Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận lê chân, thành phố hải p...

Tài liệu Kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận lê chân, thành phố hải phòng”

.PDF
87
137
98

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG SƠN KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG SƠN KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÊN TÁC GIẢ Nguyễn Hồng Sơn MỤC LỤC Mở đầu .......................................................................................................................1 Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy .........................................................................................................................6 1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy ..........................6 1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy ...................................................................... 31 Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ..................................................... 35 2.1. Khái quát tình hình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong 5 năm từ năm 2012 đến năm 2016 ...... 35 2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ................................ 44 2.3. Đánh giá kết quả đạt được trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng .................... 49 2.4. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng 50 Chương 3: Giải pháp tăng cường kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ........................................................... 59 3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng .................................................... 59 3.2. Một số giải pháp góp phần tăng cường kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ........................................................ 62 Kết luận ................................................................................................................... 74 Tài liệu tham khảo ................................................................................................. 75 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. BLHS ........................... Bộ luật hình sự 2. BLTTHS ...................... Bộ luật tố tụng hình sự 3. CQĐT .......................... Cơ quan điều tra 4. KSĐT .......................... Kiểm sát điều tra 5. THQCT ........................ Thực hành quyền công tố 6. VKSND ....................... Viện kiểm sát nhân dân 7. VKS............................ Viện kiểm sát 8. ĐTV........................... .Điều tra viên 9. KSV............................ Kiểm sát viên 10. TNHS ...................... Trách nhiệm hình sự DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thống kê kết quả tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong 5 năm (2012 – 2016) 37 Bảng 2.2. Thống kê số vụ án, số bị can phạm tội về ma túy bị khởi tố điều tra trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong 5 năm (2012 – 2016) ....... 38 Bảng 2.3. Thống kê các loại tội phạm về ma túy bị khởi tố điều tra trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 1016) ............................................................. 39 Bảng 2.4. Số vụ và số bị can phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016) .................... 39 Bảng 2.5. Đặc điểm nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016)…………… ......................................................... 40 Bảng 2.6. Tổng số vụ án, số bị can phạm tội về ma túy bị khởi tố điều tra trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong 5 năm (2012 – 2016) ..................................... 42 Bảng 2.7. Tình hình khởi tố, điều tra tội phạm trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016) ............................................................................................ 42 Bảng 2.8. Số liệu truy tố, xét xử các vụ án ma túy trên địa bàn quận Lê Chân ............................................................................................................................. 43 Bảng 2.9. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can phạm tội về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016) .......... 45 Bảng 2.10. Thống kê số vụ án, số bị can phạm tội về ma túy tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016) ..................... 47 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cuộc chiến phòng, chống tội phạm ma túy được xác định ngày càng quyết liệt, phức tạp, đòi hỏi sự vào cuộc của cả cộng đồng, xã hội không chỉ đối với nước ta mà còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã và đang trên đường hội nhập và phát triển bền vững, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mặt trái của quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế kéo theo những hoạt động phức tạp của các loại tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng. Tội phạm về ma túy ở Việt Nam thời gian qua tiếp tục diễn biến phức tạp với tính chất và mức độ ngày càng nguy hiểm, chủ yếu vẫn là các tội mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy như heroine, ma túy tổng hợp ATS, ketamine, methamphetamine; bên cạnh đó cũng xuất hiện một số loại ma túy mới như “cỏ Mỹ”, “trà sữa”, “kẹo”, “nước vui”… đây thực chất là các loại ma túy tổng hợp có nguồn gốc từ Trung Quốc gây tác hại và ảnh hưởng rất lớn đối với người dùng, gây ra hậu quả ngày càng nguy hiểm cho xã hội, đặt ra nhiều thách thức đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Lợi nhuận do ma túy đem lại là rất cao, nên tội phạm ma túy diễn biến trên địa bàn rộng lớn, có nhiều trường hợp là xuyên quốc gia. “Phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm ma túy rất tinh vi, đường dây mua bán thường không bộc lộ danh tính mà hoạt động chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như điện thoại di động, bộ đàm, internet… để chỉ đạo từ xa, tìm nguồn hàng và thuê các đối tượng khác vận chuyển bằng các phương tiện như taxi, thuê xe tự lái, xe khách…” [35, tr. 15]. Vì vậy, nhu cầu nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy là rất cần thiết. Trong bối cảnh tình hình tội phạm ma túy diễn biến ngày càng phức tạp, Thành ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) quận Lê Chân đã phối hợp đồng bộ với các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác phòng, chống ma túy và phát động toàn dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma 1 túy. Chính vì vậy có thể nói, hoạt động phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng trên địa bàn quận đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Tuy nhiên, trước diễn biến ngày càng phức tạp và khó kiểm soát của tình hình tội phạm và trước nhu cầu đổi mới hoạt động tư pháp hình sự, công tác thực hành quyền công tố (THQCT) và KSĐT các vụ án hình sự nói chung và điều tra các vụ án về ma túy nói riêng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Thực tiễn cho thấy trong một số hoạt động đấu tranh phòng ngừa đôi lúc còn mang tính bột phát, phong trào nên hiệu quả không lâu dài, chưa góp phần làm giảm đáng kể về tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy. Những tồn tại, hạn chế đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó có nguyên nhân là sự nhận thức và quán triệt về vai trò, vị trí công tác THQCT và KSĐT chưa được toàn diện, đầy đủ; hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) khi thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu của đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp. Vì những lý do như trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình, trên cơ sở vận dụng các kiến thức lý luận và pháp luật thực định để giải quyết những vấn đề thực tiễn nhằm đánh giá những hạn chế, vướng mắc để đưa ra các kiến nghị trong kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước đây một số trường đại học trong nước cũng đã có một vài công trình nghiên cứu ở bậc thạc sĩ về các đề tài liên quan đến tổ chức, hoạt động của VKSND trong TTHS như đề tài về: Thực hành quyền công tố của VKSND; Chức năng pháp lý của VKSND trong TTHS; Mỗi quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong TTHS; Chức năng của VKSND trong giai đoạn xét xử… Đồng thời cũng có nhiều bài viết về chức năng KSĐT của VKSND trong các vụ án hình sự nói chung và trong các vụ án ma túy nói riêng được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí kiểm sát; Tạp chí pháp luật; Tạp chí tòa án của một số tác giả. Cụ thể như: Sổ tay Kiểm sát 2 viên hình sự của Viện khoa học Hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của TS. Lê Hữu Thể, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự của TS. Phạm Mạnh Hùng, Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần làm tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điểu tra của TS. Trần Công Phàn,… Tại Học viện Khoa học xã hội cũng có một vài Luận văn cao học nghiên cứu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy như Luận văn cao học “Phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn thị xã Lai Châu, tỉnh Lai Châu” của Thạc sĩ Vũ Hoài Thanh năm 2013; Luận văn cao học “Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của Thạc sĩ Nguyễn Minh Tuân năm 2013; Luận văn cao học “Đấu tranh phòng, chống tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Hương năm 2013. Tuy nhiên đều dừng lại ở mức độ khái quát chung và chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào công tác phòng, chống đối với tội phạm ma túy mà chưa có sự đánh giá nghiên cứu về hoạt động KSĐT đối với loại tội phạm này. Mặt khác các đề tài nghiên cứu tình hình tội phạm ma túy tại các địa phương khác chứ không phải tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng với những đặc thù riêng biệt. Đề tài: “Kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” là một nghiên cứu chuyên sâu ở bậc cao học về một công tác kiểm sát cụ thể trong điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế xã hội của quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vẫn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy, thực tiễn kiểm sát điều tra các tội phạm đó trên địa bàn quận Lê 3 Chân, thành phố Hải Phòng, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy. - Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động KSĐT của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy nói riêng. - Khái quát, phân tích thực trạng, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động KSĐT của VKSND quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong điều tra các vụ án về ma túy ở giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. - Dự báo tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong thời gian tới và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vào những vấn đề sau: + Những vấn đề lý luận về thi hành pháp luật và thì hành pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy. + Thực tiễn thi hành pháp luật trong kiểm sát điều tra đối với hoạt động của cơ quan điều tra. + Nguyễn nhân phát sinh những tồn tại, hạn chế trong thi hành pháp luật của quá trình kiểm sát điều tra của của cơ quan điều tra. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy theo quy định tại BLHS, xảy ra trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của 4 Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và kiểm sát hoạt động điều tra tội phạm nói riêng. Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh hệ thống hóa; trực tiếp khảo sát trao đổi nghiệp vụ với đội ngũ KSV tại đơn vị VKSND quận Lê Chân và một số đơn vị VKSND quận, huyện khác trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở khảo sát thực tế đề tài đã đánh giá, phân tích thực trạng kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016, những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân của tình hình, kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hoạt động kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và điều tra các vụ án về ma túy nói riêng. Với hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu tương đối đầy đủ và hữu ích cho sinh viên tham khảo khi nghiên cứu tìm hiểu về chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát và phục vụ cho cán bộ, KSV ngành Kiểm sát nghiên cứu, học tập, vận dụng trong hoạt động thực tiễn của mình. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy. Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Chương 3: Giải pháp tăng cường kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. 5 Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY 1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy 1.1.1. Khái niệm về ma túy và các tội phạm về ma túy Hiện nay chưa có một định nghĩa mang tính bao quát chung thế nào là ma túy. Một số người xem ma túy là các độc dược được quy định trong dược điển, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ gây ra những phản ứng làm thay đổi một số chức năng trao đổi chất, gây những tổn thất lên hệ thần kinh gây nên những dấu ấn trong các trung tâm thần kinh của bán cầu đại não và tạo ra trong tâm lý con người một thói quen một nỗi khát khao, đam mê khó có thể từ bỏ được. Một số khác gọi ma túy là các chất “hướng thần” có tác dụng đặc hiệu lên hệ thần kinh gây nên những trạng thái tâm lý không bình thường, làm mất đi một số chức năng cơ bản vốn có của cơ thể, tạo thành những ảo giác, cảm giác mới lạ. Theo từ điển tiếng Việt của NXB Đà Nẵng Trung tâm từ điển tin học năm 1996 thì “Ma tuý là tên gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện” [37, tr. 583]. Những chất gây nghiện có thể được chiết xuất từ cây thực vật như cây Anh Túc (cây thuốc phiện), cây Côca, cây khác… và những chất gây nghiện kích thích thần kinh khác như Amphetamine, LSD được sản xuất từ các tiền chất, hoá chất. Những chất kích thích thần kinh đó, trong thuật ngữ tiếng Việt ta có thể gọi là chất ma tuý hướng thần. Theo Liên Hợp Quốc (UN) thì “Ma tuý là chất hoá học có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng. Do vậy, việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán, sử dụng các chất đó phải được quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật và chịu sự kiểm soát của cơ quan bảo vệ pháp luật”. 6 Theo BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 thì ma túy bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, côcain, các chất ma túy khác ở thể lỏng, thể rắn [28, tr. 179, 180]. “Ở nước ta, việc xác định chất ma túy, các chất hướng thần và các tiền chất ma túy và hướng thần được dựa trên cơ sở tham khảo các bảng quy định về các chất ma túy và các chất hướng thần của 3 Công ước của Liên Hợp Quốc về kiểm soát ma túy” [38, tr. 191, 192], cụ thể đó là Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961, Công ước về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988. Việt Nam chính thức tham gia cả 3 Công ước quốc tế về kiểm soát ma túy và ban hành Luật phòng, chống ma túy năm 2000. Đây là một bước tiến bộ rõ nét trong pháp luật Việt Nam về phòng, chống ma túy nói chung và khái niệm “chất ma túy” nói riêng. Lần đầu tiên khái niệm “chất ma túy” và các khái niệm liên quan như “tiền chất”, “chất gây nghiện”, “chất hướng thần”, “thuốc gây nghiện” và “thuốc hướng thần” được chính thức định nghĩa. Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống ma túy quy định: “1. Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. 2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. 3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng. 4. Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. 5. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. 6. Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý do Chính phủ quy định.” [32] 7 “Như vậy việc đưa ra định nghĩa về ma túy hay chất ma túy chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học về chất ma túy chứ không có ý nghĩa đối với việc xác định chất ma túy” [23, tr. 15]. Việc xác định có phải là chất ma túy hay không, hoặc là chất ma túy gì thì phải trưng cầu giám định. Từ những quy định của Liên Hợp Quốc và pháp luật Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm: “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp đã được xác định và có tên gọi khoa học riêng được quy định trong các văn bản pháp luật, khi được đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu con người lạm dụng ma túy sẽ lệ thuộc vào nó cả về thể chất và tinh thần”. Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy là loại chất gây nghiện nguy hiểm với những quy định rất nghiêm ngặt. Vi phạm các quy định về chế độ quản lý các chất ma túy không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn góp phần tạo ra lớp người nghiện mới, qua đó đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do tác hại lâu dài và nhiều mặt của các vi phạm các quy định về chế độ quản lý chất ma túy như vậy nên mọi hành vi vi phạm, ở bất kì khâu nào của quá trình quản lý chất ma túy đều bị quy định là tội phạm. “Các tội phạm về ma túy được Nhà nước ta quy định từ rất sớm, nhưng trong từng giai đoạn, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể mà Nhà nước ban hành những văn bản thích hợp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này” [23, tr. 11]. BLHS năm 1999 quy các tội phạm về ma túy tại Chương XVIII bao gồm 10 điều luật quy định về 10 tội danh khác nhau. Sau khi được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã bãi bỏ Điều 199 về “Tội sử dụng trái phép chất ma túy”, còn lại 9 điều luật quy định 9 tội danh khác nhau được quy định tại Chương XVIII, cụ thể: - Điều 192: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy. - Điều 193: Tội sản xuất trái phép chất ma túy. 8 - Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy, - Điều 195: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy - Điều 196: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy. - Điều 197: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. - Điều 198: Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. - Điều 199: Đã bị bãi bỏ. - Điều 200: Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy. - Điều 201: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác. Về khái niệm tội phạm theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 khẳng định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp vủa tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [28]. Trên cơ sở khái niệm tội phạm được quy định trong BLHS và khái niệm về ma túy như đã phân tích ở trên, có thể định nghĩa các tội phạm về ma túy như sau: “Các tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại chương “các tội phạm về ma túy” trong Bộ luật hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, trật tự xã hội, đạo đức, sức khỏe của con người”. 9 1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy Theo Hiến pháp năm 1959 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân” [24]. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [26] và Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [27]. Như vậy, kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng hiến định của VKS. Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [34]. Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá tình tố tụng hình sự như CQĐT, VKSND, Tòa án nhân dân (TAND) và Cơ quan thi hành án nhằm giải quyết các vụ án hình sự, các vụ tranh chấp một cách có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Qua đó có thể thấy, “hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc thực thi quyền lực Nhà nước trong TTHS” [36, tr. 82]. VKSND thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn liền với các lĩnh vực khác nhau trong đó bao gồm kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. Một trong những khâu công tác đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra – Kiểm sát điều tra. Kiểm sát điều tra bắt đầu từ giai đoạn phát hiện tội phạm đến khi VKS “Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án” [30]. Mục đích của kiểm sát hoạt động điều tra là bảo đảm cho các hoạt động điều tra phải 10 chấp hành đúng các trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn đã được pháp luật quy định. Do vậy, khái niệm kiểm sát các hoạt động điều tra được hiểu là: Hoạt động của VKSND trong việc bảo đảm cho các hoạt động điều tra của CQĐT được thực hiện theo quy định pháp luật. Hiến pháp năm 1959 quy định VKSND chỉ có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đến Hiến pháp năm 1992 quy định VKSND ngoài chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật còn có chức năng THQCT và đến Hiến pháp năm 2013 chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp được quy định gắn kết chặt chẽ với nhau. Hoạt động KSĐT và hoạt động THQCT của VKSND có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, có tác dụng hỗ trợ cho nhau. Mối quan hệ này song song tồn tại từ khi phát hiện có sự kiện phạm tội xảy ra cho đến khi kết thúc việc điều tra, CQĐT đề nghị truy tố hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra, VKSND ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc ra quyết định truy tố bị can ra trước TAND. Tức là khi làm tốt công tác kiểm sát hoạt động điều tra thì cơ sở để THQCT sẽ vững chắc và bảo đảm đúng đắn, có căn cứ pháp luật. Nếu không làm tốt công tác này, thì việc THQCT sẽ khó khăn, thiếu tính thuyết phục, thậm chí còn dẫn đến thiếu sót, sai lầm. Ngược lại nếu làm tốt công tác THQCT thì đó là cơ sở, căn cứ vững chắc để kiểm sát chặt chẽ được quá trình tiến hành hoạt động điều tra của CQĐT, Điều tra viên (ĐTV). Như vậy, xét về mặt bản chất, để VKSND thực hiện chức năng như luật định, thì cả hai hoạt động này đều phải song hành với nhau, hỗ trợ cho nhau và không thể tách rời. Như vậy, cả hoạt động THQCT và hoạt động KSĐT các vụ án hình sự nói chung và vụ án ma túy nói riêng có chung một mục đích là nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện, làm rõ và được xử lý kịp thời, đúng pháp luật đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người không có tội. Điều 113 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hiện KSĐT như sau: 11 “Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; 2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; 3. Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; 4. Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; 5. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.” [30, tr. 73, 74]. Như vậy, kiểm sát hoạt động điều tra các vụ về ma túy là: “Hoạt động do VKSND thực hiện nhằm kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT xuyên suốt quá trình điều tra các vụ án về ma túy để bảo đảm cho các hoạt động điều tra được tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn theo quy định của phát luật TTHS”. 1.1.3. Đặc điểm hoạt động KSĐT của VKS đối với các vụ án về ma túy Chức năng, nhiệm vụ của VKSND theo quy định của pháp luật về hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự nói chung như: - KSĐT là hoạt động kiểm sát các hoạt động điều tra của CQĐT từ thời điểm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố điều tra và kết thúc khi vụ án được kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố. Hoạt động này của VKSND được tiến hành công khai theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTHS. - Chủ thể thực hiện kiểm sát hoạt động điều tra chỉ có thể là KSV và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND có thẩm quyền và có sự phối hợp các chủ thể khác có liên quan theo quy định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND. 12 - Quá trình kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy, KSV chỉ được áp dụng các biện pháp và phương tiện theo quy định của pháp luật và theo chức năng, quyền hạn của ngành Kiểm sát nhân dân và của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án. Các vụ án về ma túy nói riêng, theo quan điểm của tác giả, kiểm sát hoạt động điểu tra của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy có một số đặc điểm nổi bật như sau: - KSĐT các vụ án về ma túy luôn gắn liền với quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng về phòng, chống tội phạm về ma túy: Quan điểm đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng đối với tội phạm về ma túy của Đảng thể hiện bằng chỉ đạo cụ thể xuyên suốt và thống nhất qua các thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước. Cụ thể bằng các chỉ thị như Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 30/11/1996 về tăng cường chỉ đạo công tác kiểm soát và phòng, chống ma túy đã nêu rõ: “Các cấp Ủy đảng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy, phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng sử dụng ma túy trong nhân dân” [5]; Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới [6]… Trên nền tảng đó, VKSND Tối cao đã chỉ đạo công tác kiểm sát phòng, chống ma túy bằng các văn bản như: Chỉ thị số 04/CT-TV ngày 14/6/1997 về công tác kiểm sát phục vụ Chỉ thị số 06 của Bộ Chính trị về phòng, chống và kiểm soát ma túy đã đề ra yêu cầu: “Tổ chức quán triệt sâu sắc nội dung Chỉ thị số 06/CT-TW ngày 30/11/1996 của Bộ Chính trị cho các Kiểm sát viên và cán bộ ngành Kiểm sát, để có nhận thức đúng đắn về tác hại nghiêm trọng do nạn ma túy gây ra trên nhiều mặt đời sống xã hội. Đồng thời nêu cao trách nhiệm của ngành trong việc thực hiện chức năng kiểm sát phòng, chống và kiểm soát ma túy, coi đó là nhiệm vụ cấp bách và cùng là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên và lâu dài của Viện kiểm sát các cấp” [41]; Kế hoạch số 46/KH-VKSTC-V1C về triển khai thực hiện Chỉ thị số 21 của Bộ Chính trị… Mặt khác hoạt KSĐT tội phạm ma túy còn luôn bám sát chỉ đạo của cấp Ủy địa phương những vẫn luôn đảm bảo độc lập trong quyết định xử lý. 13 - Chủ thể của công tác KSĐT các vụ án về ma túy phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật, do tính chất đặc thù của tội phạm về ma túy mà còn đòi hỏi công tác KSĐT phải đảm bảo bí mật và phối hợp tạo điều kiện cho CQĐT hoàn thành nhiệm vụ điều tra: Tội phạm về ma túy rất tinh vi, xảo quyệt, chính vì đặc điểm này mà việc điều tra, khám phá của CQĐT là rất khó khăn. Vì vậy, khi tiến hành hoạt động KSĐT tội phạm về ma túy ngoài việc phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật thì VKS lại cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện để CQĐT cùng hoàn thành nhiệm vụ, tuyệt đối giữ bí mật thông tin vụ án, tránh để lộ thông tin về bị can, về đối tượng liên quan, bỏ trốn để đảm bảo hoàn thành có hiệu quả nhiệm vụ. - Chủ thể thực hiện công tác KSĐT các vụ án về ma túy phải hiểu biết rõ những quy định của pháp luật về tội phạm ma túy, nắm vững nghiệp vụ kiểm sát đặc biệt là trong giai đoạn điều tra và các kiến thức liên quan mà tội phạm xâm hại: Thực tiễn thời gian qua cho thấy tội phạm về ma túy có thể xảy ra ở khắp mọi nơi, có thể là xuyên quốc gia, do nhiều loại đối tượng gây ra. Bên cạnh đó cũng có nhiều vụ án mà người phạm tội mang quốc tịch khác nhau, tính chất và mực độ hành vi phạm tội khác nhau. Chính vì vậy nên đỏi hỏi chủ thể thực hiện công tác KSĐT phải là KSV có kiến thức, am hiểu về pháp luật Việt Nam và tư pháp quốc tế để đảm bảo cho quá trình điều tra tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Xuyên suốt quá trình điều tra, KSV phải kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm của CQĐT để kiên quyết yêu cầu khắc phục kịp thời. - KSĐT các vụ án về ma túy phải chuẩn bị phương án xử lý khi gặp điều kiện, hoàn cảnh không thuận lợi cho việc thu thập chứng cứ, giám sát hoạt động điều tra của CQĐT: Lợi nhuận do ma túy đem lại là rất lớn nên đối tượng phạm tội không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào, liểu lĩnh thực hiện tội phạm đến cùng nên KSV luôn phải trang bị cho mình những phương án xử lý khi gặp điều kiện không thuận lợi, hoàn cảnh cản trở trong việc thu thập chứng cứ cũng như việc các bị can đồng phạm đồng loạt phản cung, ngoan cố hay xuất hiện tình tiết mới bất lợi, nghiêm trọng hơn là còn có sự tác động tiêu cực của chính những người có chức vụ, quyền hạn. Những 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan