Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị kh...

Tài liệu Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh quảng nam

.DOC
74
286
130

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ CẨM GIANG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ CẨM GIANG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiêu cứu khoa học của riêng tôi. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội Hà Nội. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thị Cẩm Giang MỤC LỤC MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ............................................................................................. 7 1.1. Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố...........................................................................................7 1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố...............................................................................11 1.3. Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. 16 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM....................................................................................................22 VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NAM...22 2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố..................................22 2.2. Thực trạng hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.....................32 Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN................50 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố......................................................................... 50 3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố..................................52 KẾT LUẬN....................................................................................................64 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CBĐT Cán bộ điều tra ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên KTV Kiểm tra viên VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là giai đoạn mở đầu cho các hoạt động tố tụng hình sự, là những căn cứ đầu tiên để Cơ quan điều tra (CQĐT) và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành kiểm tra, xác minh. Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm bởi có tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mới có căn cứ xác định được có hay không có tội phạm xảy ra, trên cơ sở đó, Cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hay không khởi tố vụ án hình sự. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã ghi nhận Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Với chức năng là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Một trong những hoạt động quan trọng của VKSND đó là kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đây là hoạt động đòi hỏi phải thận trọng, theo sát để nắm chắc việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, đôn đốc CQĐT giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả và chính xác. Trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, Nhà nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự là một trong những phương hướng, nhiệm vụ 1 công tác cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2018 đã có những quy định mới về nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Những quy định trên cần được nghiên cứu, làm rõ để áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Trong thời gian qua, hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của VKSND tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hoạt động này vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc trong thi hành pháp luật, hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn của một số cán bộ, Kiểm sát viên (KSV) chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát (VKS) vẫn chưa hiệu quả, đôi khi còn hình thức dẫn đến chất lượng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chưa cao, tội phạm ẩn còn nhiều, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn liên quan đến hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND để làm sáng tỏ về mặt khoa học, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động này là rất cần thiết, có ý nghĩa về mặt pháp lý và thực tiễn áp dụng. Từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và một số luận văn thạc sĩ Luật học. Có thể kể đến các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạo chí như: Những vấn đề cơ bản về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố 2 giác, tin báo về tội phạm của tác giả Bùi Mạnh Cường, Tạp chí Kiểm sát số 19/2017; Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo, tố giác tội phạm thực trạng và một số giải pháp của ThS Nông Xuân Trường; Hoàn thiện pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của tác giả Mai Thu Hằng, Báo Người đại biểu Nhân dân; Giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và chống oan, sai của tác giả Đỗ Minh Tuấn; Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu vấn đề kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như: Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Trung Hiếu “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, (Hà Nội, năm 2017); Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Hà Thị Thu Phương “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Yên Bái”, (Hà Nội, năm 2017); Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Khánh Trường “Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang”, (Hà Nội, năm 2017); Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Dương Tiến Mạnh “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, (Hà Nội, năm 2015). Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích, làm rõ được những vấn đề liên quan đến hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện dưới góc độ kiểm sát từ giai đoạn tiếp nhận đến giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng như chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về những kết quả đạt được, những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, giải pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt động này. 3 Vì vậy, với tình hình nghiên cứu trên, một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là duy nhất và không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào đã công bố trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại tỉnh Quảng Nam, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; - Nghiên cứu, phân tích quy định pháp luật tố tụng hình sự về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và chức năng kiểm sát hoạt động này của VKSND. - Đánh giá thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND tỉnh Quảng Nam, từ đó phần tích, làm rõ những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó trong thực hiện hoạt động này. - Đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát cho Ngành kiểm sát tỉnh Quảng Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 . Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng trong hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, 4 tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 4.2 . Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bên cạnh vấn đề lý luận và quy định của pháp luật, luận văn còn nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. - Về địa bàn và thời gian khảo sát: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong phạm vi 05 năm (01/12/2013 – 30/11/2018), không khảo sát ở các tỉnh, thành phố khác. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND. Luận văn có sự kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến chức năng kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp: Phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn góp phần nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn về chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. 5 Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để kiến nghị các cơ quan chức năng hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực tiễn một cách thống nhất, đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh đó, đây còn là nguồn tài liệu nghiên cứu, tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu khác, các cán bộ ngành Kiểm sát. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết tắt luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ 1.1. Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố - Khái niệm tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và người phạm tội. Ở phương diện điều tra khám phá tội phạm, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là những thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn đối với các cơ quan có thẩm quyền để xem xét tính chất nghiêm trọng của sự việc, là căn cứ để CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra, xác minh theo luật định nhằm làm rõ tính có căn cứ và hợp pháp của các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; mở ra một giai đoạn mới trong tố tụng hình sự là giai đoạn điều tra vụ án hình sự thông qua quyết định khởi tố vụ án. BLTTHS năm 2003 quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố còn khái quát. Vì vậy, để áp dụng đúng và thống nhất các quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, ngày 02/8/2013 liên ngành Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 06 hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (TTLT 06/2013). Theo đó, tố giác tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát 7 hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị CQĐT xem xét khởi tố vụ án hình sự [6]. Tuy nhiên, trên thực tế, tố giác về tội phạm không chỉ do công dân Việt Nam cung cấp mà còn do cá nhân là người nước ngoài cung cấp trong những trường hợp họ bị xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm…trên lãnh thổ Việt Nam. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập quốc tế ở nước ta ngày càng sâu rộng, người nước ngoài đến Việt Nam lao động, làm việc, học tập, công tác, du lịch… ngày càng nhiều. Nếu chỉ quy định công dân là chủ thể tố giác về tội phạm là chưa đầy đủ. Đối với tin báo về tội phạm, nếu quy định do cơ quan, tổ chức cung cấp hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng thôi thì chưa phù hợp. Thực tiễn áp dụng cho thấy, ngoài cơ quan, tổ chức thì cá nhân cũng cung cấp rất nhiều thông tin về vụ việc phạm tội mà mình biết cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003 và TTLT 06/2013, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ khái niệm nguồn tin về tội phạm và khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại như sau [19, Điều 144]: Nguồn tin về tội phạm gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân trực tiếp phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu phạm tội với cơ quan có thẩm quyền. Pháp luật tố tụng hình sự không hạn chế chủ thể tố giác về tội phạm là công dân Việt Nam mà có thể là bất kỳ cá nhân nào. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân là những thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện hoặc cơ quan, tổ chức nhận được tố giác, tin báo của cá nhân và chuyển cho CQĐT có thẩm quyền. Ngoài ra, tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng cũng là một trong những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. BLTTHS đã quy định tất cả các cơ quan nhà nước đều có quyền kiến nghị khởi tố [19, Điều 5]. Tuy nhiên, trong thực tiễn, các văn bản kiến nghị thông thường là của cơ quan Thanh tra, Tòa án. Đối với cơ quan Thanh tra: Trong quá trình thực 8 hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu cơ quan Thanh tra phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm, thì trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày phát hiện dấu hiệu tội phạm, phải chuyển hồ sơ vụ việc đó và bản kiến nghị khởi tố đến CQĐT có thầm quyền để xem xét khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp biết. Đối với tòa án: Kiến nghị khởi tố được thể hiện bằng “Yêu cầu khởi tố vụ án” của Hội đồng xét xử (HĐXX) [19, Điều 153]. Không phải Toà án nói chung mà chính HĐXX thông qua việc xét xử tại phiên tòa phát hiện tội phạm có thể ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự [43]. Cơ quan nhà nước có thể là chủ thể của tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và việc phân biệt trường hợp nào cơ quan Nhà nước là chủ thể của tin báo về tội phạm và trường hợp nào là chủ thể của kiến nghị khởi tố là rất cần thiết. Trong trường hợp thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, xét xử... phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì thu thập hồ sơ, tài liệu liên quan, kèm theo văn bản kiến nghị khởi tố gửi đến CQĐT, VKSND cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án thì lúc này Cơ quan nhà nước là chủ thể kiến nghị khởi tố [43]. Trường hợp thông qua công tác quản lý hoặc công tác khác, Cơ quan nhà nước phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết thì lúc này Cơ quan nhà nước là chủ thể tin báo về tội phạm. Như vậy, tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền; Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu của tội phạm. Tóm lại: Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những nguồn tin về tội phạm được pháp luật quy định do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp bằng các hình thức thông tin khác nhau cho cơ quan có thẩm quyền xem xét và xử lý. 9 Qua các phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm sau: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động đón nhận, kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để giải quyết vụ án hình sự. - Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố Như đã đề cập trong phần mở đầu, VKSND có 02 chức năng đó là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất được quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013 và Đều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp, giám sát trực tiếp các hành vi, quyết định, hoạt động cụ thể của CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án với mục đích nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [22]. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, thì “kiểm sát là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước [39, tr.867]. Theo đó, “kiểm sát” là hoạt động kiểm tra, giám sát, với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp luật. Theo quy định của pháp luật TTHS thì hoạt động “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS” của Viện kiểm sát nhằm kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp theo quy định của BLTTHS hiện hành để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Như vậy, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là hoạt động của VKSND để kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có 10 thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật [12, tr.39]. Trên cơ sở sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như sau: Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong việc đón nhận, kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự hay tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. 1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố - Chủ thể kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là những hoạt động chỉ do VKSND chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là các hoạt động có tính quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất [41]. Hiến pháp trao cho VKSND chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. “VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [21]. Kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc hội giao cho VKSND nhằm bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động tư pháp hình sự, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm [42]. Chức năng này của VKSND đã được quy định xuyên suốt từ Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Theo đó, ngoài chức năng thực hành quyền công tố, VKS còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân. 11 Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 vẫn khẳng định VKS là cơ quan “bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, nhưng phạm vi hoạt động đã có sự thu hẹp. Từ chỗ là nhân tố chính “bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, thì nay hoạt động của VKS chỉ là “góp phần” cho quá trình đó mà thôi và mô hình tổ chức cũng có sự thay đổi. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì phạm vi hoạt động của VKS chỉ còn “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Tuy qua các thời kì, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND có những thay đổi nhưng về cơ bản Hiến pháp vẫn quy định cho VKSND hai chức năng đó là chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó, khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKSND phải dựa trên các căn cứ pháp lý tối thượng là Hiến pháp, BLHS, BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật khác có liên quan để xem xét, bảo đảm sự tuân theo pháp luật của các chủ thể bị kiểm sát cũng như bảo đảm tính hợp pháp của chính các hoạt động kiểm sát của VKSND. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp tại Khoản 1 Điều 4. Như vậy, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố là một trong những nội dung đầu tiên trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND nhằm bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố được thực hiện đúng quy định của pháp luật. - Đối tượng và phạm vi của hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động phát hiện vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết nguồn tin ban đầu. Do đó, hoạt động tuân theo pháp luật trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố 12 giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS là đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Phạm vi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được bắt đầu từ khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khi ra một trong các quyết định hoặc quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và ban hành thông báo kết quả giải quyết theo quy định tại Khoản 4 Điều 145 BLTTHS. Hệ thống pháp luật được sử dụng trong công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trước hết đó chính là BLTTHS hiện hành quy định về trình tự tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Ngoài ra còn có các quy định về nội dung như BLHS cũng đóng vai trò quan trọng mà các chủ thể giải quyết cần phải tuân theo. - Hình thức kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố VKSND kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát một cách liên tục, cụ thể và trực tiếp đối với những hoạt động tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình kiểm tra, xác minh các nguồn tin về tội phạm. Tính liên tục thể hiện ở chỗ VKS thực hiện quyền kiểm sát từ khi Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin, phân loại, xác minh cho đến khi nhận được thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố. Tính cụ thể là việc VKS có quyền giám sát chi tiết, cụ thể từng hoạt động tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền một cách trực tiếp hoặc gián tiếp [16]. VKS thực hiện quyền giám sát hoạt động điều tra của CQĐT một cách trực tiếp như việc kiểm sát các hoạt động: Khám nghiệm hiện trường, Khám 13 nghiệm tử thi hoặc gián tiếp như phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định gia hạn tạm giữ… VKS thực hiện quyền giám sát hoạt động điều tra của CQĐT từ trước đến nay vẫn được coi là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự nhằm xác định được hoạt động điều tra được thực hiện đúng hay sai, có khách quan, đầy đủ không. Để thực hiện chức năng hiến định quan trọng này, pháp luật tố tụng hình sự trao cho VKS các quyền hạn nhất định trong hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin, đó là: Quyền giám sát, quyền yêu cầu, quyền hủy bỏ quyết định trái pháp luật của CQĐT, quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền. - VKS thực hiện quyền giám sát thông qua hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo quy định của pháp luật, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm có trách nhiệm vào sổ tiếp nhận, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm và gửi cho VKS để thực hiện chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Ngoài ra, CQĐT có trách nhiệm báo cáo định kỳ việc tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm. Quyền giám sát của VKS thể hiện rõ nhất trong việc kiểm sát các quyền năng và hành vi tố tụng của CQĐT bằng việc nhất trí hoặc không nhất trí với CQĐT thông qua việc phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân và các quyết định khác của CQĐT trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định. - Trong quá trình kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, nếu VKS phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp luật; kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thông báo kết quả cho VKS; cung cấp tài liệu liên 14 quan về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm; đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện; yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự; yêu cầu thay đổi Điều tra viên (ĐTV), Cán bộ điều tra (CBĐT). CQĐT có trách nhiệm phải thực hiện các yêu cầu, quyết định của VKSND [19, Điều 160]. - Quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT là một quyền năng đặc biệt của VKS được pháp luật quy định. Trên thực tế, VKS chỉ thực hiện quyền năng này khi đã thực hiện quyền giám sát, quyền yêu cầu nhưng không có hiệu quả hoặc khi CQĐT không thể tự khắc phục được, BLTTHS quy định: Trong khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, nếu thấy quyết định của CQĐT trái pháp luật, VKS có quyền ra Quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra [19, Điều 159]. - Chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của VKS còn được thể hiện thông qua việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết nguồn tin tội phạm; và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS. Đây là các quyền độc lập của VKS nhưng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Vì nếu chỉ có quyền giám sát mà không có quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT thì quyền yêu cầu của VKS chỉ là hình thức; ngược lại, kết quả thực hiện quyền giám sát là tiền đề để VKS thực hiện quyền yêu cầu, quyền hủy bỏ. Không phải lúc nào VKS cũng thực hiện đầy đủ các quyền năng trên, nhất là khi hoạt động điều tra đã tuân thủ các quy định của pháp luật thì VKS chỉ thực hiện quyền giám sát đối với CQĐT; khi CQĐT tiến hành điều tra vụ án chưa đầy đủ hoặc có hoạt động tố tụng không có căn cứ, VKS sẽ thực hiện cả quyền giám 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan