Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết việt nam giai đoạn 1975 1985...

Tài liệu Khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết việt nam giai đoạn 1975 1985

.PDF
104
178
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU THỦY KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975- 1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU THỦY KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975- 1985 CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Trọng Thưởng THÁI NGUYÊN - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn: - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư- Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Xuân Giang (Sóc Sơn, Hà Nội) đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Thủy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Thái Nguyên, ngày 3 tháng 4 năm 2013 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Thủy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 3 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu................................................................. 8 4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................. 8 5. Đóng góp của luận văn.................................................................................... 9 6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 9 PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 10 CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ THẨM MỸ NẢY SINH KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ............................................................................................ 10 1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội. .............................................................................. 10 1.1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh. ........................................................ 10 1.1.2. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. ................ 11 1.1.3. Đấu tranh bảo toàn lãnh thổ Tổ quốc. ..................................................... 13 1.2. Bối cảnh văn học. ....................................................................................... 14 1.3. Nhu cầu nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực văn học. .......... 18 1.4. Bước chuyển của văn học. ......................................................................... 22 1.4.1. Chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực...................................... 22 1.4.2. Chuyển đổi quan niệm về con người. ..................................................... 27 1.4.3. Dấu hiệu vận động của thể loại tiểu thuyết. ............................................ 33 CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG DẠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ. .............................................. 38 2.1. Những đặc điểm của khuynh hướng thế sự................................................ 38 2.1.1. Đề tài hướng vào những vấn đề xã hội hậu chiến. .................................. 38 2.1.2. Số phận con người cá nhân. .................................................................... 44 2.1.3. Tình huống bi kịch, éo le. ....................................................................... 49 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.1.4. Những chuyện đời thường, vụn vặt......................................................... 54 2.1.5. Cảm hứng nhân đạo. ............................................................................... 57 2.2. Các dạng thức nghệ thuật quen thuộc ....................................................... 61 2.2.1. Dạng thức các xung đột........................................................................... 61 2.2.2. Dạng thức tự chiêm nghiệm, triết lý. ...................................................... 64 2.2.3. Dạng thức đời tư, đời thường, những mảnh đời bất hạnh....................... 67 CHƢƠNG 3: NHỮNG THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU......... 69 3.1. Nghệ thuật xây dựng kết cấu cốt truyện. ................................................... 69 3.2. Nghệ thuật trần thuật. ................................................................................. 73 3.2.1. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn . ............................................................... 73 3.2.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật. ................................................. 76 3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................... 79 3.3.1. Sự xuất hiện kiểu nhân vật mới............................................................... 79 3.3.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động. ............................................ 81 3.3.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. ....................................................... 83 3.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. ................................................................... 85 3.4.1. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực: ................................................................ 85 3.4.2. Ngôn ngữ mang đậm cá tính nhân vật và cá tính nhà văn. ..................... 87 3.4.3. Yếu tố thông tin và tính triết luận. .......................................................... 88 PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 94 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đại thắng mùa xuân năm 1975 không chỉ mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc ta mà còn đưa tới một chặng đường mới của nền văn học. Trong bối cảnh ấy, giai đoạn 1975- 1985 chính là thời kì đầu của nền văn học Việt Nam độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là chặng đường chuyển tiếp từ văn học thời chiến sang văn học thời bình, từ văn học sử thi sang văn học thế sự. Khác với sự nở rộ của thơ ca thời kì trước, ở giai đoạn này, văn xuôi, trong đó có tiểu thuyết chiếm một địa vị ưu trội. So với các thể loại văn xuôi khác, tiểu thuyết có những ưu thế đặc biệt. Bởi tiểu thuyết có khả năng rộng lớn trong việc phản ánh hiện thực và những diễn biến phức tạp của tâm hồn con người. Hơn thế, tiểu thuyết còn là thể văn cho phép nhà văn bộc lộ nhiều nhất khả năng sáng tạo của mình. Qua tiểu thuyết, người đọc cũng có thể hình dung, cảm nhận đầy đủ và sâu sắc hơn về cuộc sống, xã hội, con người…Giai đoạn 1975- 1985 với hiện thực cuộc sống bộn bề những khó khăn của một đất nước vừa bước ra từ chiến tranh đang trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đầy chông gai, thử thách đã nảy sinh rất nhiều vấn đề mới về kinh tế chính trị, xã hội…Đây chính là mảnh đất màu mỡ để tiểu thuyết phát huy ưu thế đó của mình. Đồng thời, từ đây tiểu thuyết nói riêng, văn xuôi nói chung đã xuất hiện nhiều những vấn đề mới mà chúng ta cần phải nghiên cứu thấu đáo. Tìm hiểu tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985, chúng tôi nhận thấy có những đổi mới cơ bản so với giai đoạn trước. Bởi từ trước 1975, đất nước ta còn chìm trong khói lửa chiến tranh ác liệt. Vì thế, nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nhưng sau 1975, bên cạnh sự nối tiếp dòng mạch của giai đoạn trước, thể văn này đã nổi lên những khuynh hướng mới trong một bối cảnh lịch sử mới, với những điều kiện mới, tiêu biểu là khuynh hướng thế sự. 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Ở khuynh hướng thế sự, nhiều tác phẩm đã dành sự quan tâm cho thời hậu chiến như quá trình hòa hợp dân tộc, từ bỏ các thói quen trong thời chiến để hòa nhịp với cuộc sống thời bình, những vấn đề đạo đức mới xuất hiện trong quan hệ thường nhật, phổ biến….Một số tác giả đã đề cập kịp thời những vấn đề nảy sinh trong buổi giao thời đó của đất nước. Góp phần tạo nên hướng mới của văn học, chúng ta phải kể đến Nguyễn Minh Châu- với tiểu thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những người từ trong rừng ra (1982), đặc biệt là với tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985)- Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người “mở đường tinh anh và tài năng” đã đi được xa nhất” ở chặng đầu này. Ngoài ra, một loạt các tác giả khác (Nguyễn Khải với tiểu thuyết Cha và con và…(1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời gian của người (1985); Nguyễn Mạnh Tuấn với Những khoảng cách còn lại (1980), Đứng trước biển (1982), Cù lao tràm (1985); Ma Văn Kháng với Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985)…) đã cùng đem đến một diện mạo mới mẻ cho văn học nước nhà. Nhìn chung, văn học thời kì này đã bứt ra khỏi những mô típ đề tài quen thuộc từ giai đoạn trước, mở ra hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, nhất là cái hiện thực đời thường với nhiều vấn đề thế sự nổi cộm, nhức nhối. Thậm chí, có những vùng phản ánh bị coi là cấm kị trong chiến tranh cũng được đưa vào trong văn học. Những tác phẩm có ý nghĩa tiên phong ấy đã giúp văn học xích lại gần hơn với đời sống. Đặc biệt khi chú ý mối quan tâm tới “cái thường ngày”, các nhà văn tỏ ra rất nhạy cảm trước những chuyển động sâu xa trong đời sống tâm lí thời bình. Những điều như trên cho thấy, khuynh hướng thế sự là một vùng khám phá đầy bí ẩn và hấp dẫn của tiểu thuyết thời kì hậu chiến. Tuy vậy, quan sát tình hình nghiên cứu văn xuôi giai đoạn 1975- 1985 nói chung và tình hình nghiên cứu tiểu thuyết chặng đường này nói riêng, chúng tôi nhận thấy tuy đã được nghiên cứu nhưng còn có những vấn đề cần được tiếp tục sâu hơn. Vì thế, với sự yêu mến tiểu thuyết Việt Nam của mình, 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn qua đề tài, tác giả luận văn hy vọng sẽ có cơ hội đi sâu tìm hiểu để thấy được diện mạo phong phú, mới mẻ của tiểu thuyết giai đoạn này. Từ đó thấy được quá trình đổi mới và ý nghĩa nhân văn tích cực của nền văn học nước nhà. Trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về văn học Việt Nam, bằng việc khảo sát, phân loại, so sánh, phân tích,tổng hợp, đánh giá tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985, chủ yếu là tiểu thuyết của những nhà văn tiêu biểu một cách có hệ thống, chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm một phương diện và khẳng định thêm những thành tựu, giá trị của văn học 1975- 1985 nói chung và của nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng. Hơn nữa, hiện nay, học sinh trung học phổ thông đã tiếp xúc với tác phẩm chứa đựng những vấn đề thế sự trong văn xuôi thời kì hậu chiến. Việc nghiên cứu khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 chính là cơ hội để tác giả luận văn mở rộng diện tư liệu tham khảo, bổ sung kiến thức làm giàu vốn văn học của bản thân và rèn luyện các thao tác nghiên cứu khoa học cũng như một số kĩ năng phân tích, thẩm bình tác phẩm…Đó là những công việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với một giáo viên dạy Văn sống trong xã hội hiện đại, học sinh luôn được tiếp cận với kiến thức từ nhiều nguồn phương tiện thông tin đại chúng và nhất là trong cơ chế đổi mới phương pháp dạy- học văn trong nhà trường như hiện nay. Với những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975- 1985” để nghiên cứu. Tác giả luận văn không kì vọng nhiều chỉ mong muốn góp một phần nhỏ bé vào công việc nghiên cứu một phương diện trong một giai đoạn văn học quan trọng của nền văn học nước nhà. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến có đề cập đến khuynh hướng thế sự trong văn xuôi sau 1975 nói chung và tiểu thuyết 1975- 1985 nói riêng. Mười năm sau chiến tranh, văn xuôi được đánh giá là loại hình văn học phát triển và có những thành tựu đáng kể ở cả thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn và ký. Chính vì thế, giai đoạn này đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Chúng tôi nhận thấy có khá nhiều ý kiến, bài viết nghiên cứu về văn xuôi sau 1975 nói chung, về tiểu thuyết 1975- 1985 nói riêng trong đó có đề cập đến khuynh hướng thế sự. Những bài viết đó tập trung ở các công trình như: Văn học 1975- 1985, tác phẩm và dư luận (Nxb Hội nhà văn, 1997), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, những vấn đề lịch sử và lí luận (Nxb Giáo dục, 2004), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (Nxb Giáo dục, 2009)... Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975”, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long đã phân loại văn xuôi thành các khuynh hướng chính là khuynh hướng sử thi, khuynh hướng nhận thức lại, khuynh hướng thế sự đời tư và khuynh hướng triết luận. Đồng thời, tác giả cũng phác họa những nét lớn của sự đổi mới biểu hiện qua sự mở rộng quan niệm về hiện thực, sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, đổi mới nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ, giọng điệu. Từ đó, nhà nghiên cứu đã đặt ra vấn đề rất có ý nghĩa là muốn hình dung chính xác và đầy đủ về diện mạo và đặc điểm của văn xuôi thì còn cần làm rõ hơn các khuynh hướng, các thể tài, các mảng đề tài lớn với cái mới mà nó đem lại cho văn xuôi ba mươi năm qua [48\22]. Đây là bài viết có ý nghĩa khái quát toàn cảnh văn học Việt Nam sau 1975, trong đó có tiểu thuyết. Đặc biệt, tác giả bài viết đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu các khuynh hướng cụ thể để thấy được diện mạo phong phú của văn học sau 75. Bài viết này chính là một gợi ý quan trọng để chúng tôi đi đến lựa chọn đề tài này. Riêng đối với tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985, tác giả Nguyễn Thị Bình cho rằng giai đoạn 1975- 1985, tiểu thuyết vừa mở rộng đề tài vừa cố cưỡng lại từ trường của tiểu thuyết sử thi để gia tăng chất đời tư và thế sự [10\50]. Vì thế, bên cạnh cảm hứng ngợi ca, tiểu thuyết giai đoạn này đã xuất hiện cảm hứng phê phán, góc độ quan sát, đánh giá con người cũng dịch chuyển dần về phía đạo đức sinh hoạt. 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 khá nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tiểu thuyết viết theo khuynh hướng thế sự của một số tác giả tiêu biểu. Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất của giai đoạn này là: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng…Bởi họ là những người đã đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Sáng tác của họ đã thể hiện sự bứt phá ngoạn mục trong hoàn cảnh đất nước có vô vàn những khó khăn chồng chất, trong giai đoạn văn học cũng đang tìm hướng khám phá cho phù hợp với thời đại mới. Với sự sôi nổi, xông xáo, không né tránh, không ngại sợ, những cây bút này đã gây được những tiếng vang trong dư luận và làm sôi nổi đời sống văn học. Vì thế, họ đã góp phần đáng kể cho việc chuẩn bị công cuộc đổi mới văn học sẽ diễn ra chính thức vào nửa sau những năm 80. Tuy nhiên,với Nguyễn Minh Châu- người mở đường tinh anh và tài hoa, khuynh hướng thế sự đã nhen nhóm trong tiểu thuyết giai đoạn này song lại thể hiện nổi bật hơn cả ở hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” và “Bến quê”. Với các tác giả như Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng,…khuynh hướng thế sự biểu hiện rõ rệt trong tiểu thuyết của họ. Chúng tôi nhận thấy những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất nhiều. Đặc biệt đáng chú ý là ý kiến của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Thiếu Mai, Hoàng Như Mai, Lã Nguyên, Tôn Phương Lan, Lê Kim Vinh, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Tri Nguyên, Vũ Quần Phương, Trần Đăng Suyền, Trần Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Nguyên Ngọc, Vương Trí Nhàn, Đỗ Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Long, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Bích Thu… Sự tiếp cận, đánh giá của các nhà nghiên cứu cũng rất đa dạng. Có ý kiến khen ở mặt này nhưng chê ở mặt khác. Nhưng các ý kiến đều thừa nhận sáng tác của những nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng… đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lí, báo trước khả năng tự đổi 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ, bất chấp trở lực ngăn cản [29\343]. Qủa thực, là những người đi tiên phong trong hành trình đổi mới, các tác giả trên đã có nhiều đóng góp tích cực tạo nên những chuyển biến rõ rệt của văn học nhưng cũng khó có thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Mặc dù vậy, những nỗ lực của họ đã được ghi nhận và không ai có thể phủ nhận công lao khai phá, mở đường của họ trong một chặng đường mới của văn học nước nhà. Như vậy, qua các bài nghiên cứu, bài báo, chúng ta có thể thấy văn xuôi sau 1975 nói chung, tiểu thuyết 1975- 1985 nói riêng có sự xuất hiện khá nổi bật của khuynh hướng thế sự. Vấn đề là phải đi sâu nghiên cứu làm rõ những biểu hiện của khuynh hướng này để có một cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn về văn học chặng đường tiền trạm của thời kì đổi mới. 2.2. Những luận án, luận văn có đề cập đến khuynh hướng thế sự trong văn xuôi sau 1975 nói chung và tiểu thuyết 1975- 1985 nói riêng. Bên cạnh các cuốn sách, bài báo, có một số luận án, luận văn, công trình khoa học khi nghiên cứu về văn xuôi sau 75 hoặc một số tác giả tiêu biểu của giai đoạn này đã đề cập đến khuynh hướng thế sự. Tiêu biểu là: Luận án “Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975- Khảo sát trên nét lớn” (tác giả Nguyễn Thị Bình, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1996), luận văn “Bước đầu tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Mạnh Tuấn” (tác giả Nguyễn Quốc Khánh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 198?), công trình khoa học “Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Việt Nam thời kì hậu chiến 1975- 1985” (tác giả Ngô Thu Thuỷ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2011)… Tìm hiểu luận án “Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975- Khảo sát trên nét lớn” của tác giả Nguyễn Thị Bình (Đại học Sư phạm Hà Nội, 1996), chúng tôi nhận thấy tác giả đã chỉ ra những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật trên các phương diện. Theo tác giả, văn xuôi sau 75 đã chuyển từ quan niệm con người theo kiểu sử thi sang quan niệm về con người 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn kiểu thế sự, đời tư, con người cá nhân phức tạp và bí ẩn. Thể loại văn học thời kì này có xu hướng nhạt dần chất sử thi, tăng dần chất tiểu thuyết, ngôn ngữ gần với hiện thực đời thường... Có thể nói, luận án đã góp một tiếng nói có căn cứ thực tiễn vào cuộc đối thoại dân chủ về văn học sau 1975, bổ sung thêm vốn tư liệu quý báu về văn học giai đoạn này và góp phần tìm hiểu để đi tới xác lập những tiêu chí phù hợp với sự phát triển của văn học trong giai đoạn cách mạng mới. Ở phạm vi hẹp hơn, trong luận văn “Bước đầu tìm hiểu một số đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Mạnh Tuấn” (Đại học Sư phạm Hà Nội, 198?), tác giả Nguyễn Quốc Khánh đã giúp chúng ta nhận thấy những đổi mới cơ bản của tiểu thuyết Nguyễn Mạnh Tuấn so với tiểu thuyết giai đoạn trước. Đó là tác giả đã đi thẳng vào những vấn đề thời sự nóng bỏng của đời sống. Ngôn ngữ tiểu thuyết của ông thì đơn giản, dễ hiểu nhưng cũng giàu tính chất triết luận…Đây chính là những biểu hiện của tiểu thuyết sáng tác theo khuynh hướng thế sự. Sự nghiên cứu về một tác giả như thế chính là một minh chứng cụ thể nhất cho thấy rõ sự chuyển biến sâu sắc của văn học giai đoạn này. Có thể nói, những luận án, luận văn, công trình khoa học của những người đi trước bước đầu đã hé mở cho thấy sự chuyển biến của văn học từ khuynh hướng sử thi sang khuynh hướng thế sự. Những nghiên cứu này chính là nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi đi sâu nghiên cứu làm rõ hơn những biểu hiện và những thành tựu của khuynh hướng thế sự trong chặng đường đầu của văn học thời kì đổi mới qua một thể loại tiêu biểu. Như vậy, qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các cuốn sách, các bài báo, các ý kiến trong cuộc trao đổi, thảo luận, các cuộc hội thảo và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi nhận thấy nhìn chung việc nghiên cứu tiểu thuyết 1975- 1985 đã lật xới lên được nhiều vấn đề, đặc biệt các bài viết đã có đề cập đến sự xuất hiện của vấn đề thế sự trong tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 nói chung và trong các tác phẩm cụ thể của một số tác giả 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn tiêu biểu nói riêng. Tuy nhiên, các ý kiến khi nhắc đến khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết mới chỉ dừng lại ở mức điểm báo hoặc những phác thảo sơ bộ. Có thể nói, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985. Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Trong luận văn này, chúng tôi đặt trọng tâm nghiên cứu những đặc điểm, các dạng thức nghệ thuật cũng như những thành tựu nghệ thuật của tiểu thuyết sáng tác theo khuynh hướng thế sự qua một số tác giả tiêu biểu. Bên cạnh đó, chúng tôi có so sánh với giai đoạn trước để làm nổi bật hơn những biểu hiện đổi mới của tiểu thuyết giai đoạn này trong tiến trình phát triển của văn xuôi hiện đại. 3. Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi sâu tìm hiểu các đặc điểm, những dạng thức nghệ thuật cũng như những thành tựu nghệ thuật của tiểu thuyết thuộc khuynh hướng thế sự giai đoạn 1975- 1985. Từ đó thấy được sự vận động của tiểu thuyết sau chiến tranh trong bức tranh chung của tiểu thuyết hiện đại. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát các tiểu thuyết trong giai đoạn từ 1975- 1985. Nhưng số lượng tiểu thuyết trong khoảng mười năm này khá nhiều, luận văn sẽ không thể bao quát hết được. Để khoanh vùng phạm vi khảo sát, luận văn thống kê, nghiên cứu những tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho văn xuôi cũng như tiểu thuyết sáng tác theo khuynh hướng thế sự như: Nguyễn Minh Châu, nhất là Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng…Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào một đặc điểm của tiểu thuyết trong giai đoạn khá phong phú và phức tạp này. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. 5. Đóng góp của luận văn Với những phát hiện, nghiên cứu này, người viết hy vọng kết quả của đề tài sẽ góp phần thuận lợi cho việc tìm hiểu khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 đối với giới giáo viên phổ thông, sinh viên, học sinh và phần nào gợi ý cho người đọc yêu thích tiểu thuyết Việt Nam hiểu hơn một giai đoạn của tiểu thuyết nước nhà. Hy vọng rằng, luận văn này sẽ trở thành một tư liệu hữu ích cho tất cả những ai quan tâm đến tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 nói riêng, tiểu thuyết Việt Nam nói chung. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương: Chương 1: Tiền đề lịch sử thẩm mĩ nảy sinh khuynh hướng thế sự. Chương 2: Đặc điểm và những dạng thức nghệ thuật của khuynh hướng thế sự. Chương 3: Những thành tựu nghệ thuật tiêu biểu. 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ THẨM MỸ NẢY SINH KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ 1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội. 1.1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh. Với đại thắng mùa xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước oanh liệt của dân tộc ta đã giành được thắng lợi rực rỡ. Từ đây, đất nước thống nhất, bắt đầu bước vào thời kì khôi phục và phát triển. Nhưng ngay sau niềm vui chiến thắng, dân tộc ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách do hai cuộc chiến tranh ác liệt và kéo dài trong lịch sử dân tộc để lại. Ở cả hai miền Nam- Bắc, hậu quả của chiến tranh để lại rất nặng nề và kéo dài. Chiến tranh đã tàn phá hầu như tất cả các thành phố, đô thị và hàng nghìn làng xóm, các tuyến đường giao thông, bến cảng ở miền Bắc. Nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam, nhất là những nơi diễn ra các chiến dịch quân sự cũng bị hủy hoại nghiêm trọng trở thành những miền đất cháy, đất chết. Hơn nữa, quân xâm lược tàn ác còn thả xuống hàng triệu tấn bom đạn và những chất khai quang, diệt cỏ có chứa một lượng lớn chất độc điôxin xuống đất nước ta. Điều đó đã để lại di chứng nặng nề cho các thế hệ sau. Bên cạnh đó, chiến tranh kéo dài làm cho nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu, thấp kém lại càng kiệt quệ và tụt hậu trong khu vực. Nước ta rơi vào tình trạng những nước có bình quân thu nhập theo đầu người thấp nhất thế giới. Cơ chế quản lý kinh tế thì ngày càng bộc lộ rõ hơn những bất cập. Quan hệ sản xuất ngày càng khủng hoảng. Thêm vào đó là hậu quả của những chính sách kinh tế nặng nề về duy ý chí, chủ quan nóng vội. Mặt khác, chúng ta còn phải đối mặt với hàng loạt các khó khăn khác như thiên tai, dịch bệnh, các tệ nạn xã hội do chế độ thức dân mới của Mĩ để lại… Ngoài ra, tình trạng mù chữ và nạn thất nghiệp đã trở thành vấn nạn 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn trong xã hội. Ở Sài Gòn, số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong cư dân, đội ngũ thất nghiệp có lúc lên đến 1.500.000 người. Cùng với những khó khăn của thời kì hậu chiến, chúng ta lại phải đối mặt với chính sách cấm vận, cô lập Việt Nam và sự chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Đặc biệt, cuộc chiến tranh giải phóng đã kết thúc nhưng tiếng súng vẫn nổ ra ở biên giới phía Bắc và Tây Nam của Tổ quốc. Chiến trường Campuchia vẫn còn những cuộc tàn sát đẫm máu. Những khó khăn chồng chất đó đã đẩy nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội nặng nề, nhất là ở nửa đầu những năm 80. Đến giữa thập kỉ đó thì sự khủng hoảng ngày càng trở nên trầm trọng. Nhà văn Nguyễn Khải nhận xét hiện trạng xã hội lúc này là: ngổn ngang, bề bộn bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động bất ngờ [38/70]. Có thể nói, cuộc chiến tranh đã khép lại nhưng một chiến trường mới lập tức mở ra trên chiến trường cũ. Nhiệm vụ của dân tộc ta lúc này là hết sức nặng nề như nhà văn Nguyễn Minh Châu phát biểu: Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng cần thiết phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực như bước vào một cuộc chiến tranh [13\120]. Toàn Đảng, toàn dân ta đã xác định cần phải nỗ lực chung sức chung lòng đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử thách để xây dựng, gìn giữ và bảo vệ đất nước. 1.1.2. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh đã đi qua nhưng mất mát, đau thương thì vẫn còn ở lại. Việc khắc phục hậu quả của hai cuộc chiến tranh, khôi phục kinh tế, hơn nữa cần hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn như nước ta không phải là một công việc đơn giản. Nhưng đó là yêu cầu cấp bách để nhân dân ta gìn giữ nền độc lập và xây dựng, phát triển đất nước của mình. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách của thời hậu chiến và những yếu tố khác như thời tiết thất thường, thiên tai dồn dập…nhưng miền 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng: nhiều xí nghiệp, công trình, nhà máy được xây dựng và mở rộng thêm, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng nhanh qua các năm, diện tích trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp được mở rộng, đội ngũ cán bộ và công nhân kĩ thuật ngày càng đông đảo… Ở miền Nam, công việc tiếp quản các vùng mới giải phóng được tiến hành khẩn trương và đạt kết quả tốt. Đồng thời,chính quyền đã làm tốt công tác ổn định cuộc sống, giải quyết công ăn việc làm, khôi phục sản xuất…để đáp ứng nhu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài của nhân dân. Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Những biểu hiện của văn hóa phản động, đồi trụy, những tệ nạn xã hội…bị nghiêm cấm và bị bài trừ. Các hoạt động văn hóa lành mạnh được đẩy mạnh và lan rộng. Việc xóa nạn mù chữ được chú trọng. Các công tác vệ sinh phòng bệnh và hoạt động thể dục thể thao được phát động rộng rãi trong quần chúng. Ngoài việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, nhiệm vụ quan trọng của đất nước ta lúc này là cần hoàn thành việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Chúng ta đã giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt. Nhưng về mặt thể chế chính trị, chúng ta vẫn chưa có một nhà nước chung. Nhận thức được điều đó, vào tháng 9- 1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã nhấn mạnh thống nhất đất nước là nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, đồng thời hợp với quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì thế, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trong cả nước. Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất được gọi là Quốc hội khóa VI đã họp kì đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước trong thời kì đổi mới. Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành. Từ đây việc tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Tiếp đó, các Đại hội toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các năm 1976, 1982 đã vạch ra những đường lối để đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc thực hiện các kế hoạch Nhà nước 5 năm 1976- 1980 và 1981- 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đã đạt được những thành tựu nhất định ở nhiều mặt tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế, bất cập. Vì thế, cuộc sống sau chiến tranh vẫn vận hành một cách khó nhọc, đầy khó khăn, phức tạp. Kinh tế vẫn rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đời sống của nhân dân vẫn còn bộn bề những khó khăn. Nhiều lao động chưa có việc làm. Mặt khác, trong xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Một số cán bộ có hành vi lộng quyền, tham nhũng nhưng chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. Công bằng xã hội bị vi phạm. Tất cả những điều ấy đã tác động sâu sắc và làm lay động dữ dội suy nghĩ và và niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân. Quả thực, Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do và độc lập [53/14]. Tất cả những thực tế gian nan của thời hậu chiến đã đè nặng lên cuộc sống của nhân dân ta. Nhưng với sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân tộc đã có mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, chúng ta vẫn kiên trì và từng bước đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách để phát triển. 1.1.3. Đấu tranh bảo toàn lãnh thổ Tổ quốc. Ba mươi năm chìm trong khói lửa chiến tranh ác liệt, đất nước vừa được độc lập tự do, nhân dân ta chưa được tận hưởng niềm vui chiến thắng lại phải đối mặt với những cuộc xâm lược mới. 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Do có âm mưu từ trước, từ tháng 5-1975 đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng Xari, đại diện cho phái “Khơ me đỏ” ở Campuchia đã đổ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ Việt Nam. Từ những cuộc xung đột vũ trang lẻ tẻ, chúng dần thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây- Nam nước ta. Với thiện chí hòa bình, chúng ta đã chủ động đưa ra những đề nghị để thương lượng nhưng chúng vẫn tiếp tục tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, quân và dân ta đã tổ chức những cuộc phản công và tiến công mạnh, tiêu diệt toàn bộ quân xâm lược. Cuộc tiến công quy mô lớn của tập đoàn Pôn Pốt hoàn toàn bị đập tan. Đến năm 1978, hòa bình đã lập lại trên biên giới Tây- Nam của Tổ quốc. Không những thế, chiến thắng của quân và dân ta còn tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Campuchia giành thắng lợi ròn rã. Tiếp đó, ở biên giới phía Bắc, chúng ta lại phải đối mặt với những hành động phá vỡ quan hệ giữa hai nước của Trung Quốc như: cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới nước ta, cắt viện trợ, rút chuyên gia. Nghiêm trọng hơn, vào ngày 17-2-1979, Trung Quốc đã đã mở cuộc tiến công nước ta dọc biên giới phía Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu). Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân ta, trực tiếp là quân dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu quyết liệt buộc Trung Quốc phải rút quân về nước. Kết thúc hai cuộc chiến tranh biên giới, nước ta đã được bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng chúng ta vẫn phải luôn cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn và những hành động chống phá cách mạng của kẻ thù. Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước mười năm sau chiến tranh chứa đựng rất nhiều những phức tạp. Sự phức tạp ấy đã tác động sâu sắc tới đời sống của văn học nước nhà, đòi hỏi văn học phải có sự vận động, thay đổi cho phù hợp với thời đại mới. 1.2. Bối cảnh văn học. Dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước ta. Rời bỏ cuộc sống bất bình thường của chiến tranh, chúng ta trở lại cuộc sống bình 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan