Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thôn...

Tài liệu Kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
86
180
105

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ NHÂM KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN NGỌC HƯƠNG HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu ghi trong luận văn là trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2018 Tác giả Trần Thị Nhâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VÀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG ...................................................................................................................8 1.1. Lý luận chung về công tác khám nghiệm hiện trường .........................................8 1.2. Lý luận chung về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường .......................19 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .....................32 2.1. Đặc điểm giao thông đường bộ và tình hình tội phạm vi phạm quy định tham gia giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội ..........................................................32 2.2.Tổ chức bộ máy hai cấp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội ........................................................35 2.3 Thực trạng công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường(khám nghiệm tử thi, khám phương tiện) vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên thành phố Hà Nội trong thời gian qua ...............................................................36 2.4. Công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội với các cơ quan liên quan trong công tác giải quyết việc khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ .........................................................38 2.5. Đánh giá công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án (khám nghiệm tử thi, khám phương tiện) về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................................................................40 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ....................................................................................................................50 3.1. Các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố hà nội thời gian tới ...............................................................................................................50 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi các vụ án hình sự nói chung, các vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng .....................................61 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................79 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BCA : Bộ công an BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên KSĐT : Kiểm sát điều tra KSV : Kiểm sát viên THQCT : Thực hành quyền công tố VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, tình hình tai nạn giao thông đường bộ diễn biến phức tạp theo chiều hướng gia tăng, trong đó có nhiều vụ vi phạm nghiêm trọng Luật giao thông đường bộ gây hậu quả chết nhiều người, thiệt hại đến sức khoẻ, tài sản của công dân, của các cơ quan tổ chức... dẫn đến phải khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ tai nạn giao thông có được nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật phụ thuộc rất quan trọng đến công tác khám nghiện hiện trường, đây là yếu tố quyết định vì nó xác định người tham gia giao thông có lỗi hay không có lỗi, để quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự hay không và áp dụng mức hình phạt. Trong việc khám nghiệm hiện trường trách nhiệm chủ yếu thuộc về Cơ quan điều tra để phát hiện, thu thập dấu vết các phương tiện giao thông, dấu vết con người, để lại nơi gây tai nạn nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ tai nạn giao thông một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông, Viện kiểm sát có vai trò quan trọng. Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rõ: “Trước khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian, địa điểm tiến hành khám nghiệm để cử Kiểm sát viên kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát khám nghiệm hiện trường....[12]”. Thông qua hoạt động này, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo đảm cho việc khám nghiệm hiện trường của Cơ quan điều tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật, phản ánh đúng thực tế các tình tiết của vụ tai nạn xảy ra. Là cơ sở quan trọng để Cơ quan điều tra ra các quyết định tiếp theo phù hợp với diễn biến tính chất, mức độ của vụ việc hình sự và là căn cứ vững chắc để Viện kiểm sát phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra. 1 Thực tế ở thành phố Hà Nội cho thấy: Có rất nhiều vụ án công tác khám nghiệm hiện trường do không làm tốt việc thu thập dấu vết, vật chứng chưa đầy đủ dẫn đến quá trình giải quyết vụ án kéo dài, có những vụ việc mà điều tra lại cũng không thể khắc phục được, thực tế nhiều vụ án phải sửa, huỷ không xử lý được. Trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay, các Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát đối với hoạt động điều tra trong đó có hoạt động khám nghiệm hiện trường. Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về: “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã chỉ rõ: Viện kiểm sát phải thực hành quyền công tố ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình điều tra nhằm không bỏ lọt người, lọt tội phạm, không làm oan người vô tội [5];Nghị quyết số 49 ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về: “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nêu: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra [3]; Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định: Phải xây dựng cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường nói chung và kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường bộ nói riêng là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát. Do vậy, cần nghiên cứu, đổi mới nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác này. Để làm tốt công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường nói chung và kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông nói riêng, Kiểm sát viên phải nhận thức đúng vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình trong hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường cũng như nắm vững các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, quy trình khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, có những hiểu biết cơ bản, nâng cao về các biện pháp nghiệp vụ sẽ được sử dụng trong quá trình khám nghiệm đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động khám nghiệm hiện trường. 2 Vì các lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ của mình nhằm làm rõ hơn về lý luận cũng như thực tiễn đối với công tác này là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài này hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu sau: - Bùi Quang Anh: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2007 [1]. - Hoàng Đình Ban “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, xử lý tai nạn giao thông đường bộ của Công an thành phố Hà Nội”[4]. - Đoàn Phúc Thịnh “Hoạt động phòng ngừa, điều tra tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Quân đội nhân dân, thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả”[14] - Lê Hải Âu: “Tổ chức hoạt động khám nghiệm hiện trường có người chết chưa rõ nguyên nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2003 [2]. - Nguyễn Đức Niên: “Tổ chức khám nghiệm hiện trường có người chết trên địa bàn tỉnh Hà Giang của Cảnh sát điều tra và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2004 [10] - Nguyễn Vĩnh Hà: “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám nghiệm hiện trường các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Phú Yên”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2005 [6] 3 - Ngô Xuân Khang, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh: “Kiểm sát điều tra tại hiện trường trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, năm2013 [7]. - Vũ Văn Kiền “Tổ chức hoạt động điều tra các vụ án vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng” [9]. - Phạm Xuân Khoa “Kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi trong giải quyết các vụ án xâm phạm trật tự xã hội”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt nam, năm 2014 [8]. -Hồ Văn Lai “Điều tra, khám phá các vụ vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” [18]. -Trần Văn Sơn “Phòng ngừa và điều tra tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên tuyến quốc lộ 1A của Cảnh sát nhân dân công an tỉnh Hà Tĩnh” [19]. -Cục cảnh sát đường bộ, đường sắt…chuyên đề: “Tai nạn giao thông, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” [20]. Đề tài cấp Bộ “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tình hình hiện nay” Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, năm 2014 [15]. Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến đề tài này. Tuy nhiên, mới chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất, phân tích, tìm hiểu các quy định của pháp luật hoặc nghiên cứu dưới dạng đơn lẻ, giới hạn trong từng loại án giết người, giao thông ở một số địa bàn khác…đến nay chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu một cách có hệ thống công tác“Kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp luật về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường trong giải quyết các vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường trong giải quyết các vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3.2.Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác khám nghiệm hiện trường và công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường trong giải quyết các vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Đánh giá đúng thực trạng của công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường từ đó chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế, tồn tại, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại để đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường trong giải quyết các vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường trong giải quyết các vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường trong giải quyết các vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với thời điểm 05 năm (từ 2013 đến 2017) 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, của ngành Kiểm sát nhân dân về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường. Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: các phương pháp phân tích, hệ thống, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, thống kê, đối chiếu, chứng minh, khảo sát thực tiễn, diễn giải, quy nạp, trao đổi chuyên gia… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường trong giải quyết các vụ án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ nói chung trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêngcho đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp khi được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án về vi phạm các quy định tham gia giao thông đường bộ trong giai đoạn hiện nay và sắp tới. Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên đề về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường tại Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội và tại Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát Thành phố Hồ Chí Minhcũng như các khóa tập huấn chuyên sâu của ngành Kiểm sát nhân dân. 6 Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể được sử dụng để xây dựng các kỹ năng nghề nghiệp, các thao tác nghiệp vụ để phục vụ công tác thực tiễn tại các Viện kiểm sát nhân dân. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Lý luận chung về công tác khám nghiệm hiện trường và công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Chương 2. Thực trạng công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Chương 3.Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội trong thời gian tới 7 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VÀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG 1.1. Lý luận chung về công tác khám nghiệm hiện trường 1.1.1. Khái niệm hiện trường, khái niệm khám nghiệm hiện trường và phân loại hiện trường 1.1.1.1. Khái niệm hiện trường, khái niệm khám nghiệm hiện trường Hiện nay khái niệm hiện trường được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và quan điểm khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, năm 2001: “Hiện trường là nơi xảy ra sự việc”[17]. Khái niệm này đã chỉ rõ được không gian của hiện trường mà việc định vị được hiện trường có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức khám nghiệm hiện trường để thu thập dấu vết hình sự. Tuy nhiên, phạm vi của khái niệm này quá rộng và không chỉ rõ được tính chất của sự việc xảy ra đó là sự việc gì. Nội dung của khái niệm đã chỉ ra bản chất của hiện trường: Hiện trường phải là “nơi”, tức là phải có sự tồn tại của một địa điểm nhất định trong không gian. Sự việc xảy ra phải được tồn tại ở một địa điểm nào đó trong không gian và phải có một thời gian nhất định cho sự việc xảy ra.Bởi lẽ, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không thể vận động, tồn tại ngoài không gian và thời gian. Phải có sự việc xảy ra.Trong khái niệm này sự việc xảy ra có thể là sự việc mang tính bất kỳ.Từ khái niệm này có thể khẳng định rằng mỗi sự việc, hiện tượng trong hiện thực khách quan thì đều có hiện trường. Vì vậy, trong thực tiễn cuộc sống thuật ngữ này được sử dụng rất phổ biến trong nhiều lĩnh vực. Khái niệm này chưa chỉ rõ được tính chất của sự việc, hiện tượng xảy ra nên nó mang tính khái quát cao và chưa làm rõ được bản chất của hiện trường trong khoa học hình sự. 8 Khái niệm hiện trường trong từ điển nghiệp vụ phổ thông Công an nhân dân: “Hiện trường là nơi xảy ra sự việc (án, tai nạn…) nơi còn để lại dấu vết, vật chứng…có liên quan trực tiếp tới tội phạm, mà cơ quan công an cần kịp thời đến tận nơi xem xét, thu lượm dấu vết để nghiên cứu”; Sách chuyên khảo Bảo vệ và khám nghiệm hiện trường cho rằng hiện trường là: “nơi xảy ra, nơi phát hiện một hành vi vi phạm pháp luật”. Dưới góc độ của Luật Tố tụng hình sự quy định tại Điều 201BLTTHS quy định: “Điều tra viên chủ trì tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm để phát hiện dấu vết của tội phạm, thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khác liên quan và làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án”. [11] Với quy định trên có thể hiểu hiện trường là nơi xảy ra hành vi tội phạm hoặc là nơi phát hiện tội phạm. Khái niệm này chỉ ra rằng: Hiện trường là “nơi” tức là phải có một địa điểm nhất định trong một không gian và thời gian nhất định. Tại “nơi” đó có chứa đựng các dấu vết, vật chứng của tội phạm hoặc liên quan đến tội phạm. Khái niệm này đã rơi vào nhận định chủ quan rằng: vụ việc xảy ra ở hiện trường phải là tội phạm, tức là phải thỏa mãn các quy định về tội phạm của Bộ luật Hình sự.Trong thực tiễn, nhiều vụ việc xảy ra Điều tra viên chưa có đủ thông tin ban đầu để xác định được tính chất, mức độ của vụ việc nên chưa thể khẳng định được đâu là hiện trường xảy ra tội phạm hoặc đó có phải là nơi phát hiện ra tội phạm hay không.Việc xác định vụ việc xảy ra có phải là tội phạm hay không chủ yếu dựa vào kết quả của quá trình khám nghiệm hiện trường. Ví dụ: Tại một hiện trường có tử thi phải trải qua công tác khám nghiệm hiện trường mới xác định được nguyên nhân ban đầu về cái chết và chỉ khi xác định được nguyên nhân của cái chết là do hành vi giết người gây nên thì mới có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Khái niệm hiệm trường trong Khoa học hình sự có nội dung rộng hơn trong BLTTHS, cụ thể là: “Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện sự việc 9 mang tính hình sự”[12]. Khái niệm này mang tính khái quát cao và đảm bảo tính khách quan. Trước hết, phải xác định hiện trường là “nơi” xảy ra, “nơi” phát hiện sự việc mang tính chất hình sự tức là nó phải gắn với một địa điểm với một khoảng không gian nhất định. Với quan điểm này, khái niệm hiện trường vừa mang tính khái quát của hiện trường nói chung là “nơi xảy ra sự việc”, vừa thể hiện được đặc điểm đặc trưng riêng của hiện trường trong khoa học điều tra hình sự là “sự việc mang tính hình sự”. Khái niệm này cũng khắc phục được hạn chế của khái niệm hiện trường được nêu trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu đứng trên góc độ triết học để nghiên cứu, xem xét về bản chất của khái niệm hiện trường, thì tự trong bản thân của khái niệm hiện trường, nó đã chỉ ra hình thức tồn tại khách quan của hiện trường với tư cách là một địa điểm “nơi”, và cũng chính điều đó nó đã thể hiện được tính tất nhiên của hiện trường. Nói cách khác: bất kỳ một sự việc mang tính hình sự nào xảy ra cũng đều phải có hiện trường và đã là hiện trường thì không thể tồn tại, vận động ngoài không gian và thời gian. Dù nghiên cứu khái niệm hiện trường ở góc độ nào đi nữa thì về bản chất hay hình thức cũng kế thừa quan điểm về hiện trường phổ thông nói chung với những thuộc tính cơ bản sau: Một là, Hiện trường là “nơi”. Có thể hiểu là một địa điểm nhất định trong không gian và có khoảng thời gian cho sự việc xảy ra. Hai là, phải có sự việc xảy ra. Sự việc này có thể là sự việc mang tính bất kỳ như sự việc hiện tượng liên quan đến lĩnh vực lao động, sản xuất, kinh doanh, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình… Từ những thuộc tính cơ bản của hiện trường có thể chỉ ra thuộc tính của khái niệm hiện trường trong khoa học hình sự như sau: 10 Thứ nhất, hiện trường là “nơi”. Tức là phải gắn với một địa điểm đã được xác định cụ thể trong không gian và có khoảng thời gian nhất định để sự việc xảy ra. Thứ hai, tại “nơi” đó xảy ra sự việc mang tính hình sự. Thuộc tính thứ hai này đã phân biệt được rõ tính chất của hiện trường trong khoa học hình sự so với khái niệm hiện trường phổ thông. Với những phân tích trên có thể định nghĩa hiện trường trong khoa học hình sự như sau: “Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện sự việc mang tính hình sự”. Theo tác giả để làm rõ được khái niệm khám nghiệm hiện trường một cách chính xác, khoa học thì khái niệm hiện trường trong khoa học hình sự cần phải được nêu cụ thể hơn: Hiện trường là nơi xảy ra sự việc mang tính hình sự cần được quan tâm để phục vụ cho công việc điều tra làm rõ quá trình diễn biến và nguyên nhân của sự việc đó. Công tác khám nghiệm hiện trường được hiểu là việc Cơ quan điều tra tổ chức, lực lượng phương tiện tiếp cận hiện trường, tiến hành hoạt động khám nghiệm theo trình tự thủ tục đã quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Vậy có thể nêu khái niệm khám nghiệm hiện trường như sau: Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra được tiến hành tại hiện trường nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, nghiên cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài liệu có liên quan trực tiếp tại hiện trường của các vụ phạm tội hoặc vụ việc có tính hình sự đã xảy ra phục vụ cho điều tra, xử lý tội phạm. 1.1.1.2. Phân loại hiện trường Trong qua trình điều tra một vụ án hình sự, việc phân loại hiện trường có ý nghĩa quan trọng giúp hoạt động điều tra tại hiện trường được tiến hành 11 một cách nhanh chóng và chính xác. Có thể phân loại hiện trường dựa vào những căn cứ sau đây: - Căn cứ vào nội dung, tính chất vụ việc mang tính hình sự có thể phân thành những loại hiện trường sau: + Hiện trường có người chết; + Hiện trường trộm cắp tài sản; + Hiện trường cháy nổ; + Hiện trường cướp tài sản; + Hiện trường sự cố kỹ thuật; + Hiện trường hiếp dâm; + Hiện trường tai nạn (giao thông, lao động…)… Phân loại hiện trường theo cách này giúp CQĐT xác định được nơi và loại dấu vết tồn tại trên hiện trường cũng như xác định được những loại dấu vết nào cần được phát hiện và thu luợm, đồng thời giúp cho công việc thống kê tội phạm được nhanh chóng. Dấu vết bao giờ cũng được hình thành theo quy luật nhất định phù hợp với tính chất của sự việc xảy ra, chẳng hạn khi CQĐT xác định hiện trường một vụ án mạng mà nạn nhân bị tử vong do bị trúng đạn thì dấu vết cần phải tìm kiếm là vỏ đạn rơi lại tại hiện trường... hay hiện trường của các vụ trộm thường có các dấu vết vân tay, dấu giày dép, các dấu vết của dụng cụ phá cửa... Đây sẽ là những định hướng cho các cán bộ điều tra trong quá trình khám nghiệm hiện trường. - Căn cứ tình trạng hiện trường có thể phân hiện trường thành các loại: + Hiện trường còn nguyên vẹn: Là hiện trường từ khi xảy ra đến khi tiến hành khám nghiệm không bị thay đổi, mất mát, xáo trộn (hiểu theo nghĩa tương đối), do đó chưa ảnh hưởng tới dấu vết về độ chính xác và đầy đủ. 12 + Hiện trường xáo trộn: Là hiện trường đã bị thay đổi, biến đổi, mất mát so với thời điểm xảy ra sự việc phạm tội. Ví dụ: Hiện trường tai nạn giao thông, trộm cắp tài sản… + Hiện trường giả tạo: Là hiện trường đã bị thay đổi, nguy tạo nhằm mục đích đánh lạc hướng điều tra của cơ quan chức năng. - Căn cứ vào diễn biến của sự việc xảy ra: Một hiện trường có thể được tập trung ở một địa điểm, nhưng cũng có thể có nhiều địa điểm khác nhau, đó chính là những bộ phận của hiện trường. Số lượng những bộ phận của hiện trường nhiều hay ít phần lớn phụ thuộc vào diễn biến hành vi của kẻ phạm tội, do đó được chia thành: nơi chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội, nơi thực hiện hành vi phạm tội, nơi che giấu hành vi phạm tội. - Căn cứ vào không gian, địa điểm nơi xảy ra vụ việc hình sự có thể phân hiện trường thành các loại: + Hiện trường trong nhà: Là hiện trường được che chắn hay bao bọc xung quanh bởi các loại vải, phông bạt, mái che, tường nhà… (có mái che chắn bên trên hay được bao bọc xung quanh mà không kể đến chất liệu của mái che là tường vôi, vải dù hay mái rạ…). + Hiện trường ngoài trời: Là hiện trường không được che chắn, bảo vệ bởi bất cứ loại mái che nào. + Hiện trường vừa kết hợp trong nhà và ngoài trời; + Hiện trường trên cạn; + Hiện trường dưới nước; + Hiện trường trên các phương tiện giao thông… Các vụ việc hình sự thường xảy ra hết sức phong phú, đa dạng nên việc phân loại hiện trường chỉ mang tính tương đối.Việc phân loại hiện trường có ý nghĩa trong việc chủ động lực lượng, phương tiện bảo vệ và khám nghiệm.Đồng thời, giúp cho quá trình khám nghiệm hiện trường được nhanh chóng, chính xác, kịp thời và cũng là cơ sở để các cơ quan nghiên cứu tiến 13 hành thống kê hình sự tìm ra quy luật vận động của các loại vụ việc hình sự trong các thời gian khác nhau. 1.1.2. Cơ sở pháp lý và nhiệm vụ của công tác khám nghiệm hiện trường 1.1.2.1.Cơ sở pháp lý của công tác khám nhiệm hiện trường Công tác khám nghiệm hiện trường được hiểu là việc cơ quan điều tra tổ chức, lực lượng phương tiện tiếp cận hiện trường, tiến hành hoạt động khám nghiệm theo trình tự thủ tục đã quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Để công tác khám nghiệm hiện trường đạt kết quả, đáp ứng yêu cầu hoạt động điều tra và yêu cầu pháp lý, công tác khám nghiệm hiện trường phải dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định. Cơ sở pháp lý của công tác khám nghiệm hiện trường là các điều khoản được quy định trong BLTTHS; Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự; Chỉ thị số 02/CT-BCA ngày 6/2/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc tăng cường công tác khám nghiệm hiện trường. Quyết định số 57/QĐ-BCA ngày 6/2/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an kèm theo Quy chế phân công trách nhiệm giữa các lực lượng Công an nhân dân trong công tác khám nghiệm hiện trường. Ngoài những quy định chung, khi khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông đường bộ còn phải căn cứ vào Quy trình điều tra, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ - ban hành kèm theo Quyết định số 18/2007/QĐ-BCA (C11) ngày 05/01/2007. Từ những cơ sở pháp lý nêu trên có thể khái quát những quy định về công tác khám nghiệm hiện trường như sau: Các cơ quan được giao nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường bao gồm: Cơ quan điều tra của An ninh nhân dân, Cơ quan điều tra của Cảnh sát nhân dân, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như: Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, các cơ quan khác thuộc lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được quy định trong Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự được 14 phép tiến hành khám nghiệm hiện trường theo sự phân cấp về thụ lý các loại án hình sự. Người tiến hành khám nghiệm hiện trường: Theo quy định tại khoản 1 Điều 201 BLTTHS. Theo quan điểm của tác giả, quy định như vậy là chưa đầy đủ, chưa phù hợp với nội dung của Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bởi lẽ, Điều 164 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Như vậy, Điều 201 BLTTHS chưa quy định về thẩm quyền khám nghiệm hiện trường cho một số chủ thể khác không phải là Điều tra viên. Địa điểm khám nghiệm hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc có tính hình sự. Về thời điểm khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự và trong mọi trường hợp Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường. 1.1.2.2.Nhiệm vụ của công tác khám nghiệm hiện trường Công tác khám nghiệm hiện trường đặt ra những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Một là, ghi nhận vị trí, trạng thái và quang cảnh của hiện trường bằng cách: mô tả hiện trường vào trong biên bản khám nghiệm hiện trường, vẽ các loại sơ đồ hiện trường, chụp ảnh hiện trường. Hai là, điều tra thu thập, phân tích các thông tin có liên quan đến hiện trường có giá trị giúp cho việc đánh giá hiện trường và đề ra chiến thuật điều tra. Ba là, sử dụng các phương pháp, phương tiện kỹ thuật hình sự để phát hiện và thu lượm, bảo quản các dấu vết, vật chứng có tại hiện trường. Bốn là, nghiên cứu, đánh giá toàn bộ các vật chứng, dấu vết thu lượm được để đề ra phương hướng điều tra tiếp theo. Năm là, lập và hoàn chỉnh hồ sơ khám nghiệm hiện trường. 15 Sáu là, phát hiện những sơ hở, thiếu sót, từ đó nghiên cứu, phát hiện những phương thức thủ đoạn gây án mới của bọn tội phạm, đề xuất các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn một cách tích cực và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm. 1.1.3. Phương pháp khám nghiệm hiện trường Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, việc sử dụng hợp lý các phương pháp khám nghiệm hiện trường có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cho việc phát hiện thu thập dấu vết, vật chứng được nhanh chóng, chính xác và triệt để hơn. Không những thế việc lựa chọn phương pháp khám nghiệm hiện trường một cách hợp lý giúp cho việc tổ chức lực lượng và áp dụng trình tự thực hiện các công việc khám nghiệm được khoa học hơn, triệt để hơn. Chính vì vậy khi tiến hành khám nghiệm hiện trường cần phải nắm được các đặc điểm của từng hiện trường cụ thể, loại hiện trường cần khám nghiệm, mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ của quá trình khám nghiệm, lực lượng và phương tiện để lựa chọn phương pháp khám nghiệm phù hợp. Quá trình khám nghiệm hiện trường thường được tiến hành theo các phương pháp phổ biến sau đây: 1.1.3.1. Phương pháp khám nghiệm hiện trường theo khu vực (Phương pháp chia ô) Phương pháp này được tiến hành bằng cách chia hiện trường ra thành nhiều khu vực, nhiều ô khác nhau và khám nghiệm từng khu vực, từng ô đó. Có thể tiến hành khám nghiệm lần lượt từng khu vực một hoặc tiến hành đồng loạt cùng lúc nhiều khu vực tùy vào điều kiện lực lượng tham gia khám nghiệm. Phương pháp này có thể áp dụng trong trường hợp: Hiện trường các vụ việc xảy ra tương đối rộng và phức tạp đòi hỏi phải có sự phân chia thành từng khu vực do điều kiện địa hình của hiện trường như: tường, hàng rào, lối đi… hoặc nhà được phân chia thành các phòng khác nhau. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan