Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp truyện xuân quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện ch...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp truyện xuân quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ thuật

.PDF
50
217
90

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON ====== NGUYỄN THỊ NINH AN TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN CHỦ ĐỀ VÀ NGHỆ THUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi HÀ NỘI - 2019 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON ====== NGUYỄN THỊ NINH AN TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN CHỦ ĐỀ VÀ NGHỆ THUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. TRẦN THỊ MINH HÀ NỘI - 2019 LỜI CẢM ƠN Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Mầm non trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô trong tổ Xã hội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong suốt thời gian em học tập tại khoa và trong thời gian em làm khóa luận tốt nghiệp. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới TS. Trần Thị Minh - người đã giúp đỡ, tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, song những ngày đầu làm quen, tiếp cận và học hỏi nghiên cứu khoa học sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về mặt kiến thức cũng như kinh nghiệm, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành từ quý thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Sinh viên NGUYỄN THỊ NINH AN LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp với đề tài Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ thuật, là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, chưa từng có công bố nào khác. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Sinh viên NGUYỄN THỊ NINH AN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4 6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 4 NỘI DUNG....................................................................................................... 5 Chƣơng 1. TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN CHỦ ĐỀ ............................................................................. 5 1.1. Xuân Quỳnh và truyện viết cho thiếu nhi .................................................. 5 1.1.1. Tiểu sử và sự nghiệp ............................................................................... 5 1.1.2. Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi................................................... 7 1.2. Các chủ đề chính ........................................................................................ 9 1.2.1. Một thế giới tự nhiên phong phú........................................................... 10 1.2.2. Một khúc ca về mái ấm gia đình ........................................................... 15 1.2.3. Bức tranh xã hội chân thực ................................................................... 22 Chƣơng 2. TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ................................................................ 28 2.1. Cốt truyện dung dị, đời thường ................................................................ 28 2.2. Lựa chọn chi tiết chân thực, giàu sức gợi ................................................ 31 2.3. Giọng điệu biến hóa, đa dạng, đậm chất thơ ............................................ 35 KẾT LUẬN .................................................................................................... 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 43 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong lịch sử phát triển nền văn học của mỗi quốc gia, văn học thiếu nhi là một bộ phận không thể thiếu. Ở Việt Nam, từ đầu thế kỉ XX đã xuất hiện các tác phẩm văn học viết cho các em nhưng phải đến sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền văn học thiếu nhi mới chính thức được hình thành và thực sự trở thành một bộ phận có tổ chức ở tầm vĩ mô, dần dần đạt được sự ổn định về định hướng, ngày càng phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại. Để làm nên thành công đó, không thể không nhắc đến những đóng góp quí báu của các tác giả đã dành trọn tâm huyết của mình cho thế hệ măng non, từ lớp người “khai sơn phá thạch” ban đầu như Tản Đà, Nguyễn Văn Ngọc, Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổ… đến thế hệ nhà văn, nhà thơ sau này như Định Hải, Xuân Quỳnh, Cao Xuân Sơn, Nguyễn Hoàng Sơn, Dương Thuấn… Trong đó, Xuân Quỳnh là cây bút nữ có sức sáng tạo dồi dào, có thể coi là một hiện tượng văn học độc đáo. Xuân Quỳnh (1942 - 1988) lâu nay được bạn đọc biết đến qua những vần thơ “giàu vẻ đẹp nữ tính”, “thường trực khát vọng thiết tha về hạnh phúc đời thường” (Nguyễn Thị Bình). Tuy nhiên, bên cạnh thơ, Xuân Quỳnh còn sáng tác văn xuôi. Đáng kể nhất là mảng truyện viết cho thiếu nhi. Với khoảng gần 50 truyện ngắn, bà đã cho bạn đọc thấy được khả năng “trò chuyện” với trẻ em bằng văn xuôi - những áng văn đậm đà chất thơ, sử dụng chất liệu đời thường để tạo nên những câu chuyện ngộ nghĩnh, trong trẻo mà không kém phần ý vị. Trẻ em ngày nay sống trong thời đại của công nghệ thông tin. Vì vậy, tư duy của trẻ cũng có nhiều chuyển biến. Để tạo cho trẻ niềm vui hứng khởi khi tiếp xúc với sách báo, bản thân người lớn chúng ta cũng phải có trách nhiệm tìm hiểu, hướng các em đến những tác phẩm văn học thực sự có giá trị, chứa đựng tính nhân văn và giàu có về nghệ thuật ngôn ngữ. Xét trên tiêu chí đó, truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi có thể coi là món quà trân quý của “bạn đọc ngày xưa gửi tặng bạn đọc bây giờ” như có lần bà tự bạch. 1 1.2. Xuất phát từ niềm say mê văn học thiếu nhi và niềm cảm phục trước một cây bút tài hoa, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ thuật để làm khóa luận tốt nghiệp đại học. Việc thực hiện đề tài này giúp người viết có thêm cơ hội bồi đắp năng lực cảm thụ văn chương, giúp ích cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giảng dạy ở trường mầm non sau này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tác của bà vì thế được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học chú ý quan tâm. Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi cố gắng tiếp cận những công trình, bài viết về mảng truyện ngắn viết cho thiếu nhi của bà một cách hệ thống. Bàn về tập truyện Mùa xuân trên cánh đồng (1981), tác giả Hiền Phương đi sâu tìm hiểu sức hấp dẫn của ngòi bút Xuân Quỳnh qua những câu chuyện đời thường gần gũi với trẻ thơ. Tác giả đã nhận ra rằng: “Chỉ những vật bình thường gần gũi thôi, bằng một khả năng quan sát và tưởng tượng phong phú, với lối kể hóm hỉnh, thông minh, tác giả đã dựng lên những câu chuyện ngắn gọn mà có sức lôi cuốn mạnh, giúp các em khám phá thêm những điều diệu kì trong thế giới tự nhiên và đặc biệt là trong chính bản thân mình” [Dẫn theo 10, 540]. Đọc truyện ngắn Xuân Quỳnh, trẻ em sẽ giải thích được rất nhiều những câu hỏi “Vì sao?”, “Tại sao?” mà trong đầu chúng thường hay thắc mắc: Vì sao hạt đỗ lại mọc thành cây? Vì sao quả bầu lại dài? Cánh diều bay cao được là nhờ đâu?… Theo Hiền Phương, tuyển tập Mùa xuân trên cánh đồng không chỉ “đẹp” về nội dung mà còn “đẹp” về hình thức: “Một điều cần nói thêm: trang bìa và những tranh minh họa của họa sĩ Trương Quang đã làm cho cuốn truyện đẹp và sinh động hơn rất nhiều” [Dẫn theo 10, 540]. Trong bài viết Bến tàu trong thành phố (1984), nhà văn Trần Ninh Hồ nhấn mạnh “giọng kể” như điểm nhấn tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho mỗi trang văn Xuân Quỳnh viết dành tặng bạn đọc nhỏ tuổi: “Có lẽ vì thế, vì cái giọng kể rất riêng ấy là cái mạnh của Xuân Quỳnh, khiến cho những chuyện ngỡ như không có gì bỗng trở thành đằm thắm, đậm đà…” [Dẫn theo 10, 659]. 2 Trong bài viết Bến tàu trong thành phố của Xuân Quỳnh, nhà văn Lê Phương Liên đã nhận định như sau: “Không chỉ có duyên với thiếu nhi, Xuân Quỳnh còn có duyên kể chuyện. Bà đã sáng tạo ra một tuổi thơ nghệ thuật từ tuổi thơ của mình và tuổi thơ của các con” [Xem 12]. Lê Phương Liên cho rằng đề tài “gia đình” gắn liền với sự nghiệp viết cho trẻ em của Xuân Quỳnh và bà là một trong những cây bút thành công đầu tiên về đề tài gia đình cho trẻ em. Xoay quanh đề tài này, nhà văn Nguyễn Ngọc Tú cũng đưa ra đánh giá: “Ngoài làm thơ, Xuân Quỳnh còn viết truyện thiếu nhi. Có nhiều truyện đọc mà rưng rưng nước mắt như truyện Khi vắng bà, Bến tàu trong thành phố, Ông nội và ông ngoại… là những truyện in đậm trong trí nhớ mọi người” [5, 259]. Lý giải nét đặc sắc trong sáng tác cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh, Đông Mai - chị gái Xuân Quỳnh cho rằng: “Cuộc đời mồ côi khiến Xuân Quỳnh hiểu tình mẫu tử thiêng liêng, cần thiết và quý giá như nào đối với trẻ thơ, nên khi làm mẹ, Xuân Quỳnh dồn tất cả tâm hồn và sức lực cho con. Trong thơ Xuân Quỳnh, tình mẹ con thiết tha, sâu đậm. Những đứa con là nguồn tri thức không bao giờ vơi cạn của Quỳnh. Những bài thơ nói về con, viết cho con chiếm số lượng lớn trong thơ Xuân Quỳnh và vì vậy, ta hiểu tại sao văn Quỳnh viết cho thiếu nhi lại dí dỏm, nồng ấm tình người đến như vậy” [Xem 6]. Trong Giáo trình Văn học trẻ em, phần khái quát, tác giả Lã Thị Bắc Lý có nhắc đến tập truyện Bến tàu trong thành phố của Xuân Quỳnh trong mảng đề tài viết về cuộc sống mới: “Viết về cuộc sống mới khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, các nhà văn chú ý đến nhiều vấn đề đạo đức của con người. Những tác phẩm như: Tình thương (Phạm Hổ), Bến tàu trong thành phố (Xuân Quỳnh), Chú bé có tài mở khóa (Nguyễn Quang Thuân), Hành trình ngày thơ ấu (Dương Thu Hương)… có thể coi là những tác phẩm xung kích đã mạnh dạn phanh phui những tiêu cực của xã hội với những cái xấu, cái lạc hậu và sự nhỏ nhen, đố kị trong những suy nghĩ của con người” [3,16]. Qua việc tổng hợp, khảo sát tài liệu, chúng tôi nhận thấy mảng truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi đã được một số tác giả quan tâm bàn đến. Tuy nhiên, những bài viết đó mới chỉ dừng lại ở một số nhận định khái quát, chưa đi sâu nghiên cứu các tầng ý nghĩa cũng như sức hấp dẫn của mảng truyện 3 này. Đó là một gợi ý để chúng tôi triển khai khóa luận tốt nghiệp với đề tài Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ thuật. Những công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu đi trước là những gợi ý quí báu cho chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những nét đặc sắc trong truyện viết cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh trên hai phương diện chủ đề và nghệ thuật. Qua đó, thấy được giá trị của mảng truyện này cũng như những đóng góp của bà trong lĩnh vực văn xuôi thiếu nhi. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu giá trị truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi trên hai phương diện chủ đề và nghệ thuật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Với đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát 48 truyện ngắn được in trong cuốn Xuân Quỳnh - Tuyển tập truyện thiếu nhi do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 1995. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp khảo sát, thống kê - Phương pháp so sánh văn học - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của khóa luận gồm hai chương: - Chương 1: Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề - Chương 2: Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện nghệ thuật 4 NỘI DUNG Chƣơng 1 TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN CHỦ ĐỀ 1.1. Xuân Quỳnh và truyện viết cho thiếu nhi 1.1.1. Tiểu sử và sự nghiệp “Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 /10/1942 tại làng La Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông (nay là quận Hà Đông, Hà Nội). Xuân Quỳnh sinh ra trong một gia đình công chức. Bà được thừa hưởng nhan sắc, phẩm hạnh của mẹ và tình yêu văn chương của cha, nhưng cuộc đời lại sớm chịu nhiều thiệt thòi vất vả. Mẹ mất sớm, cha thường xuyên đi công tác xa nhà, Xuân Quỳnh ở với bà nội và lớn lên cùng chị gái là Đông Mai. Tuổi thơ của Quỳnh trôi qua thật nghèo nàn, cơ cực và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Chính bởi cuộc sống vất vả từ nhỏ như vậy nên đã khiến Xuân Quỳnh có phần già dặn trước tuổi”. “Tháng 2 năm 1955, khi mới 13 tuổi, Xuân Quỳnh được tuyển chọn vào Đoàn văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo để trở thành diễn viên múa chuyên nghiệp theo lối học truyền nghề ngay tại đoàn. Vốn có năng khiếu, lại thông minh xinh đẹp, cô em út của đoàn sớm chiếm được tình cảm của mọi người và trở thành diễn viên múa đầy triển vọng. Xuân Quỳnh đã nhiều lần đi biểu diễn ở các nước và dự đại hội Thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Viên (Áo). Xuân Quỳnh học ở trường Bồi dưỡng những nhà viết văn trẻ (khóa I) của Hội Nhà văn. Ngày 5 tháng 8 năm 1963, sau khi từ đảo Cô Tô về, Xuân Quỳnh quyết tâm theo đuổi con đường văn học. Từ năm 1964 trở đi, Xuân Quỳnh trở thành biên tập viên báo Văn nghệ, báo Phụ Nữ Việt Nam, Nhà xuất bản tác phẩm mới. Tại Đại hội các nhà văn lần thứ 3, Xuân Quỳnh được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Một số tác phầm của Xuân Quỳnh đã được dịch và in tại Liên Xô, CHND Đức, Pháp…” “Xuân Quỳnh qua đời ngày 28 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương, cùng chồng là 5 Lưu Quang Vũ và con trai út Lưu Quỳnh Thơ (13 tuổi). Sự việc xảy ra đã gây bao điều đau đớn và xót thương trong lòng những người yêu mến gia đình nghệ sĩ tài hoa. Những bông cúc vàng mà bà từng yêu, từng nhắc đến trong những trang thơ phủ kín đầy khu mộ. Thế nhưng chính sự ra đi bất ngờ ấy đã làm cho Xuân Quỳnh và cả tác phấm của bà trở nên đẹp, bất tử và thiêng liêng. Năm 2011, Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật” [ Xem 12] Xuân Quỳnh có thơ đăng báo Văn nghệ từ năm 1962. Năm 1963, trong một tập thơ in chung với Cẩm Lai (Tơ tằm - Chồi biếc), phần Chồi biếc là sáng tác của Xuân Quỳnh, “mang cái nhìn trong trẻo, trẻ trung, có khi bồng bột nhưng rất đằm thắm chân thành trước cuộc đời, nhất là cảm xúc về tình yêu” [4, 313]. Hiện thực đất nước những năm chống Mĩ là nguồn cảm hứng lớn trong các tập Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Lời ru mặt đất (1978). Những tập thơ này bộc lộ rõ “ý thức của một nhà thơ công dân, nhà thơ chiến sĩ” [4, 312]. Bên cạnh cảm hứng công dân, thơ về tình yêu và con trẻ của Xuân Quỳnh ở những chặng đường này có thể xem là những đóng góp đặc sắc. “Đó là tiếng lòng của một cái tôi cá nhân đích thực, mang bản chất tự nhiên thuần hậu, khao khát hướng tới hạnh phúc làm vợ, làm mẹ” [4, 312]. Bản năng làm mẹ, phẩm tính mẹ và cái nhìn hóm hỉnh về thế giới đã đem lại cho Xuân Quỳnh những vần thơ thật trìu mến, trong trẻo về trẻ thơ như Cắt nghĩa, Chùm thơ xuân cho ba con nhỏ, Chuyện cổ tích về loài người… Năm 1983, tập thơ Bầu trời trog quả trứng của Xuân Quỳnh đã được tặng giải A, một giải thưởng văn học hằng năm của Hội nhà văn Việt Nam. Đó là dấu mốc ghi nhận thành quả lao động nghệ thuật vì con trẻ của bà. Bên cạnh thơ, Xuân Quỳnh còn sáng tác văn xuôi trong đó truyện viết cho thiếu nhi là một điểm sáng nổi bật. Xuân Quỳnh am hiểu tâm lí trẻ thơ cùng với khiếu quan sát tinh tế nên mỗi trang văn đều mang đến cho bạn đọc những khám phá bất ngờ, thú vị. Mảng sáng tác này không chỉ góp phần bồi đắp thêm cho tâm hồn con trẻ, nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp cho các em mà còn “đánh thức” trong mỗi người lớn chúng ta niềm nhớ tiếc khi nghĩ về 6 năm tháng tuổi thơ dịu ngọt của mình. “Các tác phẩm chính - Tơ tằm - Chồi biếc (thơ, in chung, Nxb Văn học, 1995) - Hoa dọc chiến hào (thơ, in chung, 1968) - Gió Lào cát trắng (thơ, 1974) - Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978) - Sân ga chiều em đi (thơ, 1984) - Tự hát (thơ, 1984) - Tiếng gà trưa (thơ) - Hoa cỏ may (thơ, 1984) - Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994) - Cây trong phố - Chờ trăng (thơ) Các tác phẩm viết cho thiếu nhi - Bầu trời trong quả trứng (thơ thiếu nhi, 1982) - Truyện Lưu Nguyễn (truyện thiếu nhi, 1984) - Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi, 1981) - Bến tàu trong thành phố (truyện thiếu nhi, 1984) - Vẫn có ông trăng khác (truyện thiếu nhi, 1986) - Xuân Quỳnh - Tuyển tập truyện thiếu nhi (1995) - Chú gấu trong vòng đu quay (tập truyện)” 1.1.2. Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi Xuân Quỳnh đến với thiếu nhi trong hành trình dài một đời thơ, một đời văn, không phải phút dừng chân như một du khách lãng du, bà đến với các em bằng một tình yêu đích thực với tâm nguyện trở thành “người bạn” của các em. Xuân Quỳnh viết truyện cho thiếu nhi khi trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện nhiều tên tuổi nổi tiếng như Đoàn Giỏi, Phạm Hổ, Võ Quảng, Phong Thu, Trần Hoài Dương… nhưng bà vẫn khẳng định mình bằng một phong cách rất riêng. Nét độc đáo trong văn xuôi Xuân Quỳnh nằm ở sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp “thiên tính nữ” với giá trị của sự thật, của cái thật. Bà không ngại ngần, né tránh khai thác đề tài xã hội với muôn mặt phức tạp của nó trong cuộc sống đời thường. Những mảnh đời xuất hiện trong truyện ngắn 7 Xuân Quỳnh thường là những người lao động nghèo khổ xung quanh các em: đó là Thầy giáo dạy vẽ cả đời chưa vẽ được bức tranh nào đáng kể, đó là Người làm đồ chơi tốt bụng, nặng lòng với truyền thống nhưng cuối cùng vẫn phải giải nghệ về quê, đó là Bà bán bỏng ở cổng trường tôi chỉ vì tin đồn ác ý mà phải đi xin ăn… Từ những chi tiết vụn vặt, đời thường, Xuân Quỳnh đã “gia công” nhào nặn khiến những trang truyện tuy có ánh vẻ đượm buồn nhưng vẫn khiến bạn đọc lạc quan, tin tưởng ở tình người, ở sự thông cảm, sẻ chia vẫn còn tồn tại trong xã hội. Về vấn đề này, tác giả Lê Nhật Ký nhận xét: “Có người bảo Xuân Quỳnh thường viết hơi nhiều về những truyện trong cảnh nghèo và thường mang đôi chút ngậm ngùi. Có thể là như vậy, nhưng cái điều cần thiết là lòng thương mến, độ lượng, biết quí trọng, gắn bó với những người thân thiết xung quanh thì bao giờ ta cũng thấy đậm đà trên trang viết của chị. Xuân Quỳnh rất biết quý trọng những chi tiết đời thường của riêng mình và những điều thân thuộc mỗi khi chị cầm bút. Và nói được cùng con trẻ những điều này, giữa những ngày này, thật cần biết bao” [Dẫn theo 12]. Từ những câu chuyện nhỏ ấy, trẻ thơ có thể rút ra được cho mình những bài học giáo dục nhẹ nhàng mà sâu lắng, như Nguyễn Thụy Anh từng nhận định: “Những đứa trẻ từng say mê đọc truyện Xuân Quỳnh, tôi trộm nghĩ, khó mà có thể trở thành… người ác được” [Dẫn theo 12]. Bên cạnh những tác phẩm khai thác đề tài xã hội, Xuân Quỳnh còn sáng tác nhiều truyện mang âm hưởng đồng thoại hoặc cổ tích. Nếu so sánh với Võ Quảng, ta có thể nhận thấy nhãn quan hai nhà văn đều có điểm tương đồng là lấy thế giới của con người làm trung tâm trong các sáng tác, sử dụng tất cả hình ảnh thiên nhiên với mục đích soi chiếu vào xã hội loài người. Võ Quảng là một trong rất ít những nhà văn cả đời chuyên tâm với sáng tác văn học cho trẻ em, với những tác phẩm đồng thoại nổi bật như Anh Cút lủi, Những chiếc áo ấm, Trong một hồ nước, Bài học tốt ... hay tiểu thuyết Tảng sáng và Quê nội… “Đối với những sáng tác truyện đồng thoại, cả hai nhà văn đều không ham viết dài. Chỉ bằng một vài nét phác họa, tác giả đã dựng lên một cảnh trí, một tình huống mà ở đó có đầy đủ mà sắc, âm thanh. Có thể nói, những câu câu chuyện đồng thoại của Xuân Quỳnh và Võ Quảng là những công trình sư phạm góp phần giáo dục cho các em cả về trí tuệ, thẩm mĩ và về phép đối nhân xử thế trong cuộc đời. Tuy nhiên, nếu những sáng tác của Xuân 8 Quỳnh mang đậm chất thơ với những cốt truyện đơn giản, nhẹ nhàng thấm vào tâm hồn người đọc thì truyện ngắn của Võ Quảng lại mang dáng dấp truyện ngụ ngôn”. Ở phương diện đề tài, nếu mảng đề tài lớn trong truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi là gia đình và xã hội thì bao trùm trong những sáng tác của Võ Quảng là quê hương và cách mạng. Khi nói đến phong cách Xuân Quỳnh, đôi lúc bạn đọc thấy được điểm gặp gỡ giữa Xuân Quỳnh và nhà văn Phong Thu. “Điểm gặp gỡ giữa hai tác giả đó là ở chất thơ nhẹ nhàng trong mỗi sáng tác viết cho thiếu nhi. Cốt truyện trong các sáng tác của Xuân Quỳnh và Phong Thu thường rất giản dị, gần gũi, dể hiểu về tình cảm gia đình, tình thầy trò, chuyện loài vật… Tiêu biểu là các tác phẩm Bồ nông có hiếu, Xe lu và xe ca, Cây bàng không rụng lá… Không quá thiên về những chi tiết và cấu tứ, những sáng tác của nhà văn Phong Thu như một lát cắt thanh mảnh, trong trẻo của cuộc sống, gần gũi với trẻ em. Cùng thấm đẫm chất thơ nhưng những tác phẩm truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh lại thiên về mảng đề tài thế sự, xã hội, những vấn đề đạo đức. Nhà văn Phong Thu thường chọn những đề tài về thế giới loài vật, thiên về sử dụng các biện pháp nhân hóa, đem hơi thở của cuộc sống vào thế giới tự nhiên”. Truyện thiếu nhi Việt Nam là một kho tàng phong phú, đa dạng và được ví như một vườn hoa tràn đầy sắc hương. Mỗi nhà văn là một màu sắc, một hương thơm riêng không thể nhòe lẫn. Truyện viết cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh trong kho tàng văn học Việt Nam mang vẻ đẹp của một giọng văn giàu “chất thơ”, rất tự nhiên và nhẹ nhàng, giàu tính nữ. Bà đã đóng góp lớn vào nền văn học thiếu nhi nước nhà bằng những tác phẩm có giá trị, mang tính giáo dục cao như Bà tôi, Bến tàu trong thành phố, Mùa xuân trên cánh đồng, Người làm đồ chơi… Những câu chuyện nhỏ của bà cứ nhẹ nhàng thấm vào tâm hồn các em, thủ thỉ với các em về những điều hay lẽ phải, hướng các em đến những điều tốt đẹp. Truyện Xuân Quỳnh viết không chỉ con trẻ yêu thích mà còn cả những độc giả lớn tuổi bởi khi đọc người lớn cũng thấy tâm hồn mình trẻ lại và thấy được “ngày bé đáng yêu” của mình. 1.2. Các chủ đề chính “Dù thuộc thế hệ những người cầm bút trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, nhưng Xuân Quỳnh đến với những sáng tác văn xuôi cho thiếu nhi khá muộn. Tuy số lượng không quá đồ sộ nhưng cũng đủ để khắc 9 họa những mảng đề tài phong phú xoay quanh cuộc sống trẻ thơ”. 1.2.1. Một thế giới tự nhiên phong phú Khảo sát cuốn Xuân Quỳnh - Tuyển tập truyện thiếu nhi do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 1995, chúng tôi thống kê được 18/ 30 truyện (60%) khai thác đề tài về thế giới tự nhiên. Đặc biệt, thế giới tự nhiên ấy lại được khúc xạ qua cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo đậm chất trẻ thơ. Thiên nhiên và thế giới loài vật ngộ nghĩnh, sinh động luôn là nguồn cảm hứng sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Phạm Hổ từng quan niệm thiên nhiên là một nhân vật không thể thiếu trong sáng tác cho các em. Trong những sáng tác của Xuân Quỳnh, thiên nhiên cũng là một trong những đề tài được nhắc đến rất nhiều. Qua đó, Xuân Quỳnh không chỉ giúp các em mở rộng nhận thức về thế giới tự nhiên, môi trường xung quanh mà còn hướng các em đến với cái đẹp và cái thiện trong cuộc sống. Quả Bầu nhớ Đất là câu chuyện đầy xúc động về tình cảm khăng khít giữa Bầu và Đất: “Ngày xửa ngày xưa, Bầu và Đất ở rất gần nhau. Bầu mọc ra từ Đất. Bầu đi chỗ nào cũng gặp Đất. Đất ở chỗ nào cũng gặp Bầu” [11, 152]. Những quả bầu con của Bầu tròn như trái bưởi được gửi lại cho bác Đất trông nom. Khi Bầu đi vắng, Đất bồng bế, chăm sóc. Đất ru những quả bầu bằng những lời thì thầm từ trong lòng Đất. Lòng tốt của Đất và sự biết ơn của Bầu khiến sự gắn kết của chúng càng lớn hơn. Tưởng chừng như Đất và Bầu sẽ không bao giờ rời xa nhau nhưng chẳng may trời mưa lũ. Bầu đành nghe lời Đất gạt đi nước mắt, những ngọn Bầu đem theo những quả bầu còn nhỏ leo lên cây. Năm ấy ngập lụt, nước làm thối rễ Bầu. Biết mình chẳng sống được bao lâu, Bầu đã trăn trối lại với các con về lòng tốt và mối quan hệ giữa họ nhà Bầu với Đất… Nhớ lời mẹ dặn, Bầu tách hạt về với Đất, Đất lại vun xới cho hạt nảy mầm, mọc lên những giàn bầu. Tuy đã quen sống trên cây, nhưng Bầu thương cho sự vất vả của Đất nên đã đem lá của mình để che nắng che mưa cho Đất, những quả Bầu luôn hướng về Đất nên có hình dáng dài chứ không còn tròn như quả bưởi. Mỗi lần có cơn gió thoảng qua, quả bầu lại đung đưa theo tiếng ru thì thầm của Đất năm xưa. Qua câu chuyện nhỏ về tình cảm giữa gắn bó giữa Đất và Bầu, Xuân Quỳnh muốn nhắn nhủ tới các bạn 10 nhỏ về lòng biết ơn khi được giúp đỡ, sự hi sinh và sự gắn kết để tạo nên cuộc sống muôn loài. Mặt khác, cách giải thích vô cùng đáng yêu của bà đã giúp các em trả lời câu hỏi: vì sao mà quả bầu lại dài chứ không có hình tròn. Đồng thời, giúp các em hiểu một quy luật: cây muốn sống thì phải được đất mẹ nuôi dưỡng. Để giải thích một cách kéo léo về quá trình và điều kiện để hạt nảy mầm cần có đất, nước, không khí, Xuân Quỳnh còn có truyện Hạt Đỗ Sót. Sáng tác kể về Đỗ Sót - hạt đỗ còn sót lại trong chiếc hũ kín, không được gieo trồng nơi luống đất như các bạn của mình: “Khi sót lại, Đỗ Sót cũng đã kêu cứu, nhưng người nghe không hiểu tiếng của đỗ nên không biết trong hũ còn một hạt đỗ sót lại. Đỗ Sót rất buồn. Sống trong hũ vừa tối vừa vắng vẻ” [11, 121]. “Không chỉ mắc kẹt ở trong chiếc hũ, Đỗ Sót còn phải đối diện với bao nguy hiểm, thử thách trong hành trình tìm ra luống đất ấm ấp nơi có bạn bè mình ở đó. Trong chiếc hũ tăm tối, đơn độc cô Đỗ Sót phải đối mặt với Mụ Mọt xấu xa, nhờ sự giúp đỡ của các bạn kiến mà cô mới thoát được nạn. Nhưng khó khăn còn chưa hết, trên đường được các bạn kiến đem ra luống đất sau vườn, cô Đỗ Sót vô tình được tưới nước nên đã nảy mầm và đành nằm lại nơi khe gạch buồn tẻ... Chỉ trong ba trang giấy mà câu chuyện cô Đỗ Sót trở nên vô cùng li kì, hấp dẫn dưới ngòi bút của nhà văn. Cô Đỗ Sót tuy nhỏ bé, mỏng manh nhưng rất dũng cảm, can trường. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo, cô đều lạc quan và nghĩ đến những điều tốt đẹp. Trải qua những khó khăn, thử thách cuối cùng số phận đã mỉm cười với Đỗ Sót, khi một ngày kia có một em bé nhận ra Đỗ Sót và đem cô ra trồng ở luống đất sau vườn”. Vậy là qua bao nhiêu thử thách, cuối cùng cô cũng được sống giữa bạn bè, cây đỗ ngày nào đã vươn cao: “Bây giờ Đỗ Sót đã sống ở giữa bạn bè, nhưng vẫn còn một chút buồn lây các bạn cô đã ra hoa, còn cô mới lưa thưa vài cái lá. Nhưng rồi, tuy lớn muộn hơn, cuối cùng cô cũng ra hoa và kết quả. Cô vui sướng, các bạn nhà đỗ thấy vậy cũng lại vui như chính mình được ra hoa kết quả một lần nữa” [11, 126]. Viết về hoàn cảnh, sự éo le của Đỗ Sót tác giả như muốn gửi gắm một ý nghĩa tới các em: trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy luôn mạnh mẽ, dũng cảm, hãy tin rằng cuộc sống mỗi ngày sẽ tốt đẹp hơn. Câu chuyện nhỏ nhưng mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc, giúp các em thắp lên ngọn lửa của 11 niềm hi vọng, tin yêu vào cuộc sống. Trong truyện Hoa râm bụt, ngòi bút nhà văn khắc họa hình ảnh một jhu vườn với đủ loại hoa khoe sắc: hoa huệ trắng muốt tỏa hương ngào ngạt, hoa hồng nhung kiêu sa, thược dược, cẩm chướng lúc nào cũng khoác trên người đủ màu sắc sặc sỡ, lúc nào cũng nói cười toe toét. Các loài hoa chê bai râm bụt sao mà xấu quá, “chẳng thơm, chẳng ai thèm cắm lên bình, không ai thèm chăm bón, chả ai thèm hái tặng nhau”, rồi hoa gì “mà chẳng ai thèm chơi, phải chơi cùng ếch nhái” [11, 131]. Các loài hoa mách chủ vườn nên chặt râm bụt đi khỏi phí đất. Một hôm trời bão, các mụ gió thi nhau hoành hành, hàng ngàn mụ gió tấn công vườn hoa khiến rất nhiều loài hoa bị thương: cô hồng nhung rách tả tơi cả áo đẹp, hoa huệ sái cả cổ, cẩm chướng dập hết mồm miệng… Bấy giờ mọi loài hoa trong vườn mới nhớ đến giàn râm bụt: “Phải chi rặng râm bụt còn thì các cô đâu đến nỗi xơ xác thế này. Các cô khóc lóc. Cô nọ đổ cô kia là đã xui chị chủ vườn chặt mất rặng râm bụt” [11, 134]. Râm bụt nghe thấy đã trồi lên trổ búp xanh tươi. Từ đó các loài hoa trong vườn cùng sống vui vẻ bên nhau. Thông qua câu chuyện, Xuân Quỳnh không chỉ cung cấp và giúp cho các em hiểu biết về các loài hoa cùng màu sắc, hình dáng của chúng mà còn nhắc nhở các em hãy biết sống khiêm tốn, yêu thương đồng loại. Bên cạnh bức tranh cỏ cây, hoa lá căng tràn nhựa sống, truyện viết cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh còn tái hiện hình ảnh thế giới loài vật ngộ nghĩnh, đáng yêu. Mùa xuân trên cánh đồng là tác phẩm vẽ ra không gian mùa xuân tươi mới, rộn ràng để lồng ghép câu chuyện về tình bạn của các loài vật. Dòng suối vào mùa xuân tuôn chảy, sau khi băng tan đã vô tình che lấp đi khóm hoa cúc mà Sẻ Đồng dự định làm món quà tặng Ong Đất. Sự việc khiến Ong Đất hiểu lầm, có những lời nói làm Sẻ Đồng buồn bã: “Anh bày trò gạt tôi, anh là kẻ xấu bụng, đồ dối trá” [11, 161]. Nhưng thật may, nhờ có Dế mèn, Xiến Tóc, Ếch Xanh… mà hiểu lầm giữa Sẻ Đồng và Ong Đất cuối cùng được hóa giải: “Nghe tin, bọ muỗm, bọ ngựa, chuồn ớt, chuồn kim kéo đến. Có cả một anh sếu giang hồ cũng xin phép nhập bọn an ủi sẻ đồng, sếu ở phương xa tới, nói tiếng nước ngoài, không hiểu tiếng các loài vật trên đồng, phải nhờ chim bách thanh làm phiên dịch. Cả bọn tìm tới bụi lạc tiên, Sẻ Đồng vẫn ngồi đấy, 12 nước mắt ướt đẫm hai bông mẫu đơn” [11, 159]. Và đây là niềm vui khi Ếch Xanh lặn xuống tìm được khóm cúc với mấy bông hoa ướt sũng nhưng hãy còn tươi nguyên và trắng muốt để trao lại cho Ong Đất: “Mọi người tíu tít reo lên: Bách thanh phiên dịch lại cho sếu. Cả bọn quay về chỗ ong đất. Ếch đi ở giữa giơ cao khóm cúc trắng muốt dưới ánh nắng mai” [11, 163]. Câu chuyện giản dị nhưng ẩn chứa thông điệp về tình bạn, sự chia sẻ, bao dung: “Đấy là câu chuyện trên cánh đồng sớm mùa xuân. Bây giờ, không còn ai buồn và lẻ loi một mình nữa. Chim líu lo hót trên cỏ mới. Gió ngào ngạt mùi mật và hoa. Dưới nước, trên bờ, ai nấy mới yên tâm đi dự hội. Bởi vì, tất cả vui mà có một người buồn, thì cũng không thể gọi là niềm vui thực sự được.” [11, 163]. Trong cuộc sống đời thực cũng vậy, đôi khi vì những hiểu lầm mà ta vô tình khiến những người bạn mà ta yêu quý bị tổn thương nhưng hãy tin rằng nếu tình bạn đó chân chính thì chúng ta luôn tìm được cách riêng để hàn gắn chúng ta lại nhau. Xuân Quỳnh khéo léo mở ra một cái kết “có hậu” với lời giải thích ngộ nghĩnh, giúp các em khám phá thêm những điều kì diệu trong thế giới tự nhiên và đặc biệt trong chính bản thân mình. Trẻ em lớn lên, được tiếp xúc với thế giới tự nhiên kì diệu, các em thấy những sự vật, hiện tượng xung quanh mình thật mới lạ, hấp dẫn. Điều này tác động đến bản tính tò mò, ưa khám phá của các em. Với trẻ thơ, những câu hỏi tại sao? tưởng chừng không bao giờ dứt. Chẳng hạn, tại sao có tên Gió nhưng chưa một lần nhìn thấy Gió? Hiểu được tâm lí ấy, Xuân Quỳnh đã khéo léo giúp các em giải đáp qua truyện Cô gió mất tên. Câu chuyện kể về cuộc hành trình đi tìm lại chính mình của một cô gió - một ý tưởng đầy mới lạ và độc đáo. Cô gió tuy không có dáng hình, nhưng điều đó chẳng sao vì: “hình dáng của cô là ở người khác, ở sự có ích cho người khác, ở niềm vui của người khác” [11, 111]. Cô gió rất tốt bụng, cô luôn âm thầm giúp đỡ mọi người. Ở nơi nào cần, cô nhanh chóng đến giúp: “Từ ở nơi xa cô gió đã nghe tiếng và biết hết tất cả mọi việc. Cô vội vàng chạy đến giúp bà một tay. Đến cửa sổ nhà Đào, cô dừng lại một giây rồi từ từ thổi hơi mát vào giường bà. Vì đối với người ốm mà làm mạnh quá thì nguy hiểm” [11, 103]. Gió tồn tại xung quanh chúng ta, đem lại hơi mát, giúp cánh buồm phiêu du, giúp cho cây cỏ và hoa kết trái: “Gió thổi các ngọn khói bay trên tầng ống khói nhà máy. Gió tỏa hơi 13 mát của dòng suối ra khắp bờ cây. Gió đưa mùi thơm của hoa vườn tràn ra đồng cỏ (…). Gió rộng lớn thổi khắp bầu trời mặt đất, nhưng vẫn không quên quay tít cái chong chóng nhỏ sặc sỡ trên tay em bé” [11,110]. Từ những việc dù là nhỏ bé, đơn giản đến những điều to lớn, vĩ đại chúng ta đều cần đến sự giúp đỡ của cô Gió, tuy “mất tên” nhưng vô cùng tốt bụng, luôn âm thầm làm việc tốt. Có lẽ, ít ai viết về ngọn gió mà lại hay và xúc động như Xuân Quỳnh. Một bài học về lòng biết ơn, sự tốt bụng, biết giúp đỡ những người xung quanh được bà gửi tới bạn nhỏ tuổi qua câu chuyện thật giản dị và dễ hiểu. Thế giới tự nhiên trong trí tưởng tượng của trẻ cũng được Xuân Quỳnh lí giải hợp lí theo cách nghĩ, cách nói của trẻ thơ. Trong câu chuyện Vẫn có ông trăng khác, cô bé Mai băn khoăn về lời giải thích mặt trăng là khối đá lạnh lẽo, to và xấu xí. Mai đã rất buồn khi chú Dũng giải thích trên mặt trăng chỉ có đất đá lổm ngổm chứ không có cây cối hay sinh vật gì sống được, mặt trăng không tự chiếu sáng mà phải nhờ vào ánh sáng của mặt trời. Trong lòng Mai có rất nhiều thắc mắc, cô bé đã tự đi tìm cho mình câu trả lời và rồi hình ảnh một ông trăng khác xuất hiện, ông trăng có trong lời kể của bà. Với Mai đó là vầng trăng đẹp nhất: “Mai hiểu ra rồi, thế là có hai mặt trăng, một, người ta đã tìm ra, đã đến nơi, đã gặp… Còn mặt trăng kia thì chưa ai tới đươc và không biết rõ nó ra sao, chỉ biết là từ ngày xửa ngày xưa bà vẫn kể rằng trên đó có cây đa to, có chú Cuội thổi sáo rất hay và có cô Hằng Nga rất đẹp. Mặt trăng ấy tự nó lúc nào cũng sáng, nhất là những đêm rằm. Mặt trăng ấy là của các bạn nhỏ, của bà, và của những ai yêu và hiểu được nó. Mặt trăng ấy, có lẽ là nhiều người lớn khó mà khám phá ra được” [11, 243 - 244]. Có thể, trong suy nghĩ của người lớn, cây đa, chú Cuội, chị Hằng không có thực nhưng trong suy nghĩ của trẻ thơ đó không phải điều hoang tưởng mà là cả một thế giới kì diệu mà người lớn không hiểu được: “Thế là người lớn đã lầm! Người lớn lạ thật đấy, nhìn chú Cuội với cây đa mà lại cứ tưởng là đất đá…” [11, 244]. Qua truyện, Xuân Quỳnh khéo léo giới thiệu cho các em về thế giới tự nhiên, về mặt trăng nhưng bà không áp đặt suy nghĩ của người lớn ép các em phải hiểu. Bà đã tạo điều kiện cho các em thỏa sức tưởng tượng: trên bầu trời không chỉ có một mặt trăng như một tinh thể không sự sống mà còn có một mặt trăng khác có cây đa, 14 chú Cuội, chị Hằng. Gần gũi với Vẫn có ông trăng khác, truyện Lời ru của trăng như khúc ca nồng ấm, ngọt ngào. Trong trí tượng của cô bé Thơ, trăng không hề vô cảm và lạnh lẽo mà thân thiết như một người bạn, một người chị đến vỗ về giấc ngủ trẻ thơ: “Ánh trăng vằng vặc. Cô trăng đang tròn sáng giữa bầu trời. Cô đang cười với Thơ kìa. Chắc cô nhớ đến chuyện cô vừa giả vờ ngã xuống bể nước để đem lại cho thơ một giấc mơ kì lạ. Thơ nghĩ vậy rồi lại thiu thiu ngủ trong lời ru hiền dịu của trăng” [11, 120]. Qua những câu chuyện viết về thế giới tự nhiên, Xuân Quỳnh đã giúp các em có thêm hiểu biết về một thế giới thiên nhiên tươi đẹp, về thế giới động vật, thực vật phong phú. Những câu chuyện mang âm hưởng của cổ tích, đồng thoại, mang đến cho trẻ thơ bao điều bổ ích, đồng thời khơi gợi trong các em trí tưởng tượng, lòng khao khát khám phá những điều thú vị xung quanh. Với cái nhìn từ đôi mắt và mĩ cảm trẻ thơ, có thể nói, Xuân Quỳnh đã “chạm” được tới trái tim các em và giúp các em thêm yêu quý, trân trọng vẻ đẹp của thế giới tự nhiên xung quanh mình. 1.2.2. Một khúc ca về mái ấm gia đình Có lẽ, trên thế giới này, tình cảm gia đình là thứ tình cảm bình dị nhất và cũng thiêng liêng cao quý nhất. Chỉ khi ở bên gia đình, bên những người thân yêu của mình, ta mới cảm thấy bình yên và hạnh phúc. Xuân Quỳnh cũng vậy, với bà, mái ấm gia đình là nơi thân thương, nơi gửi gắm bao cung bậc cảm xúc. Đối với mảng đề tài gia đình, bằng cái nhìn chan chứa yêu thương, Xuân Quỳnh đã tiếp cận và khai thác theo cách riêng của mình. Tác giả đã có những trang miêu tả cảm động vẻ đẹp của tình mẫu tử, tình phụ tử, tình cảm anh em và tình cảm của người cháu đối với ông bà của mình. Vẻ đẹp của tình mẫu tử luôn là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận trong văn chương. Xuân Quỳnh từng trải qua tuổi thơ vắng bóng tình cảm yêu thương của mẹ từ rất sớm. Vì vậy, khi làm mẹ, Xuân Quỳnh đã dành tất cả tình yêu thương của mình cho những đứa con như bù đắp lại những thiếu hụt trong thời thơ ấu của mình. Trong những sáng tác của Xuân Quỳnh, với mẹ “Con là tất cả - là hạnh phúc - là báu vật mà thượng đế ban tặng”, mẹ sẽ luôn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan