Mô tả:
ĐỀ TÀI 5:
KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ CHÂU Á NĂM 1997:
PHÂN TÍCH TỪ BỘ BA BẤT KHẢ THI
GVHD:TS. PHẠM THỊ TUYẾT TRINH
NHÓM 01 - CAO HỌC 16B2
1. Nguyễn Văn Cường
2. Nguyễn Công Danh
3. Trần Nhật Dương
4. Nguyễn Trịnh Thùy Dương
5. Lê Thị Hân
6. Tô Ngọc Linh
7. Đinh Thành Long
8. Bùi Thị Miến
9. Nguyễn Thị Hằng Nga
10. Huỳnh Thị Trúc Nguyên
11. Phạm Thị Tuyết Nhung
12. Huỳnh Thị Hoài Phương
13. Phạm Thị Thanh
Một quốc gia chỉ chọn được tối đa hai mục tiêu trong ba
mục tiêu chính sách vĩ mô sau: Ổn định tỷ giá, tự do hoá
dòng vốn và chính sách tiền tệ độc lập.
Nguyên tắc hoạt động:
Thị trường vốn đóng
Chính
sách tiền
tệ độc lập
Ổn định
tỷ giá
Tỷ giá cố định
Tỷ giá thả nổi
Hội nhập tài chính
Mỗi cạnh thể hiện cho các mục tiêu tốt nhất.
Khủng hoảng tài chính là một biến cố mà khi đó các khu
vực tài chính và các tổ chức kinh tế có sự vỡ nợ với số
lượng lớn, các tập đoàn và định chế tài chính phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn với những hợp đồng đến hạn thanh
toán.
Các hình thức biểu hiện của khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng ngân hàng (banking crisis)
Khủng hoảng tiền tệ (currency crisis)
Khủng hoảng kép (twin crisis)
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ I (Mô hình Krugman, 1979)
Thâm hụt ngân sách
Tài trợ bằng cách phát
hành thêm tiền
Sức ép lên tỷ giá hối
đoái cố định
Xuất phát điểm là các
chính sách kinh tế vĩ mô
không ổn định và duy trì
chế độ tỷ giá hối đoái cố
định
NHTW bán dự trữ ngoại hối để duy trì
tỷ giá hối đoái cố định
Dự trữ
ngoại
hối suy
giảm
Tấn
công
đầu cơ
Khủng
hoảng
tiền tệ
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ II (mô hình Obstfeld, 1994 và 1995)
Kỳ vọng thị trường chính phủ
có thể rời bỏ tỷ giá cố định
thực hiện chính sách kinh tế
khác ( như giảm thất nghiệp)
Các nhà đầu cơ
tấn công đồng
nội tệ
Tấn công xảy ra tạo kỳ
vọng đồng nội tệ có thể
bị phá giá và làm tăng
lãi suất.
Chính phủ thấy lãi
suất tăng lên gây
ảnh hưởng xấu
đến tăng trưởng
và tình trạng thất
nghiệp nên thả
nổi tỷ giá
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
Trước khủng hoảng
• Từ đầu thập niên 1990, tự do hóa tài chính được tiến hành với nhịp
độ từ từ ở Đông Á. Mặc dù vậy,chính phủ vẫn can thiệp trong phân bổ
tín dụng.
• Giai đoạn 1990-1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang
phát triển tăng 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi thu
hút một lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% tổng vốn.
• Tỷ giá hối đoái được cố định.
Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia,
Indonesia và Philippines từ năm 1991 – 1996)
Những mất cân đối vĩ mô 1997
• Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Á bắt
đầu chững lại.
• Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình của các nước
Đông Á ở mức 19-21% trong năm 1995 giảm xuống 4% trong năm
1996.
• Thâm hụt vãng lai xuất hiện và được tài trợ chủ yếu bằng vay nợ
ngắn hạn nước ngoài.
• Từ những yếu kém trong hệ thống tài chính và mất cân đối vĩ mô
khiến các nhà đầu tư tính tới khả năng đồng nội tệ ở Đông Á có thể
bị phá giá.
Source: IMF
Diễn biến:
Thái Lan:
Những hoạt động đầu cơ tiền tệ trong từ giữa năm 1996 tại Thái Lan
khiến dự trữ ngoại tệ giảm một phần và lãi suất tăng lên. Lãi suất tăng
làm giảm giá bất động sản.
Những người vay ngoại tệ trước đây tin rằng tỷ giá hối đoái được cố định
thì nay bắt đầu lo ngại và cũng mua đô la vào để đảm bảo có đô la để trả
nợ khi đáo hạn. Chính phủ Thái Lan ban đầu dùng dự trữ ngoại tệ để bảo
vệ tỷ giá
Từ tháng 01/1997 đến tháng 03/1997, người dân và các nhà đầu tư bắt
đầu rút vốn của mình ra khỏi các ngân hàng và công ty tài chính.
Diễn biến:
Thái Lan:
03/03/1997 Chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng khoán vào ngày
và yêu cầu mọi tổ chức tài chính phải tăng thêm dự trữ tiền mặt và công
bố 10 công ty tài chính đang hoạt động ở trạng thái không bình thường
Ngày 02/07/1997 Chính phủ Thái Lan cho thả nổi đồng Bath, ngay lập tức
đồng BAHT mất giá gần 50%; Chỉ số thị trường chứng khoán của Thái
Lan giảm từ 1280 cuối năm 1995 xuống còn 372 vào cuối năm 1997.
Source: SET index (MSCI) ; Exchange rate (perspective mondiale – Université de Sherbrooke)
Diễn biến:
Hàn Quốc:
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc còn đang
gánh một khoản nợ nước ngoài khủng lồ.
Ngày 30/09/1997, tỷ giá hối đoái đạt 914,8 won/USD tăng 8% so với mức
833,2 won/USD vào ngày 31/12/1996
Tháng 11/1997 các nhà đầu tư tại Hàn Quốc bắt đầu bán ra chứng khoán
ở quy mô lớn.
Từ tháng 06-12/1997, Chính phủ đã phải bán ra 14 tỉ USD để kìm giữ tỉ
giá, song vẫn phải từ bỏ nỗ lực này khi dự trữ ngoại tệ giảm từ 34,1 tỉ
USD xuống còn 20,4 tỉ USD.
Ngày 14/12/1997 đồng Won được thả nổi.
Diễn biến:
Hàn Quốc:
Tổng nợ của Hàn Quôc từ năm 1990- 1997
Diễn biến:
Indonesia:
Khi Thái Lan thả nổi đồng Baht vào tháng 07/1997, Indonesia đã nới lỏng
biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và USD từ 8% lên 12%,
tuy nhiên khi dự trữ ngoại tệ ngày càng giảm sút => ngày 14/08/1997
Chính phủ tuyên bố thả nổi đồng Rupiah, thay thế cho chế độ thả nổi có
quản lý, tỷ giá lập tức tăng lên 2,87 Rupiah/USD so với mức 2,431
Rupiah/USD vào ngày 30/08.
Dự trữ ngoại tệ giảm từ 20,3 tỉ USD vào ngày 30/09/1997 xuống còn 15,8
tỉ USD ngày 31/03/1998.
Diễn biến:
Malaysia
Philippines
HongKong
- Xem thêm -