Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khuynh hướng thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh...

Tài liệu Khuynh hướng thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh

.PDF
69
778
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------- KIỀU THỊ HỒNG NHUNG KHUYNH HƯỚNG THÂN DÂN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MINH MỆNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------- KIỀU THỊ HỒNG NHUNG KHUYNH HƯỚNG THÂN DÂN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MINH MỆNH Chuyờn ngành: Chớnh trị học Mó số : 60 31 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Chớ Thành Hà Nội - 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 5 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG 10 LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TRƯỚC THỜI NGUYỄN 1.1. Khái niệm chung về tư tưởng thân dân 10 1.2. Tư tưởng thân dân thời Lý - Trần 16 1.3. Tư tưởng thân dân thời Lê 21 Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CĂN BẢN TRONG TƯ TƯỞNG 30 THÂN DÂN CỦA VUA MINH MỆNH 2.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp vua Minh Mệnh 30 2.1.1. Khái quát về cuộc đời vua Minh Mệnh 30 2.1.2. Khái quát về sự nghiệp vua Minh Mệnh 33 2.2. Tư tưởng thân dân của vua Minh Mệnh 2.2.1.Tư tưởng của Minh Mệnh vể quyền và lợi ích 37 37 của người dân 2.2.2. Sự thương cảm của Minh Mệnh đối với đời sống 41 của nhân dân 2.2.3. Sự quan tâm, chăm lo phát triển nông nghiệp 1 46 của Minh Mệnh 2.2.4. Việc trừng trị những hiện tượng tham quan, 52 nhũng nhiễu nhân dân 2.3. Thực chất và vai trò của nội dung thân dân 58 trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh KẾT LUẬN 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO 66 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, việc nghiên cứu những tư tưởng chính trị của các thời đại đã qua dưới mọi góc độ sẽ đem đến cho chúng ta những bài học kinh nghiệm hữu ích để có cái nhìn sâu sắc về hiện tại, nhận thức đúng và tìm ra cách giải quyết tốt những nhiệm vụ kinh tế và chính trị của đất nước. Đồng thời những kết quả nghiên cứu cũng sẽ là những đóng góp đối với sự hướng dẫn về tư tưởng để đi tới những đánh giá thống nhất về các vấn đề lịch sử, về chỗ mạnh, chỗ yếu nói chung trong di sản dân tộc ta, từ đó khắc phục hoặc phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, Nhà nước chỉ vững mạnh khi Nhà nước đó hợp với lòng dân. Lịch sử đã cho thấy, khi nhân dân tin vào hệ thống chính trị thì quốc gia sẽ hưng thịnh. Do đó, đối với những người đứng đầu Nhà nước, một trong những vấn đề đặt ra là phải quan tâm đến lợi ích của nhân dân. Lịch sử Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến nay đã trải qua bao thăng trầm, biến cố. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, đất nước mới giành được độc lập bởi chiến thắng của Ngô Vương Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938. Các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê… nối tiếp nhau xây nền độc lập. Mỗi một triều đại với lúc hưng suy khác nhau nhưng đều có công lao to lớn trong việc củng cố và xây dựng chế độ phong kiến Việt Nam. Triều đại nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Triều Nguyễn hiện đang là vấn đề được giới Khoa học xã hội và Nhân văn, đặc biệt là giới sử học quan tâm nghiên cứu, đánh giá và còn có 3 những điểm chưa nhất trí. Có thể nói, triều Nguyễn đang được xem xét lại trên mọi lĩnh vực hoạt động của nó. Người chê cũng nhiều mà người khen cũng không ít. Ngày nay đã và đang có rất nhiều các công trình nghiên cứu về triều Nguyễn ở những góc độ khác nhau. Minh Mệnh là vị vua thứ hai của triều Nguyễn. Dưới sự cai trị của vị vua này, đất nước có rất nhiều thay đổi lớn lao. Nói cách khác, ông đã để lại những dấu ấn của mình khá đậm nét trong lịch sử triều Nguyễn cũng như trong lịch sử dân tộc. Bước vào những năm 20 của thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam ở vào một tình trạng lộn xộn. Muốn thoát khỏi tình trạng đó, trước hết cần phải có sự ổn định về chính trị, kinh tế - xã hội để xây dựng đất nước giàu mạnh. Những tư liệu lịch sử đã minh chứng những cải cách hành chính, khuyến khích nông nghiệp… do Minh Mệnh thực hiện đã giúp cho bộ máy nhà nước Đại Nam vận hành một cách thống nhất từ trung ương đến địa phương. Một trong những tư tưởng chính trị của Minh Mệnh là củng cố nền thống nhất quốc gia. Muốn làm được điều này phải có những chính sách an dân, bởi vì đời sống nhân dân có ổn định thì quốc gia mới trường tồn. Nói cách khác, tư tưởng củng cố nền thống nhất quốc gia và tư tưởng yên dân có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nếu như đất nước đã được thống nhất mà dân không yên thì đương nhiên nền thống nhất đó chỉ là hình thức. Vả lại, tư tưởng yên dân xét ở mặt tăng cường sự bền vững của một triều đại có tầm quan trọng sống còn đối với triều đại đó. Tư tưởng yên dân của Minh Mệnh bao trùm trong suốt thời gian trị vì của ông. Ít nhất là do hai nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất là ý thức trách nhiệm của người đứng đầu quốc gia, thứ đến đó là để đảm bảo sự an toàn của hoàng tộc mà ông là người đại diện. 4 Do đó, nghiên cứu về thời kỳ Minh Mệnh, đặc biệt là tư tưởng thân dân của ông cũng là một cách góp phần vào việc đánh giá lại triều đại nhà Nguyễn nói chung và thời kỳ Minh Mệnh nói riêng. Ngoài ra, nghiên cứu tư tưởng thân dân của ông, dưới một khía cạnh nào đó vẫn có giá trị cho quá trình xây dựng Nhà nước ta hiện nay. Đó là những lý do để tôi chọn đề tài “Khuynh hướng thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Như đã nói ở trên, triều đại Nguyễn đang là một đề tài thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Có rất nhiều những công trình nghiên cứu triều đại nhà Nguyễn nói chung và cả những công trình nghiên cứu thời kỳ Minh Mệnh nói riêng. Về triều đại nhà Nguyễn có thể kể đến cuốn sách của tác giả Đỗ Đức Hùng với đề tài “Vấn đề trị thủy đồng bằng Bắc bộ dưới thời Nguyễn”. Trong cuốn sách này, tác giả đề cập đến những vấn đề cụ thể về địa sinh thái, tổ chức và quản lý, công việc đắp đê, xây kè, quá trình thực hiện và hiệu quả của việc trị thủy dưới triều Nguyễn. Tác giả Trần Thanh Tâm với công trình “Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn” nêu lên hoàn cảnh lịch sử hình thành, phát triển của triều Nguyễn. Sự thay đổi bộ máy quan chức nhà Nguyễn qua các thời kỳ lịch sử, phân tích và bình luận cơ cấu quan chức nhà Nguyễn và hiệu lực của nó. Liên quan đến đề tài này có thể kể đến luận án Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Lê Thị Thanh Hòa. Trong công trình của mình, tác giả đề cập đến lĩnh vực đào tạo và sử dụng quan lại ở nước ta trước thời Nguyễn và của triều Nguyễn. Bàn về lĩnh vực giáo dục, Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Quỳnh viết về đề tài nghiên cứu hệ thống giáo dục và khoa cử dưới triều Nguyễn. Cũng có thể kể thêm về các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực thương nghiệp của các tác giả như 5 Đỗ Bang trong cuốn “Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn” bàn về điều kiện giao lưu hàng hóa, chính sách của triều Nguyễn đối với thương nghiệp, tình hình nội thương, ngoại thương. Hay như trong luận án Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Trương Thị Yến cũng đề cập đến vấn đề về thực trạng chính sách thương nghiệp của triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Tác giả đã đưa ra đánh giá về ảnh hưởng và vai trò của chính sách này đối với hoạt động thương nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung trong giai đoạn này. Trong lĩnh vực pháp luật ở khía cạnh hôn nhân và gia đình, tác giả Huỳnh Công Bá trong tác phẩm “Hôn nhân và gia đình trong pháp luật triều Nguyễn” đã có những tìm hiểu các chế định về kết hôn, ly hôn và tử hệ trong pháp luật triều Nguyễn… Cụ thể hơn trong việc nghiên cứu về triều đại Minh Mệnh có thể kể đến công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Minh Tường. Với nhan đề “Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh”, tác giả đã phân tích, nhìn nhận, đánh giá nội dung, tiến trình, mục tiêu của cuộc cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh trong tiến trình vận động phát triển lịch sử Việt Nam. Tác giả Vũ Thị Phụng trong luận án tiến sĩ của mình đề cập đến văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn trong đó chủ yếu là giai đoạn trị vì của Minh Mệnh. Trong lĩnh vực nông nghiệp thời kỳ này phải kể đến tác phẩm “Chính sách khuyến nông dưới thời Minh Mạng” của tác giả Mai Khắc Ứng. Ở công trình này tác giả đã nghiên cứu về sự nghiệp xây dựng vương triều nhà Nguyễn nhưng trong đó đặc biệt chú trọng đến người kế nghiệp của Gia Long trong lĩnh vực khuyến nông là vua Minh Mệnh. Tựu trung lại, có rất nhiều nghiên cứu về triều đại nhà Nguyễn nói chung và thời kỳ Minh Mệnh nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu về tư tưởng thân dân, đặc biệt là tư tưởng thân dân của Minh Mệnh hầu như là chưa có. Nếu có, họa chăng chỉ là những điểm lướt trong quá trình nghiên cứu của các 6 tác giả. Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này có thể coi là một trong những bước khởi đầu và làm rõ thêm tư tưởng thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là làm rõ nội dung tư tưởng thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh thông qua: - Các chiếu chỉ - Các châu phê Từ đó đặt ra nhiệm vụ là phân tích các tư liệu trên và nêu lên các giá trị của tư tưởng thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong luận văn của chúng tôi chính là tư tưởng thân dân của Minh Mệnh. Tư tưởng này được chúng tôi nghiên cứu chủ yếu trên hai loại tư liệu nói trên là các chiếu chỉ, các châu phê của ông. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử một mặt cho rằng quần chúng nhân dân có vai trò quyết định trong tiến trình lịch sử, mặt khác đánh giá cao vai trò của các cá nhân kiệt xuất đối với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy, cần phải nắm bắt quá trình hình thành tài năng, cá tính, các đặc điểm tâm sinh lý và đặc biệt là tham vọng của Minh Mệnh. Cá tính của một con người có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp của họ. Hiểu được điều này giúp ta lý giải vì sao Minh Mệnh lại dám gánh vác những trọng trách lớn lao của lịch sử. Đây là đề tài có tính lịch sử, do đó phương pháp nghiên cứu đầu tiên có thể kể là phương pháp lôgíc - lịch sử. Để tiếp xúc với các chiếu chỉ, châu bản, 7 các tác phẩm văn chương, phương pháp tiếp theo là phương pháp văn bản học. Phương pháp phân tích - tổng hợp cũng là phương pháp chúng tôi sử dụng khá nhiều trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp như so sánh, đối chiếu… 6. Đóng góp của luận văn Luận văn của chúng tôi có thể đóng góp trên những vấn đề sau: - Bước đầu hệ thống những tư liệu có chứa đựng tư tưởng thân dân của Minh Mệnh. - Trên cơ sở những tư liệu sử học và nguồn tư liệu khác, luận văn bước đầu cố gắng làm rõ nội dung tư tưởng thân dân của Minh Mệnh và giá trị lịch sử của nó trong việc đánh giá lại vị trí của triều Nguyễn, trong đó có triều đại Minh Mệnh trong tiến trình lịch sử của dân tộc. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được trình bày làm ba phần, bao gồm phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong phần nội dung gồm có hai chương: Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TRƯỚC THỜI NGUYỄN 1.1. Khái niệm chung về tư tưởng thân dân 1.2. Tư tưởng thân dân thời Lý - Trần 1.3. Tư tưởng thân dân thời Lê Chương 2: KHUYNH HƯỚNG THÂN DÂN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA VUA MINH MỆNH 2.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp vua Minh Mệnh 2.1.1. Khái quát về cuộc đời vua Minh Mệnh 8 2.1.2. Khái quát về sự nghiệp vua Minh Mệnh 2.2. Tư tưởng thân dân của vua Minh Mệnh 2.2.1.Tư tưởng của Minh Mệnh về quyền và lợi ích của người dân 2.2.2. Sự thương cảm của Minh Mệnh đối với đời sống của nhân dân 2.2.3. Sự quan tâm, chăm lo phát triển nông nghiệp của Minh Mệnh 2.2.4. Việc trừng trị những hiện tượng tham quan, nhũng nhiễu nhân dân 2.3. Thực chất và vai trò của nội dung thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh 9 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TRƯỚC THỜI NGUYỄN 1.1. Khái niệm chung về thân dân Thân dân là một phái niệm chính trị học thuộc lĩnh vực tư tưởng chính trị, xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc, vào khoảng trên 1000 năm TCN, tức là vào thời nhà Thương - Ân. Người ta có thể đọc thấy ngay từ quyển Một của Kinh Thư, trong Ngũ Thư mà theo Khổng Tử thì được các sử quan của vua Nghiêu biên soạn, những tư tưởng thân dân đầu tiên: “…Hoà vui trăm họ, trăm họ được sang…nhân dân lam lũ được đổi thành yên vui”[38, tr. 233]. Trong các tác phẩm của Khổng Tử, thân dân cũng là một nội dung quan trọng, mặc dù khái niệm “dân” ở thời đại ông và trong tư tưởng của ông không trùng khít với khái niệm “nhân dân” mà ngày nay chúng ta sử dụng. Khái niệm “dân” này không bao hàm tầng lớp nô lệ, những người mất quyền tự do, nhưng nó vẫn bao hàm ý nghĩa vừa là đối tượng của hoạt động cai trị của Nhà nước, vừa là cơ sở tồn tại của quốc gia, thể hiện rõ nhất trong quan niệm chính trị học thời Tiên Tần: Nước lấy dân làm gốc. Trong cuốn Luận ngữ, Khổng Tử nhiều lần nhắc tới tư tưởng thân dân như sai khiến dân phải đúng lúc, tiếp dân như trong lễ lớn, yêu dân như con.… Mạnh Tử phát triển tư tưởng thân dân của Khổng Tử, đưa “thân dân” lên thành khái niệm cơ bản trong học thuyết Nhân chính của ông, với luận đề nổi tiếng “hằng sản hằng tâm”. Nội dung chủ yếu của luận điểm này có thể diễn đạt ngắn gọn là muốn yên dân thì phải ổn định đời sống của họ. Các nhà nho chính thống sau này cũng đều đề cập đến vấn đề thân dân. 10 Tóm lại thân dân là một trong những nội dung chính thống của Nho giáo. Có thể khái quát tư tưởng này gồm những quan niệm sau đây: - Coi dân là cơ sở tồn tại tất yếu của Nhà nước, Triều đình, chế độ chính trị. - Các chính sách của Nhà nước phải được đề ra và thực hiện sao cho cộng đồng dân luôn ở trong trạng thái ổn định. - Muốn vậy phải quan tâm tới những phương thức kiếm sống, an cư lạc nghiệp của dân như ban lịch thời vụ, khơi sông, đắp đê, xây dựng thuỷ lợi, bảo vệ trâu bò, khuyến khích bách nghệ, thuế má hợp lí, khi thất bát mùa màng phải giảm hoặc tha thuế. - Ngăn chặn những hành vi ức hiếp dân hay huy động sức dân vào các mục đích tư lợi. - Dạy dân, dưỡng dân, yêu dân, thiết lập một nền đạo đức có tôn ti trật tự để dân được sống trong một môi trường ổn định. Điều cần nhấn mạnh là tư tưởng thân dân có ý nghĩa nhân bản, nhưng rõ ràng nó vẫn thuộc phạm trù tư tưởng phong kiến. Các nhà nho về cơ bản không phải vì dân nên thân dân, mà vì chủ yêu vì sự vững bền của Triều đình. Thân dân được coi như là cách tốt nhất, cơ bản nhất, lâu dài nhất để cho chế độ được trường tồn. Nó được đặt ở vị trí quốc sách. Tất nhiên những nhà nho sống gần gũi với dân thì vượt được qua giới hạn chật hẹp trên, đặc biệt là các nhà nho tiêu biểu của Việt Nam như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Nói cách khác, tư tưởng thân dân cũng có các mức độ và nội dung khác nhau ở các dân tộc khác nhau, tuỳ vào vai trò của văn hoá truyền thống nơi dân tộc đó. 11 Tư tưởng về một nền chính trị nhân nghĩa, thân dân là giá trị đặc thù nhất và quý giá nhất trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam. Nó có cội nguồn sâu xa về văn hóa và lịch sử, và một cách mặc nhiên, nó trở thành chuẩn mực để người dân Việt Nam đánh giá về một nền chính trị. Cội nguồn sâu xa nhất của tư tưởng chính trị nhân nghĩa, thân dân là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước với kết cấu làng xã, một hằng số trong lịch sử Việt Nam. Hai cơ sở căn bản của nông nghiệp trồng lúa nước là đất và nước, hai giá trị thường hằng của nhà nông là đẻ và nuôi, sau này được biểu đạt thành hai khái niệm có hình thức ngôn ngữ Hán - Việt là sinh và dưỡng. Những yếu tố và giá trị ấy lại chỉ có được được bảo tồn, duy trì trong một kết cấu xã hội là làng xã, do những nhu cầu trị thủy, dụng thủy và nhu cầu sử dụng hợp lỹ quỹ đất nông nghiệp. Đó là cơ sở căn bản, cũng là nơi phát ích phần lớn những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt Nam, thậm chí cả về hình thức biểu đạt văn hóa: Người Việt Nam cũng gọi Tổ quốc mình là Đất nước. Với văn minh nông nghiệp nói chung, nghề trồng lúa nước nói riêng, văn hóa phồn thực là sản phẩm văn hóa tự nhiên. Con người ở đó yêu quý sự sinh sản, hứng khởi trong hoạt động nuôi dưỡng vun trồng, mong cho sự sống ngày càng phồn thịnh, sống hòa mình với thiên nhiên chứ không khai thác thiên nhiên cạn kiệt, giữ cân bằng sinh thái như là một phản xạ cộng đồng. Văn hóa Trung Quốc do sự phân hóa giai cấp sớm, sâu sắc, khái niệm nhân ban đầu chỉ có nghĩa là mầm sống, sau đó là yêu thương con người, để cuối cùng được phát triển và mang nội dung cơ bản là ép mình trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến. Ý nghĩa này ít được nhắc tới ngay trong hàng ngũ trí thức nho học Việt Nam, còn quảng đại người Việt Nam chỉ giữ lại nội dung yêu thương con người khi tiếp nhận khái niệm Nhân của Nho giáo. Đó là sự 12 lựa chọn trong tiếp biến văn hóa. Người có nhân là người yêu con người, và những giá trị mang tính người. Về mặt khái niệm, nhân nghĩa trong tư tưởng lịch sử Việt Nam chỉ là hai khía cạnh của một nền chính trị. Nhân là vì con người, yêu thương con người. Muốn đạt được mục đích đó thì phải nghĩa, phải hành động để thực hiện được ý đồ đó. Chính trị nhân nghĩa trong khuôn khổ chế độ phong kiến và tư tưởng phong kiến hướng về dân như là cung cách (phương sách) để có thành công trong chính trị. Đó là hạn chế thời đại. Vấn đề là tư tưởng về nền chính trị đó tác động đến những hành vi, chủ trương chính trị vừa có hiệu quả, vừa có tính nhân bản. Xu hướng thân thân của chính trị Việt Nam là hệ quả tất yếu của tư tưởng nhân nghĩa. Ngoại trừ những thời kỳ suy thoái của vương triều, những ông vua Việt Nam thường luôn quan tâm tới đời sống của dân, gặp lúc mất mùa thì miễn giảm thuế, hình phạt không quá tàn bạo. Các nhà tư tưởng chính trị luôn nhắc tới vai trò của dân, đề xuất với vua những chính sách để an dân, bảo hộ nông nghiệp, bớt sách nhiễu, trừng trị những kẻ làm quan mà tham nhũng, đục khoét dân. Tư tưởng thân dân của tư tưởng chính trị Việt Nam đạt đến đỉnh cao với Nguyễn Trãi, có nội dung phong phú nhất trong lịch sử chính trị phong kiến ở nước ta. Tư tưởng thân dân gắn liền với ứng xử chính trị của triều đình trung ương đối với thiết chế làng xã. Đây là một thiết chế xã hội cơ sở ở phương Đông nói chung, ở Việt Nam nói riêng, được hình thành một cách tự nhiên, phù hợp với cung cách trồng lúa nước của cư dân Việt. Đất của làng là đất của vua, vốn có nguồn gốc từ đất công của làng xã nông nghiệp ở thời thị tộc. Thiết chế làng đảm bảo cho mỗi thành viên của nó đều có đất để trồng cấy. Việc canh tác lại gắn liền với nhu cầu tới nước, do đó phải có những công trình thủy lợi để tưới tiêu, một chế độ phân phối nước tưới bất thành văn nhưng có hiệu lực cao… Tất cả những yếu tố đó dẫn đến một kết quả xã hội: 13 Làng trở thành một khối độc lập tương đối, ở đó thân phận các thành viên là bình đẳng trước những thông lệ đã được dân làng thỏa thuận, đó là lệ làng. Chính trị thân dân không có con đường nào khác là thừa nhận tính độc lập tương đối đó của làng, phải làm ngơ với rất nhiều trường hợp “phép vua thua lệ làng”, bởi vì chỉ như thế đời sống nông dân làng xã mới có thể ổn định được. Chế độ quân điền có nhiều tác dụng ổn định kinh tế nông nghiệp, ngăn cản sự mở rộng khoảng cách giàu nghèo trong nông thôn chính là sự chấp nhận của triều đình đối với một tập quán dân chủ của làng xã. 1.2. Tư tưởng thân dân thời Lý - Trần Thời kỳ Bắc thuộc kết thúc với chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938. Bảy năm sau khi Ngô Vương mất, đất nước lại bị rơi vào cảnh chia cắt bởi các thế lực quân sự địa phương. Đinh Tiên Hoàng đã thống nhất lại đất nước. Nhà Đinh chính thức mở đầu một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam, kỷ nguyên phục hưng dân tộc. Hai triều đại Đinh - Lê tồn tại trong một thời gian ngắn, song nó có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng trong việc đặt nền móng thống nhất và củng cố nền độc lập của nhà nước Đại Cồ Việt. Trên nền tảng đó, hai triều đại Lý Trần mới có thể hoàn thành trọn vẹn công việc phục hưng đất nước. Cũng nhờ thế mà tư tưởng chính trị Việt Nam có bước phát triển nhanh trong hai triều đại Lý - Trần. Năm 1010, Nhà Lý dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, khẳng định sự lớn mạnh và nền độc lập của nhà nước Đại Việt ngay trong hoàn cảnh nhà Tống luôn có ý đồ xâm lược nước ta. Nhà Lý rất chú ý tới việc cai trị, tổ chức bộ máy nhà nước hoàn chỉnh hơn nhiều so với nhà Đinh, nhà Lê. Các chức Tam Công và các bộ đã được ấn định, giúp vua cai trị có nề nếp. Năm 1042, nhà Lý ban hành “Hình thư”, bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Nhà 14 nước thực hiện chính sách trọng nông, đẩy mạnh công việc xây dựng hệ thống đê điều, bảo vệ trâu bò, định ra các quy định đầu tiên để hạn chế sự bóc lột thái quá, phát triển các nghề thủ công, đúc tiền, đẩy mạnh giao lưu giữa các địa phương trong nước. Nhà nước cũng bắt đầu thực hiện việc quản lý đời sống xã hội bằng luật pháp, trừng trị thẳng tay các hoạt động tội phạm nhằm tạo dựng một xã hội thái bình thịnh trị, phát triển và đề cao đạo Phật, xây dựng chúa chiền với ý đồ làm cho lòng dân được thuần hậu, làm việc thiện… góp phần tạo nên cảnh thái bình. Có thể nói, triều Lý là thời kỳ văn hóa chính trị Việt Nam đạt được những thành tựu có tính chất căn bản, có nền cai trị tiến bộ, phù hợp với thực tiễn đất nước, tạo điều kiện cho quá trình phục hưng dân tộc bước những bước vững vàng, đồng thời bảo vệ thắng lợi nền độc lập của Tổ quốc. Kinh nghiệm lịch sử của thời kỳ Bắc thuộc và gần một thế kỷ thiết lập lại cơ sở cho quốc gia độc lập làm cho triều Lý nhận thức rất rõ vai trò của dân trong đời sống chính trị. Các vua nhà Lý đều dựa vào ý Trời, lòng dân để đề ra và thực thi các biện pháp cai trị. Trong Chiếu dời đô, Thái tổ cũng luôn nhắc đến dân “Trên vâng mệnh Trời, dưới theo ý dân”, phê bình nhà Đinh, Lê không chịu dời đô, để cho “trăm họ phải hao tổn”. Theo ông, ngay cả việc chọn Thăng Long làm kinh đô, cũng không ngoài việc giúp dân có được nơi thuận tiện trăm bề: “Ở vào nơi trung tâm của trời đất, địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng… Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi…”. Việc quan tâm đến ý dân được nhà vua và các quan lại thân cận nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và biến thành các chính sách, việc làm cụ thể. Một trong những biểu hiện của việc luôn quan tâm đến dân đó là nhà nước rất chú trọng đến việc bảo vệ sức sản xuất. Lý Thánh Tông hạ chiếu khuyến nông năm 1065. Hay như việc các vua nhà Lý thực hiện công việc cày ruộng tịch điền hoặc tự đi xem gặt ở một số nơi để khuyến 15 khích sản xuất nông nghiệp. Nhà Lý đã có luật lệ bảo vệ trâu bò. Theo đó, những kẻ trộm trâu hay giết trâu sẽ bị xử tội nặng. Nhà Lý cũng rất quan tâm đến vấn đề trị thủy. Nhiều công trình thủy lợi đã được thực hiện trong thời kỳ này. Tuy những công trình này còn nhiều hạn chế và mang tính vùng - miền, nhưng nó cũng đã khẳng định được sự quan tâm của triều đình đến đời sống của nhân dân. Vua có nhân là ông vua hiếu sinh, không hiếu sát, suy bụng mình ra bụng dân, luôn lo lắng, chia xẻ với những nỗi khổ của dân. Lý Thánh Tông đem lòng thương con mình ví với lòng dân thương con, đòi phải khoan giảm hình phạt, khi xét nghĩ tới tù nhân chịu lạnh, sai cấp chăn chiếu và xét kỹ án để dân khỏi chịu oan. Tư tưởng thân dân thời nhà Lý còn được biểu hiện rõ nét thông qua lời khẳng định của Lý Thường Kiệt : “Trời sinh ra dân chúng, vua hiền tất có hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Ông được đề cao trong triều và trong dân vì ông “nhân từ và yêu mến mọi người, biết dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ… Nuôi dưỡng cả đến người già ở nơi thôn dã… Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước, cái thuật trị dân, sự tốt đẹp đều ở đây cả”. Vua Lý Nhân Tông là một trong những vị vua đã làm được rất nhiều việc lớn trong thời kỳ cai trị của mình. Ông là người đầu tiên mở khoa thi Nho học năm Ất Mão, lập ra Quốc Tử Giám năm Bính Thìn và đặc biệt đã chỉ huy quân dân cả nước đập tan cuộc xâm lăng của nhà Tống năm Đinh Tỵ. Với công lao to lớn như vậy nhưng trước khi lâm chung, lời di chiếu của ông vẫn chứa chan lòng yêu nước, thương dân: “… Thế nhưng người đời chẳng ai không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho thế là phải. Trẫm ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, 16 giảm ăn uống, bỏ cúng tế… làm cho lỗi ta thêm nặng…”[33]. Lý Cao Tông thì tự phê bình: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trùng không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán giận của kẻ dưới. Dân đã oán thán thì Trẫm còn dựa vào ai? Nay Trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới” [13]. Tư tưởng thân dân từ nhà Lý đến nhà Trần đã phát triển từ trình độ kinh nghiệm đến trình độ khái quát lý luận, thấm sâu vào cả những ứng xử rất nhỏ của những nhà cai trị tối cao. Trần Nhân Tông lúc hòa bình còn nhắc lại: “Lúc nước nhà có hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy (những người dân thường, thậm chí là nô tỳ) đi theo mà thôi”. Trần Minh Tông coi dân là đồng bào của mình: “Hết thảy sinh dân đều là đồng bào của ta Nỡ lòng nào để cho bốn bế khốn cùng”[13] Đặc biệt, chiến thắng quân Nguyên - Mông đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt và giá trị thực tiễn cao của tư tưởng nhà Trần. Trong hào khí Đông A, ý chí quyết tâm giữ vững độc lập được thể hiện rộng khắp cả nước, một minh chứng cho nguyên lý về sức mạnh tinh thần của tư tưởng chính trị khi nó trở thành phương thức hoạt động của cộng đồng hàng triệu con người. Quân lính tự nguyện chích lên cánh tay hai chữ “sát thát”, người dân tự nguyện đốt nhà, đốt làng, đốt cả thủ đô để giặc nhanh thất bại, tướng quân bị giặc bắt thà chết không chịu đầu hàng, nhân dân che chở quân mai phục của triều đình, rồi cùng xông ra giết giặc trên sông Bạch Đằng… Các vua nhà Trần thân làm tướng, xông pha trận mạc… Và cũng chính chiến thắng ba lần trước đội quân xâm lược hùng mạnh nhất, quân Nguyên Mông đã chứng tỏ sức mạnh của dân tộc ta dưới thời Trần. Nhà Trần là một minh chứng hùng hồn về tác dụng lịch sử lớn lao của một nền chính trị đúng đắn, phù hợp với thực tiễn xã hội và được nhân dân ủng 17 hộ. Sự hy sinh to lớn của dân trong ba cuộc chiến tranh vệ quốc đủ làm cho nhà Trần nhận ra vai trò quyết định của nhân dân đối với sự tồn tại của vương triều. Nhà Trần là triều đại duy nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam đã tổ chức một hội nghị đại biểu toàn dân, hội nghị Diên Hồng, để hỏi ý kiến dân về một quyết sách chính trị có tính chất sống còn đối với vận mệnh quốc gia: Đánh hay hòa. Bởi vì nhà Trần hiểu rằng, nếu như có được sự đoàn kết trong nội bộ triều đình, đoàn kết giữa chỉ huy và binh lính trong quân đội, đoàn kết toàn dân thì không có gì là không làm được. Tư tưởng này được biểu hiện qua những lời dụ của vua: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức”, “Trên dưới đồng lòng, lòng dân không chia”… Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Chim hồng hộc muốn bay cao tất phải nhờ ở sáu trụ xương cánh. Nếu không có sáu trụ xương cánh ấy thì cũng chỉ như chim thường mà thôi”. Đây là lời nhận xét đầy ý nghĩa sau sự kiện Yết Kiêu dù gặp khó khăn nhưng vẫn không rời vị trí khi chưa thấy vị chủ tướng của mình. Để có được lòng trung thành của những người trợ giúp, hẳn vị chủ tướng Trần Hưng Đạo đã sống và đối xử với họ như thế nào. Tuy nhiên, biểu hiện sâu sắc nhất của tư tưởng thân dân triều Trần phải là tư tưởng “Khoan thư sức dân” của Trần Hưng Đạo. Trong lời khuyến cáo vua Trần lúc lâm chung, ông khẳng định: “Khoan thư sức dân để là kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Tư tưởng này là một kết luận được rút ra từ suy ngẫm, kiểm nghiệm sâu xa của Trần Hưng Đạo về nguyên nhân sụp đổ của các vương triều, đó là đối lập với lợi ích của dân, bóc lột dân nặng nề, vắt kiệt sức dân vì lợi ích thống trị. Tính khái quát cao của tư tưởng này ở chỗ nó là kết luận được rút ra không chỉ về mặt lịch sử các vương triều bị đổ, mà còn cả về mặt lôgíc: Gạt bỏ tất cả các suy diễn trung gian theo lối bắc cầu của truyền thống tư duy phương Bắc, ông đi thẳng từ nguyên nhân ban đầu đến kết quả cuối cùng, nhờ vậy mà nó mang tính thuyết phục cao: Có 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan