Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kiểm sát điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn huyện sơn hà, tỉnh quảng ngãi...

Tài liệu Kiểm sát điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn huyện sơn hà, tỉnh quảng ngãi

.DOC
88
284
82

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH VĂN THI KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH VĂN THI KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan rằng Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hỗ trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và kết quả trong đề tài này là trung thực, việc tham khảo có trích dẫn đầy đủ. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của Luận văn này. Người cam đoan Đinh Văn Thi MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ............................................................................................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự........................6 1.2. Khái quát về kiểm sát điều tra vụ án hình sự.............................................8 1.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. .. 17 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.................................................21 2.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can..............................................22 2.2. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi................31 2.3. Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can.........................................................35 2.4. Kiểm sát hoạt động khám xét, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra 37 2.5. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn..........44 2.6. Kiểm sát việc đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra....................................55 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH QUẢNG NGÃI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC............................................59 3.1. Thực tiễn công tác kiểm sát điều tra ở huyện Sơn Hà............................. 59 3.2. Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra. 69 KẾT LUẬN....................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TTHS : Tố tụng hình sự KSĐT : Kiểm sát điều tra THQCT : Thực hành quyền công tố CQĐT : Cơ quan điều tra VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân KSV : Kiểm sát viên KTV : Kiểm tra viên ĐTV : Điều tra viên BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 đã đánh dấu bước tiến mới của công tác lập pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam hiện nay. Bộ luật này đã mở rộng thẩm quyền và đề cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra-vốn là giai đoạn đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định đối với giai đoạn truy tố, xét xử sau đó. Nổi bật lên là một số quy định mới liên quan đến việc đề ra yêu cầu điều tra, mở rộng đối tượng công tác kiểm sát điều tra và các hành vi tố tụng mà Viện kiểm sát có quyền áp dụng khi Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không thực hiện yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát… Chính việc mở rộng này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực thi nhiệm vụ, quyền hạn trong giai đoạn điều tra, đảm bảo công tác điều tra đạt chất lượng tốt hơn. Tuy nhiên, để vận dụng, thực thi những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra một cách đúng đắn, sáng tạo và đầy đủ nhằm giải quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm là không dễ, đòi hỏi sự chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Lãnh đạo Viện kiểm sát cùng với việc nâng cao năng lực của các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thụ lý vụ án. Huyện Sơn Hà với đặc trưng là huyện miền núi ở phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 80% dân số là người đồng bào dân tộc H’re, cùng với địa hình nhiều đồi núi, khó khăn trong đi lại. Trong những năm gần đây khi nền kinh tế tại địa phương phát triển, nơi đây đã thu hút lượng lớn dân nhập cư từ các tỉnh, thành phố khác đến sinh sống, làm ăn kéo theo sự gia tăng của tình hình tội phạm trên địa bàn, nhất là các trường hợp người phạm tội là các đối tượng ngoài địa phương, không có nơi cư trú rõ ràng. Sự gia tăng tội phạm đòi hỏi ngành Kiểm sát huyện Sơn Hà cũng như toàn tỉnh Quảng Ngãi phải có những thay đổi, bổ sung các giải pháp kịp thời để giải quyết các 1 vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật ngay từ giai đoạn điều tra. Thực tiễn trên cho thấy tầm quan trọng của công tác kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự, đặc biệt đối với các địa bàn miền núi như huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi, đó là lý do chính để học viên chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi” làm Luận văn thạc sĩ luật học, với mong muốn nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án hình sự kết hợp với việc nghiên cứu thực tiễn tại huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi để từ đó tìm thêm các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự trên địa bàn. 2. Tình hình nghiên cứu Qua nghiên cứu một số công trình khoa học ở trong nước có liên quan đến đề tài, tập trung hầu hết các công trình phân tích, hướng dẫn về công tác nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ nhiều khía cạnh khác nhau như: Luận văn Thạc sỹ của tác giả Kiều Hồng Nhung, Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), năm 2014. Luận văn đã nghiên cứu và đưa ra các khái niệm về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, thực tiễn thực thi pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên tác giả luận văn chưa chỉ ra được những nét đặc trưng của địa bàn ảnh hưởng đến công tác kiểm sát hoạt động điều tra và những giải pháp khắc phục kèm theo. Luận văn Thạc sỹ của tác giả Đặng Thị Hồng Thủy, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội: Kiểm sát hoạt động điều tra – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Trên cơ sở nghiên cứu số liệu tại địa bàn tỉnh Nam Định), năm 2014. Luận văn cũng đã nghiên cứu lý luận về công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát, phân tích mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong hoạt động này, chỉ ra những mặt hạn chế, khó khăn từ thực tiễn 2 công tác kiểm sát điều tra trên địa bàn tỉnh Nam Định và đề ra giải pháp. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc trưng địa lý là tỉnh đồng bằng nên các giải pháp Luận văn này đưa ra chưa phù hợp và chưa có nhiều tính mới. Sách chuyên khảo do tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên (năm 2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, Nhà xuất bản Tư pháp, đã đề cập các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đối tượng, phạm vi quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra. Sổ tay Kiểm sát viên hình sự - Tập 1 do Ban quản lý dự án JICA xuất bản (năm 2011), Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, đã đề cập đến các thao tác nghiệp vụ của Kiểm sát viên nhằm vận dụng, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Bên cạnh đó, có những bài viết nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra ở nhiều địa phương trên toàn quốc để đưa ra những giải pháp, kiến nghị áp dụng trong toàn ngành như: Trần Thanh Thủy (2017), Kinh nghiệm thực tiễn kiểm sát điều tra vụ án hình sự, Báo điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An; Thanh Nghị (2016), Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra là nhiệm vụ thường xuyên của Kiểm sát viên, Báo điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, Luận văn tiếp thu có chọn lọc những quan điểm về mặt lý luận, giải pháp của các công trình nghiên cứu nói trên đồng thời đưa ra những quan điểm, giải pháp mới nhằm khắc phục những vướng mắt, khó khăn cụ thể trong công tác kiểm sát điều tra trên địa bàn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Tập hợp, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về vị trí, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nói chung và công tác kiểm sát điều tra nói riêng, thực trạng pháp luật và những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn công tác kiểm sát điều tra trên địa bàn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; trên cơ sở đó, tìm ra giải pháp khắc phục nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của ngành Kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên cơ sở số liệu thực tiễn ở huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: + Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn về công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện Kiểm sát huyện Sơn Hà từ đầu năm 2015 đến tháng 11 năm 2018. + Về không gian: Địa bàn khảo sát, phân tích trên phạm vi huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về phòng, chống tội phạm ở nước ta. Đồng thời, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, phù hợp với chuyên ngành như: Thống kê hình sự, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu dựa trên những tài liệu tổng kết, số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi khi giải quyết những vấn đề thuộc nội dung của luận văn. 4 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận khoa học pháp lý về hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, chỉ ra tính liên kết và tầm quan trọng trong mối quan hệ giữa Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Luận văn sẽ là tài liệu bổ ích không những cho cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học tham khảo, mà còn giúp Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra nghiên cứu, vận dụng, nhất là trong xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành; giúp các Kiểm sát viên những kiến thức cơ bản, thao tác nghiệp vụ kiểm sát cụ thể khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Những đề xuất trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra vụ án hình sự Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự Chương 3: Thực tiễn công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự trên địa bàn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra Trong khoa học pháp luật hình sự, đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm giai đoạn điều tra. Có quan điểm cho rằng “Điều tra là công tác trong TTHS được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”; có ý kiến khác lại cho rằng: “Điều tra là một giai đoạn của quá trình TTHS, trong đó CQĐT áp dụng các biện pháp do Luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội”. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 thì điều tra được hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình… phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực thuộc phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra do Cơ quan Công an tiến hành có thể dưới hai hình thức: Điều tra công khai do CQĐT hoặc một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành công khai theo quy định của luật TTHS. Điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng trinh sát tiến hành, thường diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà các văn bản của ngành Công an quy định. Mỗi hình thức điều tra có sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra [7]. Như vậy, từ những phân tích trên, có thể tiếp cận khái niệm về điều tra vụ án hình sự như sau: Điều tra vụ án hình sự là hoạt động của CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS, dưới sự kiểm sát của VKS, tiến hành các biện pháp tố tụng cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ án hình sự. Theo pháp luật TTHS Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế, việc giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn TTHS có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn mà phân định chức năng cụ thể của mỗi cơ quan có thẩm quyền riêng biệt nhằm thực hiện nhiệm vụ do 6 pháp luật quy định. Pháp luật TTHS Việt Nam chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với các hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không được xem là các giai đoạn TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo, kháng nghị. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình TTHS được BLTTHS năm 2015 quy định ở Phần thứ hai, từ chương X đến chương XVII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng với Bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố cho VKS. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt điều tra vụ án hình sự. Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được BLTTHS quy định khá cụ thể, được phân loại thời hạn điều tra căn cứ vào tính chất nguy hiểm của tội phạm. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự, kết quả của giai đoạn này là để phục vụ cho việc truy tố của VKS và hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, đòi hỏi Cơ quan có thẩm quyền điều tra cùng với VKS phải vận dụng mọi biện pháp tố tụng được BLTTHS quy định để thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án hình sự, chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cơ quan hữu quan có liên quan thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn trong TTHS trong đó CQĐT và một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các biện pháp điều tra do BLTTHS quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời, thông qua hoạt động điều tra, xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị với 7 các cơ quan hữu quan có biện pháp phòng ngừa tội phạm. 1.1.2. Đặc điểm của giai đoạn điều tra Từ những nội dung phân tích khái niệm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở trên, có thể đưa ra những đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau: Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có thời hạn được xác định từ lúc vụ án được khởi tố bằng Quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra vụ án, ban hành Bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố, chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho VKS; hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ vụ án. Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là việc các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp điều tra do BLTTHS quy định để chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết khác liên quan đến toàn bộ nội dung vụ án bao gồm các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, các tình tiết buộc tội, gỡ tội, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị các cơ quan hữu quan trong công tác phòng ngừa tội phạm. Thứ ba, chủ thể thực hiện các biện pháp điều tra trong giai đoạn điều tra này bao gồm CQĐT; cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và cả VKS trong một số trường hợp luật định. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập theo đúng trình tự, thủ tục quy định trong BLTTHS mới được coi là chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thứ tư, các biện pháp điều tra nhằm phục vụ công tác điều tra được áp dụng trong giai đoạn điều tra này được quy định cụ thể từ chương XI đến chương XVI của BLTTHS năm 2015. Các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai những người tham gia tố tụng khác; đối chất và nhận dạng; khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra; giám định và định giá tài sản; các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như: Ghi âm, ghi hình bí mật, nghe điện thoại bí mật, thu thập bí mật dữ liệu điện tử... Việc thực hiện các hoạt động này đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục quy định trong BLTTHS. 1.2. Khái quát về kiểm sát điều tra vụ án hình sự 1.2.1. Khái niệm công tác kiểm sát điều tra 8 Trên cơ sở kế thừa và đổi mới thể chế, Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Để làm rõ khái niệm công tác KSĐT, cần phải làm rõ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS và đây là chức năng chung của VKS trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Tại Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định như sau: “Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật” Từ quy định trên đây, chúng ta cần tiếp tục làm rõ việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của VKS. Có thể hiểu cơ bản, với chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp quy định, KSĐT là một trong số các nhiệm vụ của VKS thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều này có nghĩa là hoạt động điều tra là hoạt động tư pháp, CQĐT là cơ quan tư pháp, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV là các chức danh tư pháp và mọi hoạt động theo pháp luật TTHS của cơ quan và các chức danh này phải chịu sự kiểm sát của VKS. Bản chất của hoạt động này là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động TTHS được thực hiện bởi CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm đảm bảo các tài liệu, chứng cứ buộc tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và chống oan sai. Đối tượng của công tác KSĐT chính là hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và các văn bản tố tụng có trong hồ sơ vụ án ở giai đoạn điều tra. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý mà Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTHS, các văn bản pháp luật khác và văn bản, quy định do Ngành Kiểm sát ban hành để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật, cũng như đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng mà chủ thể bị kiểm sát thực hiện. Về phạm vi công tác KSĐT: Phạm vi công tác KSĐT bắt đầu từ khi có 9 Quyết định khởi tố vụ án cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án cho VKS đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Trước đây, có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm bắt đầu công tác KSĐT, tuy nhiên về chúng tôi thống nhất với quan điểm KSĐT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, mặc dù ngay từ giai đoạn ban đầu giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS đã bắt đầu được thực hiện hoặc trong trường hợp bắt quả tang, giữ người, bắt người… thì công tác kiểm sát luôn được thực hiện, bảo đảm cho hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ và đúng pháp luật. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm công tác KSĐT như sau: KSĐT là chức năng hiến định của VKSND, theo đó VKS trực tiếp giám sát tất cả hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các cơ quan hữu quan khác trong giai đoạn điều tra nhằm đảm bảo cho pháp luật TTHS được thực hiện một cách đúng đắn. 1.2.2. Nội dung công tác kiểm sát điều tra Đây là những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Theo đó, các KSV, KTV thực hiện các hoạt động tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, nhằm đảm bảo hoạt động điều tra của CQĐT đúng trình tự, thủ tục của pháp luật TTHS và đảm bảo căn cứ chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội. Vào thời điểm dự thảo Luật tổ chức VKSND được thảo luận tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII, có quan điểm cho rằng: “VKS với tư cách là chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của TTHS là chức năng buộc tội, cần giữ vai trò là cơ quan chỉ đạo hoạt động điều tra. Ở đây cần hiểu đúng nội hàm “chỉ đạo hoạt động điều tra” là chỉ đạo theo pháp luật, lấy pháp luật để hướng hoạt động điều tra theo đúng các quy định, trình tự do luật định. Kiểm sát viên cần được giao quyền yêu cầu điều tra viên phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong từng hoạt động điều tra của mình. Điều này hoàn toàn khác với việc lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ trưởng CQĐT về hành chính tư pháp, về thực hiện chiến thuật, kỹ thuật điều tra đối với điều tra viên…” [8]. Trong BLTTHS năm 2015 đang có hiệu lực cũng như Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã phần nào hiện thực hóa quan điểm trên. Cụ thể, trong giai đoạn điều 10 tra, thẩm quyền chính thuộc về CQĐT, tuy nhiên đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của VKS ở từng khâu, từng mảng hoạt động của những người tiến hành tố tụng thuộc CQĐT. Nội dung công tác KSĐT chính là nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSĐT, cụ thể như sau: Thứ nhất, Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là sự kiểm tra, giám sát toàn diện nhất về mặt luật nội dung (vụ án hình sự) cũng như các trình tự, thủ tục được quy định trong các hoạt động lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra; giám định và định giá tài sản và các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt khác. Trong hoạt động này VKS có thể trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm sát thông qua hồ sơ vụ án và các tài liệu, chứng cứ CQĐT thu thập chuyển cho VKS. Hầu hết các quyết định và các hoạt động tố tụng này đều yêu cầu phải thông báo cho VKS và có mặt của KSV. Ví dụ trong hỏi cung bị can, trước khi hỏi cung bị can, ĐTV phải thông báo cho KSV về thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, KSV tham gia việc hỏi cung bị can (khoản 1 Điều 183 BLTTHS năm 2015) hoặc trong hoạt động khám xét, Lệnh khám xét của những người có thẩm quyền ra lệnh khám xét phải được VKS có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành (khoản 1 Điều 193 BLTTS năm 2015). Thứ hai, Kiểm sát hoạt động TTHS của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Theo đó, với tất cả hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng như tham gia lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, giám định, khám xét, nhận dạng…, và các biện pháp tố tụng khác do pháp luật TTHS quy định đều chịu sự kiểm sát của VKS, đảm bảo hoạt động tố tụng này phải đúng pháp luật. Đồng thời, vai trò của VKS trong hoạt động này còn thể hiện ở việc ban hành các văn bản yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh những người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật trong hoạt động TTHS. Qua công tác KSĐT, khi phát hiện những vi phạm pháp luật trong TTHS hay nói cụ thể hơn là các hành vi gây cản trở hoạt động TTHS của những người tham gia tố tụng như các hành vi: Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; 11 làm giả, hủy hoại chứng cứ gây trở ngại cho việc giải quyết vụ việc, vụ án; từ chối khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu, đồ vật; hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; đe dọa, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;… VKS có quyền kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng hình thức xử lý thích hợp. Thứ ba, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra. Đây là trường hợp thường xảy ra ở các vụ án mà tội phạm xảy ra ở nhiều nơi, dẫn đến tranh chấp về thẩm quyền điều tra. Đối với trường hợp này, VKS có trách nhiệm căn cứ các quy định về thẩm quyền điều tra, thực tế hồ sơ vụ án để giải quyết về thẩm quyền điều tra. Thứ tư, yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra khi cần thiết. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, khi phát hiện sai phạm hoặc vấn đề chưa rõ liên quan đến việc tuân theo pháp luật của các cơ quan này thì VKS có quyền ban hành văn bản yêu cầu cung cấp các tài liệu nhằm phục vụ công tác kiểm sát điều tra. Đây là quyền hạn của VKS nhằm đảm bảo chất lượng công tác KSĐT. Thực tế một số hồ sơ vụ án, chưa đủ tài liệu, chứng cứ để VKS kết luận hoạt động tố tụng đó đảm bảo đúng quy định pháp luật hay không. Ví dụ, qua công tác kiểm sát biên bản ghi lời khai người làm chứng do CQĐT cung cấp, VKS phát hiện thời gian lập biên bản cũng có hoạt động tố tụng khác trong vụ án khác đang diễn ra nhưng người thực hiện lại cùng một ĐTV. Lúc này, VKS có quyền yêu cầu CQĐT cung cấp các tài liệu, chứng cứ để làm rõ sai phạm này, nhằm có những biện pháp xử lý kịp thời. Thứ năm, khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì VKS yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật; kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho VKS; cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc điều tra. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, ngoài quan điểm điều tra của CQĐT, VKS có quyền ban hành yêu cầu điều tra và CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện. Căn cứ trên hồ sơ vụ án và việc theo dõi tiến độ giải quyết vụ án, khi phát hiện các vi phạm, thiếu sót về nội dung 12 cũng như về trình tự, thủ tục theo pháp luật TTHS, VKS thực hiện các quyền trên nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong việc giải quyết vụ án. Thứ sáu, kiến nghị, yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc điều tra. Trên cơ sở kiểm sát hồ sơ vụ án và các hoạt động tố tụng khác trong vụ án hình sự VKS tổng hợp các vi phạm và ban hành văn bản gửi đến CQĐT có thẩm quyền giải quyết vụ án, nhằm yêu cầu CQĐT khắc phục ngay các vi phạm này để việc giải quyết vụ án đúng pháp luật. Đây được xem là biện pháp tác động quan trọng của VKS đến CQĐT nhằm khắc phục những vi phạm. Theo đó, công tác kiến nghị này có thể được tổng hợp thành kiến nghị chung (với nhiều nội dung vi phạm ở một hoặc nhiều vụ án) hoặc những kiến nghị riêng (ở từng hoạt động tố tụng, từng vụ án riêng biệt). Hoạt động này thể hiện rõ nhất vai trò của VKS trong hệ thống cơ quan tư pháp ở Việt Nam và vị trí chủ đạo trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và quá trình giải quyết toàn bộ vụ án Thứ bảy, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra, xử lý nghiêm minh ĐTV, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng. Trên cơ sở quy định của pháp luật TTHS về thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra cùng với thẩm quyền yêu cầu khắc phục các vi phạm trong TTHS, VKS thực hiện các quyền này và buộc CQĐT có thẩm quyền giải quyết vụ án phải thực hiện. Thứ tám, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Trong hoạt động KSĐT, ngoài việc kiểm sát đối với CQĐT, những người tiến hành tố tụng, VKS còn thực hiện vai trò cơ quan có trách nhiệm phòng ngừa tội phạm. Cụ thể khi nhận thấy những thiếu sót trong công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan hữu quan khác gây ảnh hưởng đến tình hình tội phạm, gây mất an ninh trật tự địa phương thì VKS có quyền ban hành văn bản yêu cầu cơ quan này có những biện pháp để khắc phục nhằm kịp thời ngăn chặn tình hình tội phạm. 1.2.3. Đặc điểm của công tác kiểm sát điều tra Trên cơ sở khái niệm và nội dung công tác KSĐT đã phân tích ở trên, có thể rút ra một số đặc điểm chung và đặc trưng đối với công tác KSĐT như sau: Thứ nhất, phạm vi công tác KSĐT được bắt đầu từ thời điểm vụ án được 13 khởi tố cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố cho VKS hoặc vụ án bị đình chỉ điều tra. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (theo phân loại tội phạm), phạm vi công tác KSĐT cũng khác nhau theo quy định Bộ luật TTHS. Theo chúng tôi, công tác KSĐT phát sinh khi công tác THQCT bắt đầu thực hiện, mà cụ thể là khi VKS thống nhất với CQĐT về việc khởi tố vụ án, phê chuẩn việc khởi tố bị can và các biện pháp ngăn chặn (tạm giam, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp…). Thứ hai, xuất phát từ tính chất, chủ thể, đối tượng, nội dung của hoạt động KSĐT, trên thực tế có thể thấy, hoạt động KSĐT được thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Hình thức thực hiện hoạt động KSĐT có thể là hành vi trực tiếp của KSV thông qua việc tham gia các hoạt động điều tra với tư cách người kiểm tra, giám sát; hoặc là hành vi trao đổi trực tiếp giữa KSV và ĐTV (thể hiện qua biên bản làm việc) hay là hoạt động trao đổi trực tiếp giữa VKS và CQĐT tại các cuộc họp về đường lối xử lý, giải quyết vụ án; hoặc là ban hành các loại văn bản sau khi xử lý thông tin về hoạt động điều tra vụ án hoặc trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án do CQĐT cung cấp, như: Kết luận kiểm sát trực tiếp, công văn yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ; Yêu cầu điều tra; Kiến nghị khắc phục vi phạm trong giai đoạn điều tra… Nhìn chung, xét về tính chất hoạt động KSĐT có thể phân chia hình thức thể hiện công tác KSĐT là hình thức chủ động (không phụ thuộc vào hoạt động điều tra, VKS chủ động tiến hành) và hình thức bị động (VKS không chủ động tiến hành, phụ thuộc vào tài liệu điều tra của CQĐT). Thứ ba, cùng với công tác THQCT trong giai đoạn điều tra thì công tác KSĐT mang tính quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. Xuất phát từ vai trò của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là thu thập các chứng cứ liên quan đến tội phạm, người thực hiện tội phạm và những vấn đề khác liên quan đến vụ án, công tác KSĐT sẽ giúp hoạt động điều tra của CQĐT được thực hiện đúng đắn, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những vi phạm từ đó làm cơ sở để các giai đoạn truy tố, xét xử sau đó đảm bảo đúng người, đúng tội đúng quy định của pháp luật TTHS. Thứ tư, mục đích công tác KSĐT nhằm bảo đảm cho pháp luật TTHS được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Với vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật, VKS thực hiện tất cả các quyền hiến định về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung 14 và KSĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng để đảm bảo pháp luật được tuân thủ tuyệt đối, giữ vững lòng tin của người dân. 1.2.4. Ý nghĩa, vai trò của công tác kiểm sát điều tra Ý nghĩa của công tác KSĐT: Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ đã phân tích ở phần trên, công tác KSĐT sẽ đảm bảo tính khách quan trong thi hành pháp luật ở lĩnh vực này trong giai đoạn điều tra. Cụ thể hơn, công tác KSĐT đảm bảo cho các đạo luật của Quốc hội và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, triệt để; không để xảy ra tình trạng tùy tiện trong thực thi pháp luật và phải đảm bảo tất cả hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh; kiên quyết không để lọt tội phạm [9]. Vai trò của công tác KSĐT : Để đảm bảo các hoạt động tố tụng, văn bản tố tụng trong giai đoạn điều tra có căn cứ và hợp pháp, pháp luật TTHS yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi, báo cáo bằng văn bản cho VKS. Cùng với đó, VKS trực tiếp tham gia vào các hoạt động tố tụng của CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Chính chức năng này của VKS đã góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền điều tra. Đồng thời, chất lượng của công tác kiểm sát điều tra có tác động quan trọng đến chất lượng giải quyết vụ án bảo đảm đúng người, đúng tội không bỏ lọt tội phạm. 1.2.5. Mối quan hệ giữa công tác kiểm sát hoạt động điều tra và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Trước khi phân tích mối quan hệ giữa hoạt động KSĐT và THQCT trong giai đoạn điều tra, chúng tôi đề cập đến khái niệm quyền công tố và THQCT. Quyền công tố: Hiện nay, trong khoa học pháp lý có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm này. Có ý kiến cho rằng: Quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật [15]. Với tư cách là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật, bao gồm TTHS, tố tụng dân sự, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng: Quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội [27]. Như vậy, theo quan điểm này, thì quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan