hợp và hệ thống hoá các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát ô 3 nhiễm tiếng ồn ở Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật để kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về ô nhiễm tiếng ồn và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn - Phân tích thực trạng kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Tổng hợp, phân tích, hệ thống hoá và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Về đối tượng nghiên cứu của đề tài trong khuôn khổ của một Luận văn thạc sĩ chủ yếu là đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật về kiểm soát tiếng ồn được ghi nhận trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các băn bản pháp lý liên quan khác. Về phạm vi nghiên cứu của đề tài ở đây chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp lý và thực tiễn xoay quanh pháp luật kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn tại Thành phố Hồ Chí Minh ở thời điểm hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn dựa trên những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Luật Bảo vệ môi trường, Lịch sử nhà nước và pháp luật, Luật Hành chính, Luật Dân sự, Lý luận Nhà nước và pháp luật… những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn. 4 Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giả sử dụng nhiều phương pháp đan xen để nghiên cứu như: quan trắc, phân tích, đánh giá, tổng hợp, khảo sát thực tiễn… Đồng thời luận văn còn dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của Sở Tài nguyên môi trường, Chi cục Bảo vệ môi trường Thành phố Hồ Chí Minh và những thông tin trên mạng Internet. Tác giả tiếp cận vấn đề trong đề tài đi từ khái niệm, những lý luận cơ bản của các vấn đề chung nhất của kiểm soát tiếng ồn trong thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể: - Phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được sử dụng trong nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa hành vi xả thải (tiếng ồn) của các cá nhân, tổ chức với sức khoẻ con người và nhu cầu kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn bằng pháp luật. - Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng khi đánh giá, phân tích các quan điểm, các quy định của pháp luật, các tình huống thực tiễn làm cơ sở cho những kết luật khoa học về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn nhằm đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn ở Việt Nam hiện nay, phương pháp nghiên cứu này sẽ được tác giả sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. - Chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để so sánh, tổng hợp nhằm xác định rõ những kết quả đã nghiên cứu được để kế thừa và nghiên cứu. - Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để tổng quan các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về pháp luật kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn để xác định rõ những vấn đề liên quan. Đồng thời đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn sau đó đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn ở Việt Nam đồng thời dự báo xu hướng phát triển của Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn theo pháp luật bảo vệ môi trường tại Thành phố Hồ Chí Minh là công trình nghiên cứu mới, từ góc độ khoa học pháp lý, trên cơ sở các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các văn bản pháp luật liên quan. Luận văn nghiên cứu làm rõ các vấn đề từ lý luận, pháp lý đến thực tiễn về quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn phát tán và xử lý tiếng ồn... trên cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát tiếng ồn tại Thành phố Hồ Chí Minh, đối chiếu với pháp luật hiện hành của Việt Nam và trên thế giới để phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, bất cập. Từ đó đưa ra nhu cầu, định hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát tiếng ồn ở nước ta hiện nay. Là một đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về lĩnh vực kiểm soát tiềng ồn, tác giả hy vọng luận văn có giá trị tham khảo nhất định, trước hết đối với những người quan tâm về kiểm soát tiếng ồn ở góp độ pháp lý và là nguồn tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học Luật Môi trường. Bên cạnh đó có một số kiến nghị của đề tài còn là tài liệu có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật về kiểm soát tiếng ồn nói riêng 7. Kết cấu Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày thành 02 Chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn và Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn. Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ môi trường trong kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp hoàn thiện. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TIẾNG ỒN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM TIẾNG ỒN 1.1. Những vấn đề lý luậnvề kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn 1.1.1. Khái niệm, phân loại tiếng ồn Tiếng ồn là một dạng âm thanh, một âm thanh này hay đối với người này, lại trở thành tiếng ồn khó chịu đối với một người khác. Thậm chí cùng một âm thanh, cùng một người nghe, nhưng khi ở những tâm trạng khác nhau thì âm thanh đó sẽ trở thành khó chịu hay thích thú đối với người nghe. Hay có thể là một tiếng chuông điện thoại đột ngột vang lên gây mất tập trung hoặc làm mất giấc ngủ cho người khác cũng làm cho người ta khó chịu và cảm thấy ức chế về tâm lý. Tiếng ồn được coi là một dạng ô nhiễm do nó tác động đến sức khoẻ con người, làm giảm khả năng nghe, gây ảnh hưởng đến tâm lý con người. Tuy nhiên, người ta có thể đánh giá chính xác chất lượng môi trường của không khí, đất, nước… bằng nồng độ chất ô nhiễm nhưng trong việc đánh giá nguồn ồn nào gây ảnh hưởng xấu hơn thường rất khó khăn, vì mỗi người cảm thấy bị tác động với một mức độ khác nhau trên cùng một nguồn ồn gây ra. Tần số âm thanh mà con nguời nghe được không nguy hại: 16Hz – 16.000Hz [Randall F. Barron] và mức âm nghe được là 16Hz – 20.000Hz (0 – 120dB). Mức thấp (sóng hạâm - infrasound) hoặc cao hơn (sóng siêu âm ulfrasound) khoảngđó, con người không nghe được. Mức âm thanh chuẩn thường (âm nhạc) là 440Hz. Nói cách khác, tiếng ồn có tính tương đối và thật khó đánh giá nguồn tiếng ồn nào gây ảnh hưởng xấu hơn. Tiếng ồn là một dạng ô nhiễm rất phổ biến trong đô thị phần lớn là từ các tuyến đường giao thông, các tụ điểm dân cư, từ các công trình xây dựng, hoạt động sản xuất công nghiệp… Ô nhiễm tiếng ồn là tiếng ồn trong môi 7 trường vượt quá nhưỡng nhất định gây khó chịu cho người hoặc động vật. Hầu hết các nước trên thế giới và ở nước ta, nguồn gây ô nhiễm tiếng ồn chủ yếu từ tiếng ồn ngoài trời như phương tiện giao thông vận tải, xe có động cơ, máy bay và tàu hoả, hoặc tiếng ồn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh và từ các hoạt động của con người. Các nguồn ồn chính bao gồm: - Nguồn ồn giao thông: Hiện nay, phương tiện giao thông cơ giới rất phổ biến, mỗi xe khi vận chuyển trên đường phố sẽ gây ra tiếng ồn do động cơ hoạt động, tiếng còi, ống xả, tiếng rít phanh và sự rung động của các bộ phận trên xe gây nên. Bảng 1.1: Mức ồn của một số phương tiện giao thông Loại phương tiện Mức ồn Loại phương tiện Mức ồn Xe nhỏ 77 dB Tiếng còi tàu 75 ÷ 105 dB Xe khách nhỏ 79 dB Tiếng máy bay 85 ÷ 90 dB Xe khách vừa 84 dB Xe quân sự 120 ÷ 135 dB Xe thể thao 91 dB Xe chở rác 82 ÷ 88 dB Tiếng ồn giao thông hiện nay chủ yếu là do mật độ xe trên đường phố lớn, tập hợp nhiều xe sẽ gây ra hỗn hợp tiếng ồn với nhiều tần số khác nhau. Riêng đối với nước ta, còn tồn tại nhiều phương tiện lạc hậu, kém chất lượng gây ra tiếng ồn lớn. Hoặc tiếng ồn giao thông từ phương tiện tàu hoả gây ra cũng rất lớn, từ 50 – 75dB. Tại các thành phố có tuyến đường sắt đi qua, người dân hai bên đường ray hằng ngày đều phải chịu tác động trực tiếp của tiếng ồn từ hoạt động giao thông đường sắt, và hiện nay vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức cũng như chưa có nghiên cứu nào quan tâm đến vấn đề này. 8 Trong giao thông còn phải kể đến tiếng ồn do máy bay, tiếng ồn này không thường xuyên nhưng gây ra rất lớn cho khu vực dân cư gần sân bay, đặc biết lúc máy bay cất cánh và hạ cánh. Hiện nay việc giải quyết vấn đề tiếng ồn do máy bay gây nên rất phức tạp, nên tạm thời sân bay thường đưa ra xa khu dân cư mới giảm bớt được tiếng ồn do nó gây nên. - Nguồn ồn trong xây dựng: Việc sử dụng phương tiện cơ giới ngày càng phổ biến, khi có một công trình xây dựng được thực thi thì tiếng ồn của các phương tiện này gây ra cho con người cũng rất đáng kể. Bảng 1.2: Mức ồn của một số máy móc trong xây dựng (đo ở khoảng cách 15m) Loại phương tiện Mức ồn Loại phương tiện Mức ồn Máy trộn bê tông 75 dB Máy khoan 87 ÷ 114 dB Máy ủi 93 dB Máy nghiền xi măng 100 dB Máy búa 1,5 tấn 80 dB Máy búa hơi 100 ÷ 110 dB - Nguồn ồn công nghiệp và sản xuất: Công nghiệp sử dụng rất nhiều máy móc, khi hoạt động sẽ gây ra tiếng ồn đáng kể. Ở đây còn xuất hiện nhiều công nghệ gây ra tiếng ồn lớn, và là nơi thường xuyên có sự va chạm giữa các vật thể rắn với nhau, sự chuyển động hỗn loạn giữa các dòng khí và hơi. Bảng 1.3: Mức ồn của một số công nghệ sản xuất trong công nghiệp (đo ở khoảng cách 15m) Loại phương tiện Mức ồn Loại phương tiện Mức ồn Xưởng dệt 110 dB Xưởng rèn 100 ÷ 120 dB Xưởng gò 113 ÷ 114 dB Xưởng đúc 112 dB Máy cưa 82 ÷ 85 dB Máy đập 85 dB 9 - Nguồn ồn sinh hoạt: Trong sinh hoạt thường sử dụng nhiều thiết bị thu phát âm thanh (tivi, cassette, radio, karaoke...) ngoài ra nơi tập trung đông người cũng gây ra tiếng ồn đáng kể (hội hè, đám cưới, sân thể thao, hội chợ...). Những loại tiếng ồn kể trên do các hoạt động sửa chữa nhà cửa thì có thể lan truyền trong vật thể rắn như sàn, trần, tường... Tất cả những loại tiếng ồn này phụ thuộc chủ yếu vào ý thức của con người gây nên. Bảng 1.4: Mức ồn trong sinh hoạt của con người Tiếng nói nhỏ Tiếng nói chuyện bình thường 30 dB 60 dB Tiếng nói to 80 dB Tiếng khóc của trẻ 80 dB Tiếng hát to 110 dB Tiếng cửa cọt kẹt 78 dB Các loại tiếng ồn: - Tiếng ồn cơ khí: tiếng ồn phát sinh do rung ở máy, thiết bị hoặc do va đập của các chi tiếp của chúng. - Tiếng ồn khí động: tiếng ồn phát sinh trong các quá trình chuyển động của các chất khí hoặc của vật chuyển động trong khí với vận tốc khí hoặc sinh ra do sự chảy của các chất lỏng hay sự phun chất cháy trong vòi phun. - Tiếng ồn điện từ: tiếng ồn phát sinh do dao động của các chi tiết trong thiết bị có điện chịu ảnh hưởng của lực điện từ biến đổi. - Tiếng ồn thuỷ động: tiếng ồn phát sinh trong các quá trình chuyển động của chất lỏng. Thông thường tiếng ồn phát sinh do vật liệu rắn tác động vào chất lỏng. [10]. 10 1.1.2. Ảnh hưởng của tiếng ồn đối với sức khoẻ cộng đồng Tiếng ồn là một dạng ô nhiễm môi trường rất nguy hại, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng nhưng lại ít được quan tâm như các loại ô nhiễm khác. Tiếng ồn không tích lũy vào trong môi trường như nhưng chất gây ô nhiễm khác, nhưng nó lại tác động trực tiếp đến sức khỏe con người. Nguyên nhân gây nên tiếng ồn rất đa dạng, từ các âm thanh phát ra từ nhà máy, công xưởng đến hoạt động giao thông và cả tiếng ồn trong sinh hoạt của người dân. Hiện nay, tại một số địa điểm ở các thành phố lớn, tình trạng kinh doanh dịch vụ cà phê, karaoke, nhà hàng, quán bar, vũ trường… sử dụng âm nhạc và tạo tiếng ồn quá lớn từ sau 22 giờ đêm, hơn nữa, tại các nơi này đều đang là những “đại công trường” xây dựng các toà nhà cao ốc, các khu chung cư, xây dựng tuyến đường xe điện ngầm… những tiếng ồn từ các khu vực đang xây dựng này làm cộng đồng dân cư xung quanh bị ảnh hưởng rất nhiều. Tiếng ồn 50dB: làm suy giảm hiệu suất làm việc, nhất là đối với lao động trí óc. Tiếng ồn 70 dB: làm tăng nhịp thở và nhịp đập của tim, tăng nhiệt độ cơ thể và tăng huyết áp, ảnh hưởng đến hoạt động của dạ dày và giảm hứng thú lao động. Tiếng ồn 90 dB: gây mệt mỏi, mất ngủ, tổn thương chức năng thính giác, mất thăng bằng cơ thể và suy nhược thần kinh. Cùng với sự phát triển của các đô thị, nhịp sống tại các quận huyện đã gây ra tiếng ồn lớn đến mức báo động. Nếu cộng đồng bị ô nhiễm tiếng ồn thường xuyên, kéo dài lâu ngày sẽ mắc các bệnh lý có liên quan. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ghi nhận trong những thập niên gần đây, tình trạng ô nhiễm tiếng ồn đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của con người: 11 - Căng thẳng tinh thần: Một số nghiên cứu ghi nhận, những người thường xuyên sống trong môi trường có tiếng động ồn ào như nhà ở gần sân bay, ga tàu hoả, đường sắt đi qua… thường có sức khoẻ kém hơn những người ở các nơi khác. Tiếng ồn quá mức có thể làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường về tinh thần và chất lượng học tập của trẻ em. - Rối loạn giấc ngủ: Với tác động của tiếng ồn kéo dài gây mất ngủ và thiếu ngủ thường xuyên có thể làm cho sức đề kháng của cơ thể suy giảm dần, dẫn đến khả năng miễn dịch kém, dễ bị ảnh hưởng với những tác nhân gây bệnh. Đối với những người cao tuổi, tình trạng mất ngủ vì ô nhiễm tiếng ồn sẽ làm tăng các loại nội tiết tố gây stress như adrenalin và nor-adrenalin, chúng có vai trò điều chỉnh các chức năng chuyển hoá trong cơ thể. Thực tế nghiên cứu ghi nhận, nếu tiếp xúc với tiếng ồn càng lớn thì chức năng chuyển hoá càng suy giảm, hậu quả được phát hiện với chỉ số lượng mỡ máu và đường huyết tăng cao, lượng thuốc an thần, thuốc ngủ được sử dụng tính trên đầu người ở khu vực gần sân bay và các đường giao thông lớn gấp 2-3 lần so với khu vực bị ô nhiễm tiếng ồn khác. - Giảm thính lực và mất thính lực: Theo WHO thống kê, ước tính trên toàn cầu có khoảng 120 triệu người bị điếc tai hoặc khả năng nghe kém vì giảm thính lực do ô nhiễm tiếng ồn gây nên. Tiếng ồn quá lớn ở khu vực đô thị được xem là tên sát nhân giấu mặt vì ít ai để ý đến những tác hại của nó. Thực tế chỉ có những người thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với tiếng ồn liên tục mới thấy rõ mình bị suy giảm thính lực dần, khả năng nghe kém hơn. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy tình trạng bị ô nhiễm tiếng ồn thường xuyên, liên tục ở các công nhân nhà máy công nghiệp có thể làm cơ thể sản xuất ra nhiều nội tiết tố adrenalin và nor-adrenalin; nếu công nhân biết mang thiết bị bảo vệ tai ngăn chặn tiếng ồn thì lượng nội tiết tố này trở về lại mức bình thường. Tại nước ta, một nghiên cứu tại nhà máy dệt cũng 12 ghi nhận những kết quả tương tự làm ảnh hưởng cơ quan nội tiết của các công nhân dệt. - Đối với hệ tiêu hóa, các nhà khoa học ở tại Anh đã nghiên cứu nhận thấy tình trạng ô nhiễm tiếng ồn liên tục đã làm ảnh hưởng đến sự tiêu hóa của con người như làm giảm co bóp dạ dày, giảm tiết dịch vị dạ dày... - Suy giảm khả năng, chất lượng lao động, học tập: Tại Mỹ, Viện Quốc gia sức khỏe và an toàn nghề nghiệp nghiên cứu ghi nhận đối tượng công nhân, người lao động thường xuyên tiếp xúc với âm thanh lớn có cường độ 75dB trong 03 năm sẽ bị tăng nhịp tim và nhịp thở; hoặc làm ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của hệ thần kinh tự chủ, làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng sức cản của các mạch máu ngoại vi; tương lai sau đó có thể bị ù tai, tăng huyết áp, loét dạ dày, tâm trạng bất ổn do căng thẳng tinh thần; tính tình trở nên nóng nảy, khó chịu, hay tranh cãi với người khác so với những người làm việc trong môi trường yên tĩnh.[38] - Biến đổi hành vi con người: Thực tế cho thấy nếu người dân sinh sống trong các khu vực ồn ào, náo nhiệt của những đô thị; nhất là nhà ở tại vị trí thường xuyên có tiếng động ảnh hưởng phát ra từ nhiều nguồn khác nhau vào ban ngày kể cả ban đêm sẽ làm cho con người đến tình trạng biến đổi hành vi với tính tình trở nên bực bội, dễ giận dữ, hay khó chịu, thường gây gổ với người ở chung quanh, ít giao thiệp với hàng xóm. - Ảnh hưởng đến trao đổi thông tin: Thông tin thường bị tiếng ồn gây nhiễu, che lấp, làm cho việc tiếp nhận thông tin sẽ khó khăn hơn, độ chính xác của thông tin nhận được sẽ không cao ảnh hưởng đến cuộc sống sản xuất sinh hoạt của con người; do vậy trong trao đổi thông tin cần phải quy định giới hạn tiếng ồn cho phép để tránh các ảnh hưởng do tiếng ồn gây ra. Tiếng ồn là một trong các yếu tố của môi trường gây tác động xấu lên con người. Tiếng ồn gây cho người ta cảm giác khó chịu, ảnh hưởng đến trao 13 đổi tin tức, đến thời gian nghỉ ngơi, giấc ngủ, ảnh hưởng đến điều kiện làm việc và nặng hơn là ảnh hưởng đến sức nghe, sức khoẻ của con người. Tiếng ồn được ví như kẻ sát nhân giấu mặt, thấy nó cũng “bình thường” nên mọi người chấp nhận chung sống với nó, chứ ít để ý đến tác hại nguy hiểm của nó. Xuất phát từ những tác động tiêu cực đó, kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn trở thành một trong những yêu cầu cấp bách trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung ở Việt Nam hiện nay. 1.1.3. Kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn Trên thế giới hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm soát ô nhiễm. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì kiểm soát ô nhiễm là một từ trong quản lý môi trường, bao gồm việc kiểm soát phát thải và chất thải vào môi trường. Nếu không có việc kiểm soát ô nhiễm, các chất thải từ các hoạt động tiêu thụ, sản xuất, vận tải và các hoạt động khác của con người sẽ làm tích tụ hoặc phát tán chất ô nhiễm vào môi trường làm cho chất lượng sống của con người bị suy giảm. Còn theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa 2007: “Kiểm soát là xem xét, coi sóc”[32, tr.381], có thể thấy quan điểm về “kiểm soát” theo cách này còn quá chung chung. Tuy nhiên, trong Luận án Tiến sĩ "Pháp luật về Kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam" của Tiến sĩ Bùi Đức Hiển cho rằng: kiểm soát là việc theo dõi, kiểm tra, giám sát nhằm nắm được sự việc đang diễn tiến thế nào, dự báo diễn tiến đến đâu, có đi đúng hướng không để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý, uốn nắn, điều chỉnh và đưa vào trật tự, làm đúng, tốt và có hiệu quả hơn. Tầm quan trọng của kiểm soát ô nhiễm trong công tác quản lý môi trường đã được xác định trong Luật bảo vệ môi trường (năm 2005), trong chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đặc biệt là trong Quyết định số 328/2005/QĐ-TTG ngày 12 tháng 12năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch quốc gia 14 kiểm soát ô nhiễm môi trường đến năm 2010. Theo khoản 18 Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường 2014, kiểm soát ô nhiễm là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm. Còn trong quan điểm được ghi nhận trong Giáo trình Luật Môi trường của Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân năm 2011 thì kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các hoạt động của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân nhằm loại trừ, hạn chế những tác động xấu đối với môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây nên, có thể thấy khái niệm này đã loại trừ, hạn chế những tác động xấu với môi trường, mục tiêu của hoạt động kiểm soát là phòng ngừa ô nhiễm, khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường và xác định các chủ thể có trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường nhưng chưa làm rõ nội hàm. Còn Giáo trình Luật Môi trường của Đại học Luật Hà Nội năm 2014 thì lại cho rằng “kiểm soát ô nhiễm môi trường là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm”, như vậy quan điểm này hoàn toàn trùng khớp với quy định của Pháp luật (khoản 18 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014). Có thể thấy quan niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường là một chu trình, coi phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm đã làm rõ nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, tuy nhiên lại chưa xác định chủ thể của kiểm soát ô nhiễm. Do vậy, kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các hoạt động phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường, hiện trạng môi trường, sự biến đổi của môi trường so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường; ngăn chặn, xử lý các hoạt động tiêu cực đến môi trường của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức là chủ nguồn thải nhằm đảm bảo cho môi trường sống của con người được trong lành, sạch đẹp.Kiểm soát ô nhiễm môi trường là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công tác quản lý môi trường cả nước cũng như ở mỗi 15 địa phương nhằm mục đích theo dõi kịp thời tình hình ô nhiễm, xác định đúng nguyên nhân gây ô nhiễm và kịp thời đề xuất các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm, giảm thiểu ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi trường để bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Từ cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường trên, đối với kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, theo tác giả là Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, các cá nhân, tổ chức là chủ nguồn ồn trong quá trình phòng ngừa, theo dõi, kiểm tra, giám sát những tác động đếnmôi trường, những biến đổi so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường, xử lý những hoạt động tiêu cực gây ra nhằm đảm bảo cho môi trường sống của con người được trong lành, sạch đẹp. Như vậy, kiểm soát ô nhiễm sẽ bao gồm: kiểm soát các nguồn thải gây ra ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong các ngành sản xuất công nghiệp, kiểm soát ô nhiễm môi trường xung quanh ở các khu vực đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, làng nghề... và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước mặt, nước ngầm và môi trường nước biển ven bờ, nó cũng bao gồm việc kiểm soát phát ra tiếng ồn, nếu không có việc kiểm soát ô nhiễm, các tiếng ồn từ các hoạt động tiêu thụ, sản xuất, vận tải, giải trí và các hoạt động khác của con người sẽ làm giảm chất lượng môi trường sống.Trong các cấp kiểm soát, phòng chống ô nhiễm và giảm thiểu tiếng ồn được xem là các biện pháp hiệu quả. Để kiểm soát tốt tiếng ồn cần có đánh giá đầy đủ nguồn ồn, khảo sát nguồn ồn cần đảm bảo các thông tin sau: - Loại tiếng ồn; - Mức ồn và biểu thời gian; - Sự phân bổ tần số; - Nguồn ồn (đặc điểm, vị trí, công suất…); 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan