TỈNH ỦY BẮC GIANG
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGÔ GIA
TỰ BẮC GIANG
Họ tên học viên:
Đơn vị công tác:
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn:
Bắc Giang, năm 2019
MỤC LỤC
A - MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................1
2. Mục đích của đề tài..........................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi và giới hạn đề tài.............................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
5. Kết cấu của khóa luận......................................................................................3
B - NỘI DUNG
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ
trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay....................4
1.1. Khái niệm.....................................................................................................4
1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên.............................................................4
1.3. Tính tất yếu công tác phát triển đảng viên trong sinh viên..........................11
Chương 2
Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ trường Cao
đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang...............................................................................13
2.1. Đặc điểm tình hình trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang.....................13
2.2. Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ Cao đẳng
Ngô Gia Tự, tỉnh Bắc Giang................................................................................14
2.3. Đánh giá chung công tác phát triển đảng viên trong sinh viên Trường Cao
đẳng Ngô Gia Tự.................................................................................................16
2.4. Bài học kinh nghiệm.....................................................................................19
Chương 3
Phương hướng, giải pháp phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ trường
Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang trong thời gian tới..........................................21
3.1. Phương hướng mục tiêu...............................................................................21
3.2. Các giải pháp chủ yếu...................................................................................23
C – KẾT LUẬN
- Kiến nghị...........................................................................................................35
- Kết luận.............................................................................................................36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................38
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Cao đẳng
Chữ viết tắt
CĐ
Ngô Gia Tự
NGT
Bắc Giang
BG
Thanh niên cộng sản
TNCS
Hồ Chí Minh
HCM
Lý luận chính trị - Hành chính
LLCT – HC
Cán bộ quản lý
CBQL
Giảng viên, sinh viên
GV, SV
Học sinh sinh viên
HSSV
Cán bộ, viên chức
CB, VC
Kinh tế - xã hội
KT – XH
Xây dựng đảng
XDĐ
Công tác phát triển đảng viên
CTPTĐV
Đội ngũ đảng viên
ĐNĐV
Hệ thống chính trị
HTCT
Năng lực lãnh đạo
NLLĐ
Tổ chức cơ sở đảng
TCCSĐ
Sức chiến đấu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
SCĐ
CNH, HĐH
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Kết quả kết nạp đảng viên năm 2016, 2017, 2018
Bảng 2: Tỷ lệ sinh viên được kết nạp đảng năm 2016, 2017, 2018
1
A - MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn coi trọng công tác
phát triển đảng viên, chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên, coi đó là nhiệm vụ cơ
bản, thường xuyên, là vấn đề có tính quy luật trong công tác xây dựng đảng, có
ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của Đảng, sự thành bại của cách mạng. Chỉ
thị 52-CT/TW, ngày 21 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ: Kết nạp
đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính quy luật trong công tác
xây dựng đảng nhằm tăng cường thêm sức mạnh chiến đấu và bảo đảm sự kế
thừa, phát triển của Đảng. Đảng là một cơ thể chính trị xã hội sống, có quá trình
hình thành, phát triển và đào thải riêng. Vì vậy, công tác phát triển đảng viên là
đòi hỏi tự nhiên, là quy luật tất yếu nhằm để bù đắp số lượng giảm đi và tạo
thêm sinh lực cho Đảng, bảo đảm sự kế thừa, tạo thêm nhân tố mới trong việc
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Để có đội ngũ đảng viên đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, đảng viên có chất lượng
tốt, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong các tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong các
thành phần giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi... phải đặc biệt coi trọng kết nạp đảng
viên, nhất là những nơi có ít và chưa có đảng viên. Đây là phương hướng phát
triển đảng viên được Đảng ta chỉ ra và nhất quán thực hiện trong suốt quá trình
xây dựng đảng và lãnh đạo cách mạng.
Tổ chức cơ sở đảng nói chung, Đảng bộ trường CĐ Ngô Gia Tự Bắc Giang
nói riêng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của
Đảng. Đảng bộ trường là nơi trực tiếp gắn bó với quần chúng, là cầu nối giữa
Đảng với dân, là hạt nhân chính trị lãnh đạo, nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; đồng thời
là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, nơi trực tiếp
quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tiến hành công tác phát triển đảng,
sàng lọc đảng viên.
Nhận thức rõ được vị trí, vai trò, tầm quan trọng đó, những năm qua Đảng
bộ trường luôn coi trọng và quan tâm công tác phát triển đảng viên, nhất là công
tác phát triển đảng viên là sinh viên. Do đó, công tác phát triển đảng viên đã đạt
được những kết quả quan trọng, số lượng đảng viên là sinh viên ngày càng tăng,
đại đa số đảng viên là sinh viên đã phát huy tốt vai trò tiên phong gương mẫu,
góp phần cải thiện cơ cấu và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tạo điều
2
kiện thuận lợi để các đảng bộ trường lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ.
Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên là sinh viên của đảng bộ trường còn
bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định cả về nhận thức, trách nhiệm của các tổ
chức, các lực lượng; nội dung, hình thức, biện pháp chưa thật sát hợp, đôi khi
còn chạy theo số lượng đơn thuần, coi nhẹ, hạ thấp chất lượng, tiêu chuẩn đảng
viên hoặc xem nhẹ công tác phát triển đảng viên là sinh viên.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Thực trạng công tác phát triển đảng cho sinh viên
trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang” làm khóa luận tốt nghiệp Trung cấp
LLCT-HC, qua đó góp phần làm sáng tỏ lý luận, thực trạng và đề xuất những
giải pháp để nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên là sinh viên của
đảng bộ trường CĐ Ngô Gia Tự Bắc Giang là vấn đề có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn và mang tính cấp thiết.
2. Mục đích của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác phát triển đảng cho sinh
viên nói chung và trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang nói riêng.
- Làm rõ thực trạng công tác phát triển đảng cho sinh viên trường Cao đẳng
Ngô Gia Tự Bắc Giang hiện nay, đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác
phát triển đảng cho sinh viên trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới.
3. Đối tượng, phạm vi và giới hạn đề tài
3.1. Đối tượng
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng công tác phát triển đảng cho sinh viên
trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang.
- Đối tượng đánh giá: Đoàn viên thanh niên đang học tập tại trường Cao
đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng công tác phát triển đảng cho sinh viên trường Cao
đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang.
3.3. Giới hạn đề tài
Làm rõ thực trạng công tác phát triển đảng cho sinh viên trường Cao đẳng
Ngô Gia Tự Bắc Giang năm 2016, 2017, 2018 và đề xuất các giải pháp nhằm
đẩy mạnh công tác phát triển đảng cho sinh viên trường Cao đẳng Ngô Gia Tự
Bắc Giang đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá,… các tài liệu, các văn bản có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu như các chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch của Đảng, của
Đảng bộ trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang.
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp thống kê số liệu thông qua các báo cáo tổng kết công tác đảng
của trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang năm 2016, 2017, 2018.
Phương pháp điều tra khảo sát sử dụng câu hỏi lựa chọn đối với sinh viên
khóa 37.
5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm có 3 phần, 3 chương:
Phần A – Mở đầu
Phần B – Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn công tác phát triển đảng viên trong
sinh viên ở Đảng bộ trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay
Chương 2: Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở
Đảng bộ trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang
Chương 3: Phương hướng, giải pháp phát triển đảng viên trong sinh viên
ở Đảng bộ trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang trong thời gian tới
Phần C – Kết luận
4
B - NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG
VIÊN TRONG SINH VIÊN Ở ĐẢNG BỘ TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGÔ
GIA TỰ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Khái niệm
1.1.1 Khái niệm đảng viên
Đảng viên là thành viên của một chính đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua đã xác định:
“Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời
phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và
lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật
của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
1.1.2. Khái niệm công tác đảng viên
Công tác đảng viên là hệ thống các hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng và
của mỗi đảng viên nhằm xây dựng đội ngũ đảng viên không ngừng phát triển
vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ
chính trị của Đảng.
Công tác đảng viên bao gồm nhiều mặt công tác, như: kết nạp đảng viên;
giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao chất lượng đảng viên; phân công
nhiệm vụ để phát huy vai trò đảng viên; quản lý đảng viên; sàng lọc, đưa những
người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng,… Công tác đảng viên là trách
nhiệm của toàn Đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp tiến hành các mặt
công tác đảng viên.
1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng và đảng viên
C.Mác và Ph.Ăng ghen, những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản; khi bàn
về việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản đã khẳng định rằng, giai cấp vô
sản muốn giành được thắng lợi thì phải thành lập được chính đảng độc lập của
5
mình. Đây là một tổ chức chính trị bao gồm những đảng viên ưu tú, tự nguyện
có cùng mục đích, ra đời từ nhu cầu của cuộc đấu tranh nhằm trước hết bảo vệ
lợi ích của giai cấp mình.
Như vậy chính đảng ra đời chỉ khi đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là đấu
tranh chính trị đã đạt đến một trình độ nhất định và ở đó "ưu tú, tiến tiến, tự
nguyện có cùng mục đích" được nêu ra như những tiêu chuẩn. Về hình mẫu
người cộng sản, Mác đã giành toàn bộ chương II của tác phẩm “ Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản” bàn về bản chất người cộng sản, sự phân biệt người cộng
sản với người vô sản. “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” chỉ rõ “ vậy là về mặt
thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên
về lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”. Vai trò người
cộng sản, theo Mác, được khẳng định trên thực tế chính là nhờ cái "Chất" đặc
thù của họ "Bất cứ lúc nào người Cộng sản là những phần tử sáng suốt nhất,
tích cực nhất của nhóm, nên quyền lãnh đạo thuộc về họ". Nếu không có cái
chất ấy, không sáng suốt, không tích cực thì không thể nắm được quyền lãnh
đạo và dĩ nhiên không thể gọi là đảng viên cộng sản.
Là người trực tiếp soạn thảo Điều lệ Liên đoàn những người Cộng sản,
C.Mác đã đặt sự quan tâm hàng đầu của mình vào việc cụ thể hóa tiêu chuẩn
người đảng viên, lấy đó làm tiêu chí để phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh. Thành viên của Liên đoàn những
người Cộng sản phải có lối sống và hoạt động phù hợp với mục đích chung; có
nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành trong tuyên truyền, thừa nhận chủ nghĩa
cộng sản, không tham gia vào mọi tổ chức chống Cộng sản, phục tùng nghị
quyết, bí mật công việc của Liên đoàn và phải được chi bộ nhất trí kết nạp. Mác
cũng nêu ra một vấn đề có tính nguyên tắc "Ai không còn đủ những điều kiện ấy
sẽ bị khai trừ". Theo Mác việc giáo dục, rèn luyện đảng viên theo những tiêu
chuẩn đề ra, phát triển đảng viên, sàng lọc những người không đủ tiêu chuẩn ra
khỏi tổ chức, khỏi hàng ngũ những người Cộng sản chính là biện pháp quan
trọng nhằm xây dựng một đội ngũ đảng viên thực sự có chất lượng, phát huy
được vai trò trách nhiệm của mình trong cuộc đấu tranh vì mục đích của giai cấp
cộng sản.
Trung thành và kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen, Lênin
đã cống hiến rất lớn cả về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực xây dựng Đảng.
6
Trên cơ sở lý luận về Đảng của giai cấp vô sản của C.Mác và Ph.Ăng ghen và
kinh nghiệm trong phong trào công nhân, Lênin đã xây dựng một học thuyết
hoàn chỉnh về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Vấn đề xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đã được Lênin nêu
hết sức cụ thể trên cả ba lĩnh vực: phát triển đảng viên mới; sàng lọc đảng viên;
giáo dục và rèn luyện đảng viên.
Đối với công tác phát triển Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện trở thành đảng viên
được Lênin cho rằng, Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Do sự nghiệp của Đảng rất to lớn song cũng không ít khó khăn, Đảng chỉ hoàn
thành sứ mệnh của mình nếu Đảng luôn bổ sung vào hàng ngũ của mình những
chiến sĩ tiên phong. Lênin rất coi trọng vấn đề đảng viên, ông đã đấu tranh quyết
liệt chống lại những phần tử cơ hội chủ nghĩa xung quanh vấn đề điều kiện và
tiêu chuẩn đảng viên, Lênin đã nêu công thức nổi tiếng:“ Tất cả những người
nào thừa nhận cương lĩnh của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện
vật chất cũng như bằng cách tự mình tham gia một trong những tổ chức của
Đảng, thì được coi là đảng viên của Đảng” song Lênin cũng quan tâm đặc biệt
đến cái "Chất" của người đảng viên, ông đã chỉ rõ: "Chỉ lưu lại trong hàng ngũ
của Đảng những phần tử giác ngộ và thành thật trung thành với chủ nghĩa
cộng sản, những người dám gánh lấy những gánh nặng của một công tác, hy
sinh quên mình phục vụ chủ nghĩa cộng sản".
Sau khi giành được chính quyền, Lênin càng quan tâm đến việc nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên và quản lý đảng viên, ông khẳng định: Đảng độc
nhất nắm chính quyền trên thế giới quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng
viên, đến việc thanh trừ “ bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ của mình.
Không chỉ là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên, Lênin yêu cầu Đảng
phải thật sự quan tâm đế việc giữ vững danh hiệu đảng viên, quan tâm bồi
dưỡng nâng cao năng lực trình độ toàn diện, nhất là năng lực chuyên môn, năng
lực vận động quần chúng, phẩm chất, lối sống, động cơ của đảng viên, Lênin
nhấn mạnh "Cần phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian xảo, những đảng viên
Cộng sản quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược".
Lênin cũng đặc biệt quan tâm, chú trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện đảng viên
coi đây là một trong những biện pháp tích cực nhất nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên. Năng lực trí tuệ được coi như một tiêu chuẩn quan trọng của
người đảng viên "Người ta chỉ có thể trở thành người Cộng sản khi biết làm giàu
7
trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng trí tuệ mà nhân loại tạo
ra".
Lênin cũng đã chỉ ra rằng, để có thể thuận lợi trong việc quản lý đảng viên và
phát huy năng lực của họ, thì cần phải biết địa chỉ, nơi ở của từng đảng viên, hoặc
cần phải thành lập các chi bộ theo nguyên tắc lãnh thổ, tức là tập hợp đảng viên
theo nơi ở của họ, theo địa điểm làm việc trong một khu vực hành chính nào đó.
Như vậy, học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản đã đặt
vấn đề đảng viên như một trong những vấn đề hệ trọng nhất của lý luận xây
dựng Đảng. Những chỉ dẫn của Lênin về lập trường giai cấp, tính tổ chức và kỷ
luật của đảng viên, cũng như trình độ giác ngộ, phẩm chất đạo đức, năng lực
công tác, khả năng tổ chức giáo dục thuyết phục quần chúng của đảng viên…
luôn luôn có tính thời đại và ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với công tác xây dựng
Đảng. Chính những chỉ dẫn đó đã trở thành những tiêu chí cơ bản để xác định,
đánh giá một cách chính xác thực trạng tình hình Đảng và đảng viên trong từng
giai đoạn cách mạng cụ thể, để từ đó có biện pháp thiết thực, hiệu quả nhất xây
dựng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
1.2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta vượt qua bao thử thách để
trở thành một chính đảng Mác-Lênin vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế
thừa và phát huy sáng tạo tư tưởng của C.Mác – Ph.Ăngghen và Lênin về xây
dựng Đảng trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ
Chí Minh để lại cho chúng ta thì tư tưởng của Người về Đảng cộng sản Việt
Nam là một bộ phận quan trọng nhất. Người đặc biệt quan tâm đến công tác
đảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Trong di chúc của mình,
Người nhấn mạnh “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rằng: Đảng là mỗi chúng ta - mỗi
đảng viên lớn lên, vững mạnh lên là do mỗi chúng ta. Chính vì vậy, xây dựng
Đảng phải từ mỗi đảng viên. Theo Người “ Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải
mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt, mỗi
đảng viên tốt, mỗi chi bộ tốt là Đảng được mạnh thêm một phần: đảng viên kém,
chi bộ kém là những khâu yếu của Đảng”. Trong bài giảng cho những người
cách mạng trẻ Việt Nam năm 1927, vấn đề Người quan tâm là phải xác định rõ
8
“Tư cách một người cách mệnh” sau này trong nhiều bài viết, bài nói chuyện, tư
cách người đảng viên luôn được Hồ Chí Minh đề cập với sự quan tâm sâu sắc
nhấn mạnh “ đảng viên bất cứ làm gì cũng phải gương mẫu”, “ muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt trước”, "Đảng viên đi
trước, làng nước theo sau". Nghĩa là người đảng viên phải có trách nhiệm, có
nghĩa vụ đi đầu, là chiến sỹ tiên phong, là người công dân gương mẫu và cùng
nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, nhiệm vụ chính trị
của địa phương, đơn vị.
Khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, sau cách mạng tháng 8 năm 1945,
Người đã sớm giáo dục toàn Đảng nguy cơ thoái hóa về bản chất giai cấp công
nhân, sa vào tệ quan liêu hóa, xa rời quần chúng, trở thành tổ chức “làm quan”
vi phạm quyền làm chủ của dân, xa rời mục tiêu cách mạng của Đảng. Người đã
chỉ rõ 12 điều về “ tư cách của Đảng chân chính cách mạng”. Trong 12 điều đó
thì điều đầu tiên là “ Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó
phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng”.
Quan điểm xuyên suốt trong các tác phẩm của Người là Ðảng (nói chung) và
cán bộ, đảng viên (nói riêng) " phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân". Muốn vậy, Ðảng và cán bộ, đảng viên phải
không ngừng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân.
Người nhấn mạnh vai trò “ Người đầy tớ trung thành của nhân dân” của
người đảng viên cộng sản. Dù ở bất kỳ địa vị nào, làm công tác gì thì đảng viên
đều phải là đầy tớ của nhân dân. Nếu như Lênin thường nhấn mạnh tới vai trò
đảng viên là người lãnh đạo, người thầy, người lãnh tụ của nhân dân thì Hồ Chí
Minh lại bổ sung thêm vai trò “Người đầy tớ” của dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy
tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau mà gắn chặt, hoà quyện với nhau.
Đây là một luận điểm lớn được Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đồng thời cũng
là một quan điểm nhất quán khi Người xác định vai trò trách nhiệm của người
đảng viên.
Người khẳng định, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Đạo đức cách mạng của người đảng
viên là bất kỳ khó khăn nào cũng phải quyết tâm làm đúng chính sách và Nghị
quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng. Người nhấn mạnh: “Mọi đảng viên
phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn
9
ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân”, “ Người đảng viên, người cán
bộ tốt muốn trở lên người cách mạng chân chính , không có gì là khó cả. Điều
đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì tổ quốc, vì
đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư”.
Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức lên. Mọi
công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi Nghị quyết Đảng đều do đảng viên
chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần
chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực
hiện.”. Do vậy, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, quản lý tốt
đội ngũ đảng viên là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây
dựng Đảng, là một yếu tố quan trọng quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức Đảng.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về tư cách người đảng viên cộng sản là
thước đo, là chuẩn mực để đánh giá chất lượng đảng viên, là những yêu cầu
trong công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao chất lượng công tác phát triển đội
ngũ đảng viên trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Thấm nhuần lời dạy
của Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng phát huy tinh thần trách
nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên, góp
phần không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để đưa đất nước
ta phát triển nhanh, mạnh, và bền vững.
1.2.3. Quan điểm của Đảng ta
Trung thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta qua mọi giai đoạn
và mọi thời kỳ cách mạng đều coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức.
Ngay từ ngày thành lập Đảng đã xác định rõ tiêu chuẩn người đảng viên của
Đảng, đó là những vấn đề cốt tử, rất cơ bản mà mọi đảng viên nhất thiết phải có
và là tiêu chí phấn đấu, rèn luyện. Tiêu chuẩn đảng viên được phát triển, bổ
sung, hoàn thiện qua mỗi kỳ đại hội của Đảng nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự phát
triển nhiệm vụ cách mạng. Nắm vững những quan điểm của chủ nghĩa Mác–
Lênin về xây dựng Đảng, vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80
năm qua, Đảng ta khẳng định: Phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên theo yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng, gắn liền với việc
chỉnh đốn và phát triển đội ngũ đảng viên bảo đảm tiêu chuẩn, đó là yếu tố góp
phần quyết định nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
10
Đảng là một tổ chức chặt chẽ như một cơ thể sống hoàn chỉnh, trong đó mỗi
đảng viên là một tế bào của Đảng, đảng viên mạnh là yếu tố cơ bản làm cho
Đảng mạnh và ngược lại. Sự nghiệp cách mạng của nước ta do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, là một Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
bằng cương lĩnh, đường lối, bằng công tác tổ chức của Đảng và bằng sự gương
mẫu của đội ngũ đảng viên. Đường lối được thực hiện hiệu quả cao hay thấp phụ
thuộc rất nhiều vào vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Muốn đường lối của Đảng trở thành hành động cách mạng của quần chúng,
đòi hỏi đảng viên không những là chiến sỹ tiên phong trong hành động thực tiễn
mà còn phải biết vận động, thuyết phục, tổ chức quần chúng thực hiện. Cũng
chính thông qua tổ chức thực hiện đường lối của Đảng mà đảng viên được rèn
luyện và trưởng thành, làm cho tính tổ chức, tính kỷ luật, trí sáng tạo của người
đảng viên được nhân lên.
Trong tình hình hiện nay, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên,
quản lý đảng viên là một yêu cầu cấp bách. Chủ đề đại hội X đặt ra yêu cầu đầu
tiên trong bốn yêu cầu quan trọng trong thời kỳ cách mạng mới là: “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, Mục 2, phần XIV Báo cáo
chính trị tại đại hội X của Đảng nêu vấn đề: “Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt
nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ
đảng viên” điều này thể hiện quan điểm đúng đắn và quyết tâm chính trị lớn của
Đảng trong việc đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ của
thời kỳ mới, trong đó nâng cao chất lượng công tác phát triển, quản lý đội ngũ
đảng viên được xác định là một giải pháp quyết định.
Nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá X) đã
nêu rõ: “Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên còn bị buông lỏng, cấp uỷ và chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư
tưởng và phẩm chất của cán bộ, đảng viên, chưa chủ động dự báo và chuẩn bị
tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trước những diễn biến phức tạp và những vấn
đề mới, chưa có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý
kịp thời những đảng viên vi phạm”, “Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên,
trước hết là bí thư cấp uỷ và cán bộ, đảng viên thật sự tiền phong gương mẫu,
có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Kiên quyết thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất,
năng lực, không hoàn thành nhịêm vụ, đồng thời đưa ra khỏi Đảng những người
không đủ tư cách đảng viên”.
11
Năm 2011 toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã chứng kiến một sự kiện
chính trị hết sức quan trọng “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng
sản Việt Nam diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 1 năm 2011 tại thủ đô Hà
Nội. Đây là đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân
toàn quân ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến
giữa thế kỉ XXI bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Không những thế, một trong những nội dung cơ bản của báo cáo chính trị
tại Đại hội XII về công công tác “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” một lần nữa đề cập đến vần
đề “Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng Đảng viên”.
Tóm lại, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta, Đảng là sự liên kết giữa những con người cùng chung lý tưởng.
Đội ngũ đảng viên tốt thì Đảng sẽ mạnh, ngược lại Đảng mạnh sẽ tạo điều kiện
để đảng viên phấn đấu tốt, mỗi đảng viên phải luôn trau dồi đạo đức, tác phong
để trở thành một đảng viên tốt, bởi đảng viên tốt là nhân tố để hình thành tổ
chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Cho nên việc quan tâm đến chất lượng đội
ngũ đảng viên cũng chính là quan tâm đến sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
của Đảng.
1.3. Tính tất yếu công tác phát triển đảng viên trong sinh viên
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi
công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và có ý nghĩa sống còn đối với
Đảng. Trong công tác xây dựng Đảng thì công tác phát triển Đảng trong thanh
niên, sinh viên có vị trí hết sức quan trọng, vì vấn đề trẻ hóa và nâng cao trình
độ cho đội ngũ đảng viên là rất quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt và
lâu dài của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta luôn đánh giá đúng đắn bản chất cách mạng, tiềm năng to lớn của thanh
niên. Chính vì vậy, Đảng ta đặt niềm tin rất lớn và trao cho thế hệ trẻ nhiệm vụ
đi đầu xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc: “Sự nghiệp đổi mới có thành công
hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng
thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN
hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên”.
Sinh viên vừa là một bộ phận của thanh niên vừa là đội ngũ trí thức dự bị.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sinh viên vừa là một nguồn lực, vừa là một
12
bộ phận có những phẩm chất quý báu đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hòa đất nước. Do đó, đẩy mạnh công tác phát triển đảng
trong sinh viên để làm tăng số lượng và chất lượng đội ngũ đảng viên là một yêu
cầu khách quan. Chính vì vậy, Đảng ta rất coi trọng công tác phát triển Đảng
trong sinh viên ở các trường ĐH & CĐ.
Trong những năm qua, Đảng ta luôn có những chỉ thị, nghị quyết thể hiện
chủ trương, quan điểm của mình về việc đẩy mạnh công tác phát triển đảng
trong sinh viên. Một bước ngoặt quan trọng của Đảng trong việc đẩy mạnh công
tác trên là ngày 30/5/1998, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
ban hành Chỉ thị Số 34 – CT/TW “Về tăng cường công tác chính trị tư tưởng;
củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng trong
các trường học”. Chỉ thị xác định: “Cấp ủy, chi bộ ở các trường Đại học, Cao
đẳng và Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề cần làm tốt công tác tạo nguồn
phát triển đảng viên, nâng cao hơn tỉ lệ đảng viên trong số giáo viên trẻ và học
sinh, sinh viên”.
Chỉ thị Số 34- CT/TW của Bộ Chính trị ra đời, đã tạo động lực thúc đẩy
mạnh mẽ công tác phát triển đảng trong các trường học. Chỉ thị chỉ ra những
điểm yếu kém, nguyên nhân yếu kém đồng thời đề ra những yêu cầu và phương
hướng cụ thể để thực hiện những yêu cầu nhằm nâng cao chất lượng của công
tác phát triển đảng. Đây là một chỉ thị có tính mở đường cho công tác phát triển
đảng viên trong các trường học.
Tiếp sau Chỉ thị Số 34 – CT/TW, thông qua các kỳ Đại hội, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã cho ra đời nhiều chỉ thị, nghị quyết để tăng
cường hơn nữa và bảo đảm chất lượng của công tác phát triển đảng trong trường
học.
Tại Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng, Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan
trọng của công tác phát triển đảng và có bổ sung điều chỉnh trong bối cảnh mới
của đất nước. Đại hội XII, trong Báo cáo chính trị có nêu 1 trong những nhiệm
vụ trọng tâm là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Trong những năm qua, công tác phát triển đảng đã đạt được nhiều kết quả
cao. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn có những thiếu sót cả về nhận thức và tổ
chức thực hiện; chưa đáp ứng được yêu cầu kế thừa, phát triển và tăng cường
13
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đồng thời, nhắc nhở đến việc chú ý
phát triển đảng trong đoàn viên TNCS – HCM để trẻ hóa đội ngũ đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong sự nghiệp đổi mới của Đảng.
14
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
TRONG SINH VIÊN Ở ĐẢNG BỘ TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGÔ GIA TỰ
2.1. Đặc điểm tình hình trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang
Trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang là trường công lập, có lịch sử 59
năm xây dựng và phát triển. Sứ mạng của Nhà trường là đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên các bậc mầm non, tiểu học và trung học cơ sở có kiến thức, có kỹ
năng; cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển KT- XH của tỉnh nhà
và khu vực; góp phần phát triển KT- XH của đất nước.
Cơ cấu tổ chức của Nhà trường gồm: Ban Giám hiệu (01 hiệu trưởng và 03
phó hiệu trưởng); 05 phòng (Tổ chức cán bộ - Công tác Học sinh sinh viên, Đào
tạo- Khoa học, Khảo thí - Đảm bảo chất lượng, Hành chính - Quản trị, Kế hoạchTài chính); 01 trung tâm (Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh sinh viên);
04 khoa (Tiểu học - Mầm non, Trung học cơ sở, Ngoại ngữ - Tin học, Nhạc - Họa
- Thể dục); 01 bộ môn trực thuộc (Bộ môn chung); 01 tổ chức (Tổ chức Đảng
Cộng sản Việt Nam), 03 đoàn thể, hội (Công Đoàn trường, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên)
Tính đến 5/2019, Đảng bộ Trường CĐ Ngô Gia Tự Bắc Giang có 125 đảng
viên, sinh hoạt ở 11 chi bộ trực thuộc (trong đó, đảng viên chính thức: 109, đảng
viên dự bị: 16); đảng viên là cán bộ, giảng viên: 110 đồng chí; đảng viên là sinh
viên có 15 đồng chí.
Ban Chấp hành Đảng bộ Trường gồm 11 đồng chí (01/4/2018 có 01 Đảng ủy
viên nghỉ hưu, tháng 8/2018 bổ sung 01 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ
Trường); trong đó Thường vụ Đảng ủy có 03 đồng chí, Ủy ban kiểm tra Đảng ủy
có 03 đồng chí.
Tính đến tháng 5/2019, Nhà trường có tổng số 124 biên chế trong đó giảng
viên có 100, viên chức hành chính 24 (trong đó có 04 hợp đồng 68). Trình độ
chuyên môn nghiệp vụ: Giảng viên có 100 người (trong đó trình độ tiến sĩ, thạc
sĩ: 83 người chiếm tỷ lệ 83%; cử nhân có 17 người, chiếm tỷ lệ 17%). Viên chức
hành chính có 24 người (trong đó trình độ thạc sỹ 02 người chiếm tỷ lệ 8.33 %;
cử nhân và trình độ khác 22 người chiếm tỷ lệ 91,67%).
Năm học 2018- 2019, Nhà trường có 1.163 sinh viên, học viên, trong đó: hệ
chính quy là 950 sinh viên; hệ đại học liên kết là 529 học viên.
Thực hiện Chỉ thị Số 34-CT/TW, ngày 30-5-1998 của Bộ Chính trị, Ban
15
Thường vụ Đảng bộ Trường CĐ sư phạm Ngô Gia Tự Bắc Giang (nay là
Trường CĐ Ngô Gia Tự Bắc Giang) đã kịp thời tổ chức triển khai đến các chi bộ
và các đoàn thể quần chúng trong Trường; chỉ đạo các đơn vị Khoa, Phòng, Bộ
môn kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nhận thức về công tác phát triển
Đảng trong trường học cho đội ngũ giảng viên, nhất là đội ngũ giảng viên giảng
dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các môn khoa học
xã hội và nhân văn; kịp thời chỉ đạo Bộ môn chung, bổ sung kế hoạch giảng dạy
các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ đạo biên soạn giáo
trình giáo án, cải tiến phương pháp dạy và học trong trường. Đồng thời trong các
phương hướng nhiệm kỳ mới Đại hội đều xác định “Đẩy mạnh công tác phát
triển Đảng trong cán bộ công chức và sinh viên. Đảm bảo định kỳ mở lớp bồi
dưỡng nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam cho các đối tượng kết nạp đảng
để tạo đủ nguồn phát triển và bồi dưỡng cho đảng viên mới kết nạp”. Và đề ra
biện pháp thực hiện “Đẩy mạnh việc tuyên truyền phát triển Đảng, đặc biệt tăng
cường việc chỉ đạo kế hoạch phát hiện, bồi dưỡng các đối tượng Đảng trong lực
lượng cán bộ trẻ và trong sinh viên”. Đây là thể hiện sự quyết tâm của Đảng ủy
trường CĐ NGT BG trong việc đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong sinh
viên.
2.2. Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ
Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang
Trong 03 năm 2016, 2017, 2018, Đảng bộ trường CĐ NGT BG đã thực hiện
được sự quyết tâm trong việc đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong sinh
viên. Cụ thể:
- Năm 2016, có 3 đồng chí trưởng/ phụ trách đơn vị, đoàn thể được cử đi học
trung cấp lý luận chính trị. Đảng ủy đã cử 105 quần chúng ưu tú tham gia lớp
học bồi dưỡng nhận thức về Đảng (trong đó có 5 quần chúng là CB, VC nhà
trường và 100 quần chúng là HSSV nhà trường), kết quả 100% đạt yêu cầu và
được cấp chứng nhận hoàn thành khóa học.
- Năm 2017, có 2 đồng chí CBQL các đơn vị được cử đi học trung cấp lý
luận chính trị. Đảng ủy đã cử 95 quần chúng ưu tú tham gia lớp học bồi dưỡng
nhận thức về Đảng (quần chúng là sinh viên nhà trường), kết quả 100% đạt yêu
cầu và được cấp chứng nhận hoàn thành khóa học
- Năm 2018, có 4 CBQL các đơn vị đã hoàn thành chương trình trung cấp
LLCT-HC, có 4 đồng chí CBQL các đơn vị tiếp tục được cử đi học trung cấp
LLCT-HC tại Trường Chính trị của tỉnh. Đảng ủy đã cử 87 quần chúng ưu tú
16
tham gia lớp học bồi dưỡng nhận thức về Đảng (quần chúng là sinh viên nhà
trường), kết quả 100% đạt yêu cầu và được cấp chứng nhận hoàn thành khóa
học.
Ý thức bồi dưỡng và kết nạp đảng viên là sinh viên có tiến bộ rõ rệt ở các chi
bộ có sinh viên. Cụ thể:
- Năm 2016, Đảng ủy đã kết nạp được 19 quần chúng ưu tú vào đảng (trong
đó có 02 quần chúng ưu tú là CB, GV; 17 quần chúng ưu tú là SV). Chuyển
đảng chính thức cho 05 đảng viên dự bị đúng quy định; giới thiệu và chuyển
sinh hoạt về địa phương cho 19 đảng viên là sinh viên.
- Năm 2017, Đảng ủy đã kết nạp được 18 quần chúng ưu tú vào đảng (trong
đó có 03 quần chúng ưu tú là CB, GV; 15 quần chúng ưu tú là SV). Chuyển
đảng chính thức cho 04 đảng viên dự bị đúng quy định; giới thiệu và chuyển
sinh hoạt về địa phương cho 15 đảng viên là sinh viên.
- Năm 2018, Đảng ủy đã kết nạp được 16 quần chúng ưu tú vào đảng (trong đó có
01 quần chúng ưu tú là CB, GV; 15 quần chúng ưu tú là SV). Chuyển đảng chính thức
cho 03 đảng viên dự bị; giới thiệu và chuyển sinh hoạt về địa phương cho 16 đảng viên
là sinh viên, 07 đảng viên là cán bộ viên chức nghỉ hưu.
Kết nạp đảng viên mới
Cán bộ, giảng viên
Học sinh, Sinh viên
Tổng số
2016
2
17
19
2017
3
15
18
2018
1
15
16
Bảng 1: Kết quả kết nạp đảng viên năm 2016, 2017, 2018
(Nguồn Văn phòng Đảng ủy Trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang)
Kết nạp đảng viên mới
Năm
Học sinh, Sinh viên
Tổng số học sinh, sinh viên
Tỷ lệ
2016
17
1688
1.01%
2017
15
1460
1.03%
2018
15
950
1.58%
Bảng 2: Tỷ lệ sinh viên được kết nạp đảng năm 2016, 2017, 2018
(Nguồn Văn phòng Đảng ủy Trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc Giang)
Qua 2 bảng số liệu thống kê trên, cho chúng ta thấy từ năm 2016 đến tháng
12 năm 2018 số lượng sinh viên được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng
nhìn chung năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng
trong nhà trường nói chung và việc kết nạp đảng viên mới đối với sinh viên của
nhà trường chiếm tỷ lệ tương đối thấp.
Năm
Tháng 12/2018 tại Trường CĐ NGT BG, Đoàn TNCS - HCM trường tiến
- Xem thêm -