Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt na...

Tài liệu Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh lai châu (luận văn thạc sĩ)

.PDF
91
106
141

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÒ THỊ THOA KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LAI CHÂU LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÒ THỊ THOA KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶNTHEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LAI CHÂU Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MẠNH HÙNG HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lò Thị Thoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT NAM VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................. 9 1.1 Khái niệm, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn........................................ 9 1.2. Cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn ................ 14 1.3. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự ....................................................................................... 16 1.4. Vai trò, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn và kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn ........................................................................................ 24 1.5. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015......... 27 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ................................................................................................ 36 2.1. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt ....................................................... 36 2.2. Kiểm sát việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ ................................................... 40 2.3. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam, bắt tạm giam ...................... 41 2.4. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.................................................................................................... 45 2.5. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt tạm giam người bị dẫn độ ............. 47 2.6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam .................... 49 2.7. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú......................... 51 2.8. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh ............................................... 51 2.9. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm .................................................................................................................. 52 2.10. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm hoãn xuất cảnh ......... 53 2.11. Kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp ngăn chặn ............... 53 Chương 3 THỰC TIỄN KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI TỈNH LAI CHÂU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ................................................................................................ 55 3.1. Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại địa bàn tỉnh Lai Châu ................................................................................................... 55 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại địa bàn tỉnh Lai Châu................................ 71 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự BPNC Biện pháp ngăn chặn CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên KSV Kiểm sát viên TA Tòa án TAND Tòa án nhân dân THTT Tiến hành tố tụng TTHS Tố tụng hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Số lượt kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ......... 58 Bảng 3.2 Số lượt kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn chuyển từ tạm giữ sang các biện pháp ngăn chặn khác ................................................... 59 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định quan trọng của BLTTHS. Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt (bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ), tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, tạm hoãn xuất cảnh. Đây là các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với người bị tình nghi, người bị buộc tội nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, nghiêm minh người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án hình sự, góp phần áp dụng pháp luật đúng đắn, không để lọt người phạm tội và không làm oan người vô tội. Việc áp dụng BPNC thể hiện sự cưỡng chế mạnh mẽ, thái độ kiên quyết của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và kẻ phạm tội, khi áp dụng BPNC, nhất là các biện pháp như bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến các quyền con người, nếu áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng sẽ dẫn đến oan sai, xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngược lại, nếu không áp dụng các BPNC đối với người phạm tội dẫn đến việc bỏ trốn, tiếp tục gây án làm thiệt hại đến quyền con người và lợi ích của công dân, cộng đồng xã hội, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án, làm giảm sút uy tín, hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây ra sự hoài nghi của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực 1 hiện trong năm 2000 xác định rõ: “Tăng cường trách nhiệm của VKSND đối với công tác bắt, giam giữ. Việc bắt, giam phải được xem xét phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể. Đối với trường hợp bắt giam cũng được, không bắt giam cũng được thì không bắt giam. Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở địa phương nào thì trước hết VKSND ở địa phương đó chịu trách nhiệm”. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/10/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ: “Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật. Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong bắt giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình…”. Trong thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, đã không ít các trường hợp đáng tiếc xảy ra trong khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, dẫn đến hậu quả oan sai, lọt tội, vi phạm pháp luật, không những làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà ngược lại còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước. Những sai sót, vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên có một phần trách nhiệm và xuất phát từ những hạn chế, thiếu sót của VKSND trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam. Tăng cường trách nhiệm, không ngừng nâng cao vai trò, chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các BPNC, ngăn chặn, khắc phục việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, truy tố, xét xử oan sai, trái pháp luật, bỏ lọt tội phạm… đang đặt ra cho VKSND trọng trách năng nề trong tiến trình thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện đại, hiệu quả, nhân văn. 2 Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy định của BLTTHS về BPNC, về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn vẫn còn những bất cập, khó khăn trong thực hiện. Các yếu tố như cơ sở vật chất, con người cũng tác động, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam. Trước tình hình trên, việc nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về lý luận cũng như thực tiễn các quy định của pháp luật về BPNC, về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp dụng BPNC, nhằm tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC, đề ra những giải pháp hợp lý, góp phần hoàn thiện các quy định của BLTTHS về BPNC, đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất, tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lai Châu” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Biện pháp ngăn chặn là một nội dung quan trọng của BLTTHS, áp dụng BPNC là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền theo pháp luật, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Kiểm sát việc áp dụng BPNC là chức năng, nhiệm vụ của VKSND được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học pháp lý, nhiều tác giả nghiên cứu đề cập tới, có thể kể đến các công trình như: - Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”(năm 2005) của tác giả Nguyễn Văn Điệp [9]. 3 - Luận văn thạc sĩ“Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp tạm giam” (năm2006) của tác giả Phạm Duy Trường [28]. - Luận văn thạc sĩ“Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam” (năm 2010) của tác giả Lê Thanh Bình [3]. - Luận văn thạc sĩ: “Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Tô Thị Thu Trang, Khoa luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014 [27]. - Luận văn thạc sĩ: “Vai trò của viện kiểm sát trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố: thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Kiều Diễm, Khoa luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014 [6]. - Luận văn thạc sĩ:“Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” của tác giả Phan Thị Thanh Nga, năm 2015 [15]. - Luận văn thạc sĩ:“Kiểm sát áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn Công Vang, Viện Hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội năm 2017 [31]. Đề tài khoa học cấp Bộ -“Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2008) của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao [33]. - “Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 7/2005 [24]. - “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Phạm Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 21/2007 [12], 4 -“ Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS năm 2003” của PGS.TS Nguyễn Đức Thuận đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008 [26]. - “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam” của tác giả Dương Ngọc An đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14/2012 [1]. - “Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng có thẩm quyền quyết định áp dụng tạm giam” của TS. Đỗ Văn Đương đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 19/2012 [7]. Các công trình Bình luận khoa học BLTTHS [13], các tài liệu, giáo trình giảng dạy như Giáo trình Luật TTHS của các trường Đại học như: Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Cảnh sát nhân dân, Đại học kiểm sát Hà Nội [28,29]. Nhìn chung, các công trình trên đều nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn nói chung hoặc nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến BPNC, trong đó có nghiên cứu về kiểm sát việc áp dụng BPNC. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của mình, học viên trình bày trong Luận văn cơ sở lý luận, nội dung kiểm sát việc áp dụng BPNC và thực tiễn công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC ở địa bàn tỉnh Lai Châu, đưa ra nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC ở địa phương mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật TTHSVN về biện pháp ngăn chặn, về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng, Luận văn đưa ra khái niệm 5 về biện pháp ngăn chặn, kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Lai Châu, từ đó kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về các BPNC và đưa ra một số giải pháp tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC trong TTHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ: Xác định rõ khái niệm và nội dung kiểm sát việc áp dụng các BPNC theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật về kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu để làm rõ những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện những quy định này. Từ việc đánh giá thực trạng áp dụng, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau: - Khái niệm, nội dung công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc áp dụng các BPNC. - Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc kiểm sát việc áp dụng các BPNC và thực tiễn áp dụng những quy định 6 này từ năm 2013 đến năm 2017 trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Luận văn không nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát quân sự, cũng như một số vấn đề khác có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Cơ sở lý luận để tác giả nghiên cứu đề tài dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự kết hợp với các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, logic, khảo sát thực tế, thống kê, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng của VKSND và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc áp dụng BPNC để luận giải, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, thực tiễn để hoàn thành Luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp và hoàn thiện cơ sở lý luận, quan điểm pháp lý thống nhất về BPNC, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC, thực hiện đúng đắn pháp luật tố tụng hình sự về bắt, tạm giữ, tạm giam và các BPNC khác trên địa bàn tỉnh Lai Châu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thông qua các kết quả nghiên cứu, các đề xuất, giải pháp được áp dụng sẽ góp phần tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC trong thực tiễn, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm sát việc áp dụng các BPNC, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới. 7 Kết quả nghiên cứu của Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập cho cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhất là tại địa bàn tỉnh Lai Châu. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn bao gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp Việt Nam về kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Chương 3: Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại tỉnh Lai Châu và các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT NAM VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn 1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn Theo Từ điển Tiếng Việt, “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”. Ngăn chặn là “chặn lại từ đầu, không để cho gây tác hại” [4]. Trong giới luật học của Việt Nam, có rất nhiều ý kiến về BPNC. Theo tác giả Nguyễn Duy Lãm thì: “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính chất cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhằm phòng ngừa, ngăn chặn hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án, bảo đảm thực hiện đúng đắn các nhiệm vụ của tố tụng hình sự” [14, Tr.37]. Theo đó các BPNC là các biện pháp có tính cưỡng chế đối với người phạm tội, nhằm ngăn ngừa các hành vi gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, theo học viên thì ý kiến này chưa nêu đủ các đối tượng và cơ quan có thẩm quyền áp dụng BPNC cũng như mục đích áp dụng. Theo tác giả Bình Nguyên thì: “Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong hoạt động tố tụng hình sự là những biện pháp do luật định được thực hiện khi xét thấy cần thiết nhằm ngăn chặn người phạm tội đang có hành vi thực hiện tội phạm hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm, loại trừ việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và ngăn ngừa bị can, bị cáo, người bị kết án trốn tránh để bảo đảm cho việc thi hành án được thực hiện”[16, Tr.98]. Theo học viên thì khái niệm này đã nêu rõ được mục đích và sự cần thiết của các BPNC, nhằm phân biệt với các biện pháp cưỡng chế khác như: khám xét người, 9 dẫn giải người làm chứng, kê biên tài sản,…tuy nhiên, cũng chưa nêu rõ chủ thể nào có quyền áp dụng BPNC. Cũng có ý kiến cho rằng “Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả với người bị án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội” [38, Tr.502-503]. So với các khái niệm đã nêu, học viên nhận thấy khái niệm này đã tiếp cận đầy đủ hơn nội dung của các BPNC, nêu rõ được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng, đối tượng và căn cứ áp dụng BPNC. Tuy nhiên, chưa nêu đầy đủ về các chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC do pháp luật quy định. Nhìn chung, các quan điểm trên đã nêu lên được một số khía cạnh về khái niệm BPNC nhưng chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng được tất cả các đặc điểm của BPNC. Do vậy, để có cơ sở cho việc đưa ra khái niệm chính xác về BPNC chặn, cần phải tìm hiểu các dấu hiệu đặc trưng của nó và thể hiện ở nội dung, căn cứ, mục đích áp dụng, người có thẩm quyền áp dụng và đối tượng có thể bị áp dụng BPNC. Theo học viên, khái niệm biện pháp ngăn chặn như sau: Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế do pháp luật tố tụng hình sự quy định gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án hoặc do những người có thẩm quyền hay bất kỳ ai được luật tố tụng hình sự quy định và cho phép có quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có những hành động gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 (Điều 79 BLTTHS 2003), thì các BPNC được áp dụng nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc bảo đảm cho 10 công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án. Như vậy, việc áp dụng BPNC nhằm các mục đích sau đây: Một là, ngăn ngừa tội phạm, bao gồm: - Ngăn chặn không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra; - Ngăn chặn không cho hành vi phạm tội đang được thực hiện tiếp tục tiếp diễn; - Ngăn ngừa người phạm tội có thể thực hiện tội phạm mới như trường hợp bắt giữ người phạm tội đang đe dọa trả thù những người biết về sự việc phạm tội của họ, nhằm mục đích ngăn không để cho người đó phạm tội mới với hành vi trả thù. Hai là, đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án Các BPNC được áp dụng bảo đảm các điều kiện pháp lý cho hoạt động tố tụng hình sự theo đúng các quy định của pháp luật (bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án trong hoạt động tố tụng khi cần thiết). Cũng như bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng (bảo đảm bí mật điều tra, không cho bị can, bị cáo có điều kiện thông cung)… Tóm lại, mục đích của BPNC trong tố tụng hình sự là ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm thi hành án như Điều 109 BLTTHS 2015 (và Điều 79 BLTTHS 2003) đã quy định. 1.1.2. Về căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn Các BPNC trong tố tụng hình sự do CQĐT, VKS, TA có thể áp dụng trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Đối với một số BPNC được áp dụng trước giai đoạn điều tra hoặc để phục vụ cho công tác điều tra ban đầu thì ngoài những người có thẩm quyền trong cơ quan điều tra áp dụng còn có một số người không thuộc cơ quan điều tra áp dụng như: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng (Điều 81 BLTTHS 11 2003) và bổ sung thêm những người có thẩm quyền sau: Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng và trong trường hợp phạm tội quả tang, người trốn truy nã thì người nào cũng có thẩm quyền áp dụng (điểm b khoản Điều 110 BLTTHS năm 2015 mới bổ sung thêm). Căn cứ áp dụng các BPNC là những cơ sở pháp lý do BLTTHS quy định cho phép người có thẩm quyền áp dụng lần đầu tiên đối với bị can và trong một số trường hợp đối với người chưa bị khởi tố bị can một trong những BPNC được quy định trong BLTTHS. Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 có các BPNC: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh. Theo đó thì căn cứ áp dụng BPNC bao gồm ba căn cứ sau: Một là, khi cần phải kịp thời ngăn chặn tội phạm. Kịp thời ngăn chặn tội phạm, là ngăn ngừa, không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra hoặc không cho tội phạm đang được thực hiện tiếp tục thực hiện. Do vậy, căn cứ này thường được áp dụng đối với người chưa bị khởi tố bị can trong những trường hợp sau: - Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức là người đó tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm gây nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 07 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 12 - Khi một người đang thực hiện một tội phạm, tức là hành vi phạm tội của người đó đã bắt đầu được thực hiện nhưng chưa kết thúc. Ngăn chặn tội phạm trong trường hợp này là để ngăn cản không cho người phạm tội thực hiện đến cùng hành vi phạm tội của mình. Hai là, khi có căn cứ, chứng tỏ người phạm tội sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Kịp thời bắt giữ người phạm tội có ý nghĩa rất lớn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án, nếu không kịp thời bắt giữ, người phạm tội có thể trốn, tiêu hủy, thay đổi chứng cứ vụ án, xóa bỏ các dấu vết của vụ án,… và việc xác định sự thật của vụ án sẽ khó khăn, phức tạp. - Căn cứ này có thể áp dụng trước khi khởi tố vụ án, hay trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Do vậy, đối tượng áp dụng khá rộng, bao gồm: + Chưa khởi tố bị can, đây là căn cứ để giữ và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 (điểm a, Khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003) + Khi người cùng thực hiện tội phạm, bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 (điểm b khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003). + Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Căn cứ này cũng vận dụng để áp dụng BPNC đối với những người “ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt”, cũng như người đang bị truy nã, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 (điểm c khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003). - Sau khi khởi tố bị can, trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm thi hành án thì có thể áp dụng căn cứ này để tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, cho bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan