Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm ...

Tài liệu Kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh nam định)

.PDF
112
269
141

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HƢƠNG GIANG KIÓM S¸T Vµ THùC HµNH QUYÒN C¤NG Tè TRONG GIAI §O¹N §IÒU TRA C¸C Vô ¸N X¢M PH¹M T×NH DôC (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HƢƠNG GIANG KIÓM S¸T Vµ THùC HµNH QUYÒN C¤NG Tè TRONG GIAI §O¹N §IÒU TRA C¸C Vô ¸N X¢M PH¹M T×NH DôC (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh) Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN ĐỖ THỊ HƢƠNG GIANG MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC ....................................................................................... 6 1.1. Khái quát về kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và các tội phạm xâm phạm tình dục ............................................6 1.1.1. Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra ..................................................................................6 1.1.2. Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tình dục trong Bộ luật hình sự Việt Nam ............................................................14 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa, nội dung hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục..............................................................................................18 1.2.1. Khái niệm, vai trò, ý nghĩa hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ...................18 1.2.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ................................21 1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ................................23 Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................27 Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ..................................28 2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ..........................................................................28 2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến trước năm 2003 về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ................................28 2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục theo Bộ Luật tố tụng hình sự 2003.......................................................................32 2.1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục theo Bộ Luật tố tụng hình sự 2015.......................................................................48 2.2. Thực tiễn hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định ......................................................................49 2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định và tình hình tội phạm về xâm phạm tình dục ở tỉnh Nam Định...................................................................49 2.2.2. Tình hình hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định ..............................................................................................59 2.2.3. Nhận xét, đánh giá .......................................................................................67 Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................79 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC KIỂM SÁT VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .........................................................80 3.1. Dự báo những yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định .......................................................80 3.1.1. Dự báo về tội phạm tình dục trong thời gian tới ..........................................80 3.1.2. Yêu cầu đặt ra đối với công tác điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định ..................................................81 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định ....................................83 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm xâm phạm tình dục ...............................................................................................83 3.2.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện và triển khai pháp luật tố tụng về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra ..........................................................................................................84 3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ..........89 Kết luận Chƣơng 3 ..................................................................................................98 KẾT LUẬN ..............................................................................................................99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................101 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra KSHĐTP: Kiểm sát hoạt động tư pháp KSV: Kiểm sát viên THQCT: Thực hành quyền công tố TNHS: Trách nhiệm hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: số vụ án hình sự đã xảy ra từ năm 2011- 2015 trên địa bàn tỉnh Nam Định Bảng 2.2: Số vụ án và bị can phạm tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2011 – 2015 54 55 Bảng 2.3: Số vụ và người phạm tội bị khởi tố theo từng tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2011 -2015 55 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Viện kiểm sát nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của VKSND nói riêng, đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng nên từ khi thành lập Ngành đến nay, việc tăng cường trách nhiệm, nâng cao chất lượng công tố của VKSND trong quá trình điều tra là chủ trương nhất quán, xuyên suốt cuả Đảng và Nhà nước ta trong suốt hơn 50 năm qua. Các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp trong những năm gần đây có những chủ trương hết sức quan trọng về trách nhiệm công tố của VKS trong giai đoạn điều tra. Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh: VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời các trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ [6]. Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đặt ra nội dung “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” [7]; Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra” [8]. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả các chức năng thực hành quyền công tố và 1 kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [9]. Đến nay, sau nhiều năm triển khai thực hiện các nghị quyết trên của Đảng, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của ngành kiểm sát nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Với số lượng lớn các vụ án hình sự được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng kịp thời bảo đảm sự nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đã khắc phục phần nào trong việc lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt oan, sai, tỷ lệ bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao, công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh phòng chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt, đã và đang giải quyết được nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng. Những năm vừa qua, trên địa bàn Nam Định tình hình tội phạm nói chung, tội xâm phạm tình dục nói riêng có diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng về số lượng và tính chất nghiêm trọng gây ra những hậu quả lớn không những đối với nạn nhân mà còn cho xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động tố tụng giải quyết vụ án đã chỉ ra: Vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT còn nhiều hạn chế … dẫn đến hiện tượng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, chưa phát hiện, uốn nắn kịp thời các vi phạm trong hoạt động điều tra đối với loại tội phạm này. Vì vậy, tăng cường hiệu quả kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND về loại tội phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Chính vì lý do trên học viên chọn đề tài: “Kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ta hiện nay, liên quan đến hoạt động THQCT và KSĐT, tác giả cũng đã tiếp cận, tham khảo được một số công trình nghiên cứu sau: - “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản tư pháp, 2005; 2 - Luận án tiến sĩ Luật học “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị tuyết Hoa; Hà Nội, năm 2002; - Luận văn thạc sỹ luật học của các tác giả như: Nguyễn Hải Phong (1999) “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam”; Nguyễn Hiệp Phố (1999), “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra hình sự”. Về vấn đề các tội phạm về xâm phạm tình dục có thể kể đến các công trình nghiên cứu như sau: Luận văn thạc sỹ luật học (2014) của Nguyễn Minh Hương: “Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam”. Như vậy, qua đánh giá khái quát chủ yếu các công trình nghiên cứu và bài viết mang tính khái quát, toàn diện về chức năng THQCT và KSĐT của ngành kiểm sát nhân dân mà chưa có nhiều chuyên khảo nghiên cứu về THQCT và KSĐT các loại tội cụ thể. Điều này càng khẳng định thêm ý nghĩa khi chọn đề tài của tác giả. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu và góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của VKSND, thực tiễn áp dụng đối với các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra, đặc biệt là các vụ án về xâm phạm tình dục. - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong hoạt động THQCT và KSHĐTP trong 3 giai đoạn điều tra, đặc biệt là trong việc THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Trong khuôn khổ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án xâm phạm tình dục. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động kiểm sát và THQCT các vụ án xâm phạm tình dục trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh Nam Định. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước về cải cách tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới đóng góp của luận văn Luận văn đã khảo cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục. Luận văn đánh giá kết quả, phân tích những hạn chế trong hoạt động của VKSND khi kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục, thông qua đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của VKSND trong hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả của luận văn góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận về hoạt động của VKSND khi THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục, góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự và khoa học điều tra hình sự. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan điều điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục. Chương 2: Pháp luật và thực tiễn hoạt động thực hành công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC 1.1. Khái quát về kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và các tội phạm xâm phạm tình dục 1.1.1. Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra 1.1.1.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra a. Khái niệm quyền công tố Để hiểu rõ về thực hành quyền công tố, trước hết cần tìm hiểu: Quyền công tố là một hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng đối với người phạm tội đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước, nó ra đời, tồn tại và mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền công tố chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay đổi. Lợi ích cá nhân liên quan đến lợi ích công, tác động qua lại với nhau, chính vì vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống cá nhân. Từ đó vai trò của công tố càng được đề cao trong xã hội. Ở nước ta, về mặt lập pháp, thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp 1980 khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Từ đó đến nay, trong khoa học và trong thực tiễn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về khái niệm cũng như các vấn đề có liên quan: Đối tượng, phạm vi, nội dung, chủ thể thực hành của quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố nhưng chưa có quan điểm nào được các cơ quan có thẩm quyền chính thức 6 công nhận và cũng chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn một cách chính thức các vấn đề này. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án” [51, tr. 453]. Theo từ điển luật học định nghĩa về “quyền công tố” như sau: “Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội” [41, tr. 188]. Trong giới nghiên cứu khoa học, có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều quan điểm khác nhau như: Quan điểm thứ nhất: Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND (trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND để xem xét quyền công tố, theo đó tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là THQCT. Điều này có nghĩa ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu cơ quan nhà nước sửa chữa những vi phạm trên lĩnh vực hành chính, kinh tế xã hội cũng là THQCT. Quan điểm này cho rằng: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [35, tr. 85-87]. Theo tôi khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên là chưa chính xác vì đã đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật đồng thời cũng không phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các luật. Theo quy định của pháp luật nước ta trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi thì VKS có hai chức năng: Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức năng THQCT. Hai chức năng này có một số nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, nhưng về nội dung và phạm vi áp dụng thì giữa chúng vấn có sự độc lập với nhau. Vì vậy không thể đồng nhất hai chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà (THQCT). Quan điểm này cho rằng việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự. Quan điểm này thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi của 7 quyền công tố (hoạt động khởi tố, điều tra không đề cập đến chức năng này) [46, tr.19]. Về lý luận cũng như trên thực tế, hoạt động THQCT của VKS tại Toà án chỉ là một bộ phận trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng THQCT của VKS. Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt Nhà nước bảo vệ lợi ích công, do vậy quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà có trong lĩnh vực tố tụng dân sự, hành chính [35, tr. 84-87]. Quan điểm này đã mở rộng khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố, đồng nhất quyền công tố với quyền năng khác của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, dân sự, hành chính… Những người theo quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực tố tụng dân sự và lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy của trường Đại học kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát. Theo tôi, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với các quyền năng khác của VKS trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…) Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [46, tr.10]. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội, cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội. Theo quan điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố không chỉ có ở VKS mà còn có ở các cơ quan tiến hành tố tụng khác (cơ quan điều tra, toà án, thi hành án). Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc tố tụng hình sự, đã xoá nhòa ranh giới giữa các chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự. 8 Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm Luật hành chính, Luật dân sự, Luật kinh tế, luật hình sự và quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó[ 46, tr.11]. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước, Nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời là chủ thể tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Như vậy, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật: Tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu khách quan, vì Nhà nước không thể không thực hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật và sự hiện diện công tố như một điều kiện bảo đảm tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ quan tài phán. Do đó quyền công tố được thể hiện ở nhiều phương diện như quyền khởi tố vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, hình sự và tham gia tố tụng ở bất cứ giai đoạn nào khi thấy cần thiết… Theo tôi, quan điểm này không phù hợp với thực tế vì trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế, lao động phải tôn trọng nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Chỉ khi nào cần thiết (theo quy định tố tụng từng lĩnh vực) thì VKS mới tham gia theo thẩm quyền. Những quan điểm nêu trên về quyền công tố, mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là hoạt động độc lập của VKSND; hoặc là đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, dẫn đến mở rộng quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự như dân sự, hành chính, kinh tế, lao động; hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của VKS truy tố kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện việc buộc tội tại phiên toà hình sự sơ thẩm. 9 Như vậy, có thể hiểu: Quyền công tố: là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Toà án bằng bản Cáo trạng và bảo vệ sự buộc tội tại phiên toà. Vì vậy, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự, với đối tượng là tội phạm và người phạm tội [12, tr. 40]. Quan điểm này đã thể hiện bản chất của quyền công tố, thứ nhất nó phù hợp với truyền thống nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật về quyền công tố. “Quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Quan điểm này cũng phù hợp với quy định của pháp luật Nhà nước ta qua các thời kỳ khác nhau về quyền công tố như: Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta đều khẳng định VKSND thực hành quyền công tố…”. Như vậy, từ những nội dung trình bày trên, tác giả đi đến kết luận: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện các quyền năng theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, trên cơ sở bảo đảm việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Với nhận thức quyền công tố như đã nêu trên, theo tôi đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Bởi vì, trong bất kỳ xã hội nào cũng vậy, tội phạm luôn là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước, đến an ninh chung của xã hội. Khi có tội phạm xảy ra, Nhà nước (thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng gánh những hậu quả bất lợi do các chế tài luật hình sự đặt ra. Đây là những chế tài nghiêm khắc nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ và những người khác ý thức tuân thủ pháp luật. Đối với nội dung quyền công tố, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng: nội dung của quyền công tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm. 10 Phạm vi quyền công tố bắt đầu khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. b. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: THQCT ở giai đoạn điều tra là một bộ phận cấu thành hoạt động THQCT của VKSND. Bởi vậy, trước tiên chúng ta làm rõ khái niệm THQCT nói chung. Như phân tích trên, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu TNHS đối với người có hành vi phạm tội, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, tiếp diễn từ khởi tố, điều tra, truy tố bị can ra Toà, tranh tụng tại phiên toà và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc khi có một căn cứ làm triệt tiêu quyền công tố theo quy định của pháp luật). Để thực hiện được quyền công tố đó, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Cơ quan nào được Nhà nước giao thực hiện các quyền năng pháp lý này để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội được gọi là cơ quan có trách nhiệm THQCT. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho duy nhất là hệ thống cơ quan VKS. Vậy chủ thể THQCT ở nước ta là VKSND. Từ những nhận thức nêu trên, tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [46, tr.27]. Phạm vi thực hành quyền công tố: Để xác định được chính xác phạm vi THQCT, cần xem xét đến phạm vi của quyền công tố, bởi vì quyền công tố là cơ sở, là nền tảng để THQCT. Ở phần trên đã làm rõ, cứ có tội phạm xảy ra thì phát sinh quyền công tố. Vậy phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ như: Tin báo, tố giác của cá nhân, cơ quan, tổ chức; kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức; Cơ quan có thẩm quyền tiến 11 hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu vết tội phạm; Người phạm tội tự thú. Phạm vi thực hành quyền công tố kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp vụ án đình chỉ). Tùy từng giai đoạn tố tụng hình sự mà VKS thực hiện chức năng THQCT cho phù hợp với quy định của pháp luật như: THQCT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Qua các nội dung đã phân tích ở trên có thể khái niệm: THQCT trong giai đoạn điều tra là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS. 1.1.1.2. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra a) Hoạt động tư pháp. Cơ quan tư pháp ở nước ta bao gồm: cơ quan điều tra, VKS, Tòa án và cơ quan thi hành án. Vậy hoạt động tư pháp phải được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là tất cả mọi hoạt động do cơ quan tư pháp tiến hành đều là hoạt động tư pháp mà chỉ là hoạt động tư pháp nếu hoạt động đó gắn liền với việc giải quyết một vụ án, một tranh chấp cụ thể. Như vậy, hoạt động tư pháp phải hội tụ đủ hai yếu tố: Hoạt động đó phải do các cơ quan tư pháp thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, mục đích của hoạt động là nhằm đảm bảo việc giải quyết một vụ án hình sự, vụ tranh chấp cụ thể một cách có căn cứ, đúng pháp luật. b) Kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo quy định của pháp luật, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn liền với các lĩnh vực khác nhau bao gồm kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và tố tụng tư pháp khác trong lĩnh vực giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động. Gắn liền với TTHS là các khâu công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra- kiểm sát 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan