TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===
TRẦN THỊ BÍCH LY
TRIẾT LUẬN VỀ TUỔI TRẺ TRONG
TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===
TRẦN THỊ BÍCH LY
TRIẾT LUẬN VỀ TUỔI TRẺ TRONG
TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh,
người đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý
báu để tôi có thể hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy/cô giáo khoa
Ngữ văn - Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn cổ vũ,
động viên tôi trong suốt thời gian qua!
Do còn hạn chế về thời gian và trình độ chuyên môn nên khóa luận
không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến của các thầy/cô giáo,
các nhà khoa học cùng các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận
Trần Thị Bích Ly
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận Triết luận về tuổi trẻ trong truyện ngắn
Phan Thị Vàng Anh là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của TS Nguyễn Thị Tuyết Minh. Các số liệu, kết quả nghiên cứu là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận
Trần Thị Bích Ly
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................. 4
4. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu ................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 4
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 4
7. Cấu trúc của khóa luận............................................................................... 4
Chương 1. TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH TRONG DÒNG
CHẢY TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI .................................. 6
1.1. Vài nét về Phan Thị Vàng Anh và truyện ngắn .................................... 6
1.2. Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh trong đời sống văn học Việt Nam
đương đại ......................................................................................................... 7
1.3. Giới thuyết về tính triết luận ................................................................. 10
Chương 2. BIỂU HIỆN TRIẾT LUẬN VỀ TUỔI TRẺ TRONG
TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH................................................ 14
2.1. Tuổi trẻ với gia đình ................................................................................ 14
2.2. Tuổi trẻ với nhà trường........................................................................... 20
2.3. Tuổi trẻ với xã hội ................................................................................... 24
2.4. Tuổi trẻ với tình yêu ................................................................................ 26
Chương 3. HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TRIẾT LUẬN ... 30
VỀ TUỔI TRẺ TRONG TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH ..... 30
3.1. Lựa chọn và xây dựng thế giới nhân vật.............................................. 30
3.2. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 35
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ......................................................................... 38
KẾT LUẬN .................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 51
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học là nơi con người gửi gắm tâm tư, tình cảm, thể hiện tư tưởng
của mình về một vấn đề, một hiện tượng xã hội. Cuộc sống không ngừng vận
động, phát triển nên con người và văn học cũng có những vận động và đổi
thay. Văn xuôi Việt Nam sau 1986 đã đạt được thành tựu xuất sắc, từng bước
hội nhập với văn học hiện đại của thế giới, trong đó, truyện ngắn là thể loại có
được những thành tựu tiêu biểu.
Cùng với sự đóng góp của các nhà văn lớp trước, giờ đây xuất hiện
những cây bút truyện ngắn chủ lực: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ
Anh Thái… và Phan Thị Vàng Anh. Vàng Anh là một nhà văn trẻ, kể từ khi
tham gia cuộc thi truyện ngắn trên tạp chí Thế giới mới, chị đã được rất nhiều
độc giả biết đến và yêu mến. Sự xuất hiện của hiện tượng Phan Thị Vàng Anh
đã góp phần đem đến cho văn học Việt Nam đương đại một hơi thở mới, một
sức sống mới. Tác phẩm của chị có nhiều lớp nghĩa, mang tính triết luận sâu
sắc, giáo dục nhân cách những người trẻ. Truyện của chị thường ngắn gọn,
súc tích, thâm thúy mà dư ba ý nghĩa. Đây là lí do khiến truyện của chị tạo
được hứng thú cho bạn đọc cũng như giới nghiên cứu phê bình văn học.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Triết
luận về tuổi trẻ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh. Thực hiện đề tài này,
chúng tôi muốn một lần nữa khẳng định tài năng, vị trí và đóng góp của Phan
Thị Vàng Anh đối với văn đàn Việt Nam. Chúng tôi hi vọng sẽ góp phần vào
việc phát hiện vẻ đẹp của truyện ngắn Việt Nam đương đại nói chung, truyện
ngắn của Phan Thị Vàng Anh nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Là một nhà văn trẻ sớm tạo được phong cách trên văn đàn nên truyện ngắn
của Vàng Anh thu hút được sự chú ý đáng kể của giới nghiên cứu, phê bình.
1
Nhà văn, dịch giả Huỳnh Phan Anh cho rằng “Vàng Anh là một tài năng
trẻ, một cây bút nhà nòi, một nhà văn đã sớm định hình từ tập truyện ngắn
đầu tay, một giải thưởng quốc gia dành cho nhà văn trẻ… và còn gì nữa? Tất
cả đều đúng, nhưng tôi không quên rằng vượt lên trên những thông tin đó, tác
phẩm của Vàng Anh hay bất luận của ai khác dù bao người đã đọc tới và nói
tới, vẫn còn và mãi mãi vẫn còn là một sự chờ đợi, một thách thức” [1, 16].
Huỳnh Phan Anh đánh giá về hai tập truyện ngắn Khi người ta trẻ và Hội chợ
của Phan Thị Vàng Anh như sau: “Hai tập truyện ra đời trong khoảng cách
hai năm, mỏng manh như nhau, bao gồm những truyện ngắn thường, có khi
rất ngắn, bấy nhiêu cho một thế hệ đang hình thành, sinh sôi nảy nở, một thế
giới không ngớt trở về trên những trang giấy ấy, đang kêu gọi, bổ sung cho
nhau, vẫn là nó nhưng không đơn giản là nó, bởi nó luôn được vén mở, soi
rọi thêm, nó luôn tìm kiếm những bến bờ và những chiều sâu mới” [2, 18].
Huỳnh Như Phương đánh giá: “Sự xuất hiện của Vàng Anh đã đem đến
một không khí mới cho đời sống văn học thời bấy giờ”. Truyện ngắn của
Vàng Anh hấp dẫn người đọc là ở chỗ “Vàng Anh biết cách lạ hóa những điều
quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng chừng nhạt nhẽo”, “Văn
chương của Vàng Anh là trò chơi nói bằng ngôn ngữ của trò chơi” và “trong
thế giới của Vàng Anh những sự vật gần gũi nhất lại đưa con người đến xa
nhất”. Huỳnh Như Phương nhấn mạnh: “Cái thế giới được miêu tả trong Khi
người ta trẻ có phần giống với một số sân chơi, ở đó, các nhân vật chơi đủ
thứ, từ những trò “ấm ớ” “vớ va vớ vẩn” cho đến những trò “điên rồ”,
“ngông cuồng” nhất. Sự liên tưởng có cái lý của nó. Sau những mệt mỏi
trước việc đời, điều duy nhất làm cho các nhân vật của Phan Thị Vàng Anh
có một chút nghị lực tiếp tục sống là trở về với ý niệm rằng mình đang tham
gia một cuộc chơi” [7, 3].
2
Nguyễn Trương Quý cho rằng: “Mỗi một vấn đề được nói đến như một
nét cọ đậm màu, làm thay đổi cục diện, cung cấp cách nhìn khác về bức tranh
vốn lòa xòa màu sắc, vẽ cuộc sống của người trẻ với những nỗi buồn nhàn
nhạt, những con đường sống lơ mơ, những thái độ yêu ghét nửa vời” [7, 4].
Vương Trí Nhàn cho rằng: “Từ những trang viết của Phan Thị Vàng
Anh, người ta bắt gặp một lớp trẻ có diện mạo khác, mà nét căn bản là một đời
sống tinh thần sâu sắc, tinh tế, được ánh sáng của văn hóa hướng dẫn” [13].
Hồ Thế Hà khẳng định: “Thế giới của Vàng Anh riêng và lạ lắm. Trước
hết, nó rất ngắn, ngắn chỉ vài ba trang in mà người ta thường gọi là truyện
ngắn mi ni. Ngắn nhưng lại chứa đựng nhiều ý tưởng, nhiều mối quan hệ đời
sống và tất cả lại được chứa trong ngôn ngữ và kiểu viết tình cờ, tự nhiên như
không phải đó là văn chương vậy” [7, 4].
Trần Ngọc Hiếu nhận xét: “Truyện của Vàng Anh trong khi tưởng như
đang kể những chuyện vặt vãnh, nhỏ nhặt hay bông đùa, đặt ta đối diện với
một thế giới đang mất đi ý nghĩa, sự chờ đợi vô nghĩa, tình yêu vô nghĩa,
những ngày đi học đi làm vô nghĩa… Văn chương của Vàng Anh là một đề
nghị thẳng thắn, một khẳng định bộc trực nhưng không đến mức gây hấn,
khiêu khích về quyền được khác, được lạ trong cách nhìn và cách viết” [6].
Nguyễn Thị Bình với con mắt tinh tường của một người nghệ sĩ bà đã
nhận ra những đóng góp của các nhà văn trẻ trong tiến trình đổi mới văn học,
trong đó có Phan Thị Vàng Anh. Bà nhận định: “Nhìn chung ưu thế về tốc độ
- ngôn ngữ cũng như trong sinh hoạt – thuộc về lớp trẻ. Vàng Anh viết cứ
“như chơi” mà lột tả thật chính xác cái nhịp điệu cuộc sống, nhịp điệu tâm lí
của bao nhiêu hạng người, bao nhiêu lứa tuổi” [3, 117].
Nhìn chung, truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh được nhiều nhà nghiên
cứu, phê bình văn học đánh giá cao. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu
tìm hiểu vấn đề triết luận về tuổi trẻ. Đây là khoảng trống để chúng tôi đi sâu
3
nghiên cứu đề tài khóa luận. Chúng tôi xem ý kiến của các nhà nghiên cứu là
những gợi ý quan trọng để đi sâu tìm hiểu triết luận về tuổi trẻ trong truyện
ngắn Phan Thị Vàng Anh.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Triết luận về tuổi trẻ trong
truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh.
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là tuyển tập Truyện ngắn Phan Thị
Vàng Anh, do NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2011.
4. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu
Nhiệm vụ của khóa luận là khái quát các biểu hiện của triết luận về tuổi
trẻ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh.
Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu và chỉ ra vai trò của tính triết luận
trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh. Từ đó, thấy được đóng góp và khẳng
định tài năng của nhà văn ở thể loại truyện ngắn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chủ yếu như: phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu…
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận tập trung nghiên cứu tính triết luận trong truyện ngắn Phan
Thị Vàng Anh; tìm hiểu và chỉ ra vai trò của tính triết luận trong truyện ngắn
của tác giả. Qua đó, thấy được điểm khác biệt cũng như đóng góp của Vàng
Anh đối với thể loại truyện ngắn đương đại.
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm có 3 chương chính:
Chương 1: Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh trong dòng chảy truyện
ngắn Việt Nam đương đại.
4
Chương 2: Biểu hiện triết luận về tuổi trẻ trong truyện ngắn Phan Thị
Vàng Anh.
Chương 3: Hình thức thể hiện triết luận về tuổi trẻ trong truyện ngắn
Phan Thị Vàng Anh
5
Chương 1
TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH TRONG DÒNG CHẢY
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Vài nét về Phan Thị Vàng Anh và truyện ngắn
Phan Thị Vàng Anh sinh ngày 18 tháng 8 năm 1968 tại Hà Nội, quê
gốc ở huyện Cam Lộc, tỉnh Quảng Trị. Chị là con gái của nhà thơ Chế Lan
Viên và nhà văn Vũ Thị Thường. Cả bố và mẹ đều là những nhà thơ, nhà văn
nên tình yêu thơ văn sớm được hình thành và nuôi dưỡng, Vàng Anh học tập
được từ cha giọng thơ đầy triết lí, học được từ mẹ sự nhẹ nhàng nhưng rắn rỏi
và cương nghị từ những câu văn. Đó là nguồn cội tạo nên một hiện tượng
truyện ngắn độc và lạ - Vàng Anh trên văn đàn đương đại.
Từ khi mới 7 tuổi, Vàng Anh đã xuất hiện tư chất nghệ sĩ với bài thơ
Mèo con đi học. Bài thơ thật dễ thương, ngộ nghĩnh và rất hồn nhiên của cô
bé Vàng Anh lúc bấy giờ. Dù yêu thích văn chương từ nhỏ nhưng lớn lên chị
lại thi đỗ vào trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và tốt nghiệp
năm 1993. Là một bác sĩ trẻ khi mới ra trường, chị đã thử sức ở nhiều nơi
khác nhau, giúp đỡ nhiều bệnh nhân nhưng trong con người ấy dòng máu văn
chương vẫn căng tràn sức sống. Con đường sự nghiệp của chị có thể nói, đang
rất thuận lợi mà bao nhiêu người mơ ước nhưng chị đã chấp nhận từ bỏ sự
nghiệp, từ bỏ nghề bác sĩ cứu người để đi theo nghiệp văn chương.
Phan Thị Vàng Anh là một cây bút có tài, ngay từ tác phẩm đầu tiên
Hoa muộn (1995) đã được các nhà nghiên cứu phê bình đánh giá rất cao. Chị
thử sức mình trên nhiều lĩnh vực như làm thơ, viết truyện ngắn, viết báo, viết
kịch bản phim… và đã đạt được thành công đáng ghi nhận. Chị còn viết tạp
văn và kí với bút danh Thảo Hảo. Khi Hoa muộn ra đời, Nguyễn Khải khẳng
định, đây là “một cây bút có tài” (Nguyễn Khải, Văn nghệ Trẻ số 01/1995).
Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương kết luận: “Đứng trước một thế giới văn
6
chương đang già cỗi, hay nói đúng hơn là đang có nguy cơ già cỗi, tác phẩm
của Phan Thị Vàng Anh cũng như một số cây bút mới xuất hiện những năm
gần đây là thứ văn chương "khi người ta trẻ” [17]. Chị cùng với Trần Đăng
Khoa, Hồ Anh Thái được bầu vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
nhiệm kì VII với số phiếu rất cao.
Phan Thị Vàng Anh đã thử bút trên nhiều lĩnh vực như thơ, truyện
ngắn, tạp văn, kịch nhưng thành công nhất chính là truyện ngắn. Truyện ngắn
của Vàng Anh được người đọc hồ hởi đón nhận vì nó mang dáng vẻ hiện đại
trẻ trung và đầy cá tính của người trẻ. Truyện của chị nói hộ suy nghĩ, hành
động của người trẻ để những người xung quanh có thể hiểu, đồng cảm và
cùng suy ngẫm. Mỗi truyện đều để lại trong lòng bạn đọc những dư vị của
cuộc sống.
Trong khoảng 20 năm gắn bó với cây bút và sáng tác truyện ngắn,
Vàng Anh đã cho ra đời khoảng 50 truyện ngắn được tập hợp trong ba tập:
Khi người ta trẻ, Hội chợ và Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh. Chị là một cây
bút sắc sảo, tinh tế, mang tinh thần của thời đại.
1.2. Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh trong đời sống văn học Việt Nam
đương đại
Sau 1975 cuộc sống của con người có nhiều biến động kéo theo sự thay
đổi của văn học. Nếu như trong giai đoạn 1945-1975 các nhà thơ, nhà văn tập
trung ca ngợi cuộc chiến đấu của dân tộc ta với những chiến thắng vang dội,
ca ngợi những người anh hùng, những người đã hi sinh cho đất nước cho tổ
quốc. Văn học thời kì ấy gắn với khuynh hướng sử thi, gắn với cái ta chung
để cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc. Thì bây giờ các văn nghệ sĩ tập
trung khai thác đề tài thế sự, đời tư, bày tỏ quan điểm, tư tưởng của cá nhân
trước hiện thực cuộc sống. Nếu trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ
thể loại được các văn nghệ sĩ tìm đến nhiều nhất đó là thơ thì sau thời kì đổi
7
mới, văn học đã có sự thay đổi. Thể loại được tìm đến nhiều nhất đó chính là
truyện ngắn, bởi nó có những ưu thế riêng như ngắn gọn, dồn nén và cơ động
giúp người đọc có thể khám phá một cách nhanh chóng, đầy đủ và hoàn thiện
những nội dung mà nhà văn đề cập trong văn bản.
Truyện ngắn đương đại có lực lượng người viết đông đảo như: Nguyễn
Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Võ Thị Xuân Hà, Y Ban, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích
Thúy, Nguyễn Ngọc Tư… Đây là những gương mặt tiêu biểu thể hiện tính
cách, phong cách độc đáo, táo bạo mang những dấu ấn riêng làm phong phú
nền Văn học Việt Nam đương đại. Truyện ngắn đương đại thể hiện một cái
nhìn mới mẻ đa dạng về cuộc sống. Đó có thể là sự đồng cảm, xót thương về
“nỗi đau thời hậu chiến” như Người đàn bà với những bông bần ly - Dương
Thu Hương, đó có thể là sự hận thù được ươm mầm trong tâm trí của những
người con về việc làm của cha mẹ, làm cho tâm hồn của những đứa trẻ bị vấy
bẩn như Cánh đồng bất tận - Nguyễn Ngọc Tư. Hay là những suy nghĩ, hành
động bồng bột của những người trẻ, mê muội trong tình yêu, hi sinh tất cả để
cuối cùng nhận lại những nỗi đau khó lành như Khi người ta trẻ - Phan Thị
Vàng Anh… Mỗi truyện là một trăn trở của người trẻ về lẽ đời, về thực tại, về
quá khứ, về tương lai… Nhà văn đương đại không chỉ khắc họa nỗi đau tinh
thần mà còn dùng ngòi bút thể hiện những khát khao, hi vọng, khẳng định sự
tự ý thức của con người.
Sự xuất hiện của các nhà văn nữ đã làm cho truyện ngắn đương đại có sự
đổi mới trong sáng tạo, thể hiện được ý thức về con người cá nhân, thoải mái
phơi bày cuộc sống cá nhân ở chiều sâu bản thể. Với cái nhìn sâu sắc rất nữ
tính về chiến tranh, về cuộc sống, về cách suy nghĩ trong tình yêu, trong gia
đình, xã hội… họ đã đem đến cho độc giả những tác phẩm truyện ngắn mang
dấu ấn rất riêng của người nữ. Truyện ngắn nữ Việt Nam ra đời còn thể hiện
8
những quan điểm nghệ thuật mới mẻ, ta có thể thấy ngay trong cách lựa chọn
đề tài của các nhà văn. Cũng là cuộc sống thường ngày nhưng những câu
chuyện ấy không phải là những câu chuyện cổ tích được kể lại bằng những
ngôn từ sáo rỗng nữa mà các nhà văn đã “bới đào trong đống đổ nát của lịch
sử, nhặt nhạnh từng mảnh vỡ, thậm chí là cả những cái cặn bã, thừa mứa của
lịch sử tưởng chừng như đã vứt đi, rồi mầy mò, gắn kết lại thành một cái hiện
thực khác trông thật dị dạng và rất đáng hồ nghi, nhưng nhất quyết đấy cũng
là một hiện thực” (Đỗ Ngọc Yên - Văn học hiện đại- một góc nhìn). Đó có thể
là những mảnh ghép của tình yêu, của hạnh phúc, hôn nhân. Đó có thể là
những khát khao, những cung bậc cảm xúc của những người trẻ trước những
quyết định về cuộc đời.
Phan Thị Vàng Anh là một trong số những nhà văn nữ trẻ đương đại và
chị đã thành công trong sự nghiệp viết văn của mình với thể loại truyện
ngắn.Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh chứa đựng những triết lí về tuổi trẻ,
“luôn trăn trở về lối sống và nhân cách con người với cái nhìn đầy trải
nghiệm và lối tư duy sắc sảo, khách quan” [7, 11]. Đọc truyện ngắn Phan Thị
Vàng Anh, không có truyện ngắn nào là không thể hiện những triết lí sâu sắc
về tuổi trẻ và chúng ta nhận ra rằng đó chính là những kinh nghiệm, là sự
từng trải của chính tác giả. Vàng Anh đã đặt nhân vật của mình - những người
trẻ trong mối quan hệ với gia đình, với nhà trường, với xã hội, với tình yêu để
lắng nghe suy tư của họ.
Độc giả trẻ tuổi tìm đến những trang văn của Vàng Anh sẽ suy nghĩ,
dằn vặt và nhìn lại chính bản thân mình. Bởi họ thấy bóng dáng của mình
trong đó. Vàng Anh đã đem đến những phát hiện mới mẻ ngay từ những điều
bình dị của cuộc sống thường ngày.
9
1.3. Giới thuyết về tính triết luận
Trong văn học chúng ta thường nghe nói đến khái niệm “triết lí” nhiều
hơn là “triết luận”. Nhưng khi đến với văn học hiện đại khái niệm này được
sử dụng nhiều hơn và được giới các nhà nghiên cứu phê bình sử dụng để chỉ
một phẩm chất, một khuynh hướng sáng tác văn học, đặc biệt là trong văn
xuôi hiện đại.
Trong văn học thời kì trung đại, chúng ta thường thấy “văn- sử- triết”,
hay “văn- triết” bất phân, tức là trong văn học luôn tồn tại triết học và ngược
lại; đó chính là sự đan xen giữa tư duy lí luận và tư duy hình tượng trong tác
phẩm văn học. “Triết” là những triết luận, triết lí và liên quan đến triết học.
“Luận” là bàn luận, tranh luận, đánh giá, lí giải… những vấn đề xung quanh
cuộc sống. “Triết luận” là bàn luận, lí giải, là kết quả của sự chiêm nghiệm
trong cuộc sống. Triết luận trong văn học là những vấn đề triết học được tác
giả thể hiện trong tác phẩm văn học một cách tiềm ẩn. Tính triết luận trong
tác phẩm văn học được hiện diện trên hai phương diện “nội dung triết luận”
và “hình thức triết luận”. Thông qua thế giới nghệ thuật, người nghệ sĩ thể
hiện những chiêm nghiệm, kinh nghiệm của bản thân về cuộc sống. Nhu cầu
nhận thức trên tinh thần triết học khiến xu hướng triết luận xuất hiện.
Năm 1986 là dấu mốc lịch sử làm thay đổi vận mệnh của đất nước ta và
văn học cũng không ngoại lệ. Từ đây sự thay đổi mang tính bước ngoặt đã
làm thay đổi quan niệm giữa văn học và hiện thực, thay đổi quan niệm nghệ
thuật về con người. Nếu trước đây các nhà văn sáng tác theo khuynh hướng
sử thi, ca ngợi lịch sử hào hùng thì sau 1986 họ tập trung vào các khuynh
hướng mới như khuynh hướng nhận thức lại, khuynh hướng thế sự đời tư,
khuynh hướng triết luận… Phản ánh hiện thực giờ đây không phải là mục
đích cuối cùng của người nghệ sĩ mà chỉ là những phương tiện để họ bày tỏ
chiêm nghiệm, những suy nghĩ và tư tưởng riêng.
10
Thế hệ các nhà văn lớp trước như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân,
Hồ Phương, Lê Lựu, Võ Huy Tâm, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Trí Huân… là những nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ. Khi đất nước đã hoàn toàn độc lập tự do, cuộc sống
thực tại có nhiều những biến động bắt buộc họ phải vận động để đáp ứng
được nhu cầu của hiện tại. Họ cảm thấy cần phải thay đổi, không thể sống mãi
trong sự hào nhoáng của những bản anh hùng ca lịch sử nữa. Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu… là những cây bút đầu tiên tiên phong trong
công cuộc đổi mới, “dám vặn cổ chính mình để hướng về phía trước”. Tiếp
nối các nhà văn ấy là một lực lượng đông đảo các nhà văn trẻ xuất hiện và
khuynh hướng triết luận là khuynh hướng được các nhà văn quan tâm hàng
đầu. Bởi phản ánh hiện thực giờ đây không phải là mục đích cuối cùng mà
người nghệ sĩ muốn hướng tới mà chỉ là những phương tiện để nhà văn bày tỏ
những chiêm nghiệm, kinh nghiệm, những suy nghĩ, tư tưởng của nhà văn…
Văn học ngày càng đa dạng và phong phú trong việc lựa chọn đề tài,
phản ánh hiện thực cuộc sống cũng như những hình thức thể hiện. Người
nghệ sĩ khi thể hiện tính triết luận trong một tác phẩm văn học là ở đó tác giả
đã đề cập đến những vấn đề mang tính thời sự, chính trị được mọi người quan
tâm và chú ý. Qua các tác phẩm văn học đó nhà văn muốn gửi gắm những bài
học nhận thức, những ý tưởng sâu sắc về cuộc đời về con người, từ đó khái
quát nên những chân lí phổ quát nhất, toàn diện nhất. Nhà văn là người có vai
trò quan trọng trong việc khái quát và thể hiện những chân lí, những triết luận
ấy. Trong các tác phẩm mang tính triết luận ta có thể thấy ở đó có sự tranh
luận, có những cuộc đối thoại, những lí lẽ lí sự về các vấn đề có chiều sâu
triết học. Đối với độc giả khi tiếp cận một tác phẩm văn học không phải chỉ
để giải trí, để thoải mái tâm hồn, để tìm kiếm cái đẹp trong cuộc sống, để
đồng cảm với con người mà họ tìm đến với văn chương còn để thỏa mãn nhu
11
cầu bàn bạc, suy tư, chiêm nghiệm để rút ra những bài học quý giá, những
triết lí sâu sắc và những quy luật hiển nhiên vốn có của cuộc sống. Từ đó
chúng ta hiểu đời và hiểu mình hơn, sống một cuộc sống có ích, phù hợp,
không lạc hậu với cuộc sống thực tại.
Nguyễn Khải là cây bút văn xuôi được xem là thành công nhất với thể
loại truyện ngắn đi theo khuynh hướng triết luận. Nếu như trong tác phẩm của
Nguyễn Khải là những “bàn luận lớn dân chủ và bình đẳng”, đó là những
quy luật nhân sinh, thể hiện mối quan hệ giữa con người với thời thế, phản
ánh lối sống văn hóa của con người hiện nay (Một người Hà Nội, Sống ở đời,
Danh dự, Một thời gió bụi, Má đào…), khi chúng ta đến với Phan Thị Vàng
Anh chúng ta sẽ bắt gặp những triết luận thì ngay trong những chuyện nhỏ
nhặt của cuộc sống. Phan Thị Vàng Anh đã mạnh dạn theo gót chân của
Nguyễn Khải đem tính triết luận vào trong văn xuôi. Bất cứ nhà văn nào khi
viết ra tác phẩm của mình đều muốn phản ánh hiện thực đời sống và rồi gửi
gắm vào đó những triết lí, những tư tưởng, những bài học bài học sâu sắc. Ta
có thể khẳng định rằng triết luận chính là con đường đi đến triết lí, để dẫn đến
những khát quát có tầm cao tư tưởng. Có rất nhiều con đường để chạm được
cái đích triết lí nhưng Phan Thị Vàng Anh đã chọn con đường triết luận bằng
đối thoại nội tâm, bằng những tranh luận giằn vặt trong suy nghĩ của nhân
vật…
Đọc truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh chúng ta sẽ bắt gặp những triết
luận ngay từ những chuyện nhỏ nhặt của cuộc sống. Đó là câu chuyện của
những người trẻ, là cảm xúc, là suy nghĩ và hành động của tuổi mới lớn luôn
muốn khẳng định mình nhưng vẫn còn những chông chênh, bất ổn trong tâm
lí. Truyện ngắn của chị vừa trẻ trung nhưng cũng vừa chững chạc và luôn
đượm nét nhân bản. Truyện của chị đã trở thành cầu nối giữa nhà văn và độc
giả, cầu nối giữa người từng trải, có kinh nghiệm với những người trẻ tuổi…
12
Tác phẩm của chị góp phần làm thức tỉnh một bộ phận những người trẻ “hồn
nhiên vô cảm” với chính cuộc sống của họ.
Triết luận về tuổi trẻ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh đã lôi cuốn
được nhiều độc giả bởi Vàng Anh đã đem đến những phát hiện mới mẻ, nhân
vật có chiều sâu suy nghĩ. Khi tìm hiểu về truyện ngắn của Phan Thị Vàng
Anh chúng ta không thể bỏ qua đặc điểm này bởi nó chính là điểm nhấn làm
nên sự thành công trong sự nghiệp sáng tác của chị. Triết luận về tuổi trẻ đã
chi phối mạnh mẽ đến nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên một nét
riêng, độc đáo được đánh giá cao ngay từ những tác phẩm đầu tiên của Phan
Thị Vàng Anh.
13
Chương 2
BIỂU HIỆN TRIẾT LUẬN VỀ TUỔI TRẺ
TRONG TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH
Phan Thị Vàng Anh đã tái hiện lại bức tranh hiện thực cuộc sống với
nhiều màu sắc đa dạng. Truyện ngắn của chị vừa trẻ trung nhưng cũng vừa
chững chạc và luôn đượm nét nhân bản. Đó là những câu chuyện tưởng chừng
như nhỏ nhặt, “vặt vãnh” nhưng lại ẩn chứa nhiều điều sâu sắc, ý nghĩa. Đối
tượng chính mà Phan Thị Vàng Anh muốn đề cập đến đó chính là cuộc sống
của giới trẻ trong xã hội đương đại trong mối quan hệ với gia đình, với nhà
trường, với xã hội và với tình yêu.
2.1. Tuổi trẻ với gia đình
Sau 1975, đất nước hòa bình, con người trở lại với cuộc sống đời thường
với những nhu cầu cùng bao vấn đề phức tạp nảy sinh. Gia đình – hình ảnh
một xã hội thu nhỏ đang phải đối mặt với bao đổi thay. Gia đình chính là nơi
bình yên nhất của mỗi con người, bởi ngoài kia cuộc sống vất vả, bon chen,
xô bồ nhiều khi làm con người ta gục ngã, mất niềm tin, hi vọng. Ở đó có
những người thân yêu để mỗi cá nhân có thể sẻ chia những vui buồn. Sự thay
đổi của xã hội hiện đại đã kéo theo sự thay đổi của mỗi gia đình, khiến cho sự
gắn kết giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo. Trong thời kì đổi
mới, đã có rất nhiều nhà văn viết về gia đình để khẳng định giá trị của nó như:
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu)… Tất cả đều thể hiện bức
tranh gia đình với tất cả sự đa dạng, bí ẩn và phức tạp. Trong con mắt của
Vàng Anh, mỗi thành viên trong gia đình giờ đây là một vũ trụ khép kín, họ
thu mình trong cái vỏ bọc của sự cô đơn. Những tình cảm tốt đẹp, thiêng liêng
trong gia đình như tình cha - con, anh – em bị rạn nứt. Cha mẹ - những người
trưởng thành có kinh nghiệm và quyền lực trong gia đình luôn cho rằng, con
14
cái mình dù đã lớn nhưng vẫn cần phải bao bọc. Nhưng chính sự quan tâm ấy
lại trở thành sự áp đặt cho con cái.
Những người trẻ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh tự thu mình
trong cái bao khép kín vì cuộc sống quá tẻ nhạt và buồn chán. Những người
làm cha, làm mẹ không hiểu con cái họ đang nghĩ và muốn gì, còn con cái thì
luôn cho rằng cha mẹ cổ hủ, lỗi thời. Và họ cảm thấy cô đơn ngay chính trong
gia đình của mình, cô đơn ở chính nơi mà lẽ ra phải ấm áp và bình an nhất.
Vàng Anh đề cập đến xung đột giữa các thế hệ trong gia đình. Ở đó có sự bất
đồng về quan điểm giữa con cái và bố mẹ khiến mối quan hệ trở nên lỏng lẻo,
rời rạc, khoảng cách giữa các thành viên trở nên xa cách. Truyện ngắn Hoài
cổ kể về một buổi lễ cúng đình với nhiều nghi lễ cổ xưa. Nhân vật “tôi” cùng
bạn của mình là Lữ theo mẹ và chị Tương đi xem lễ. Trước giờ đi xem lễ, mẹ
và chị Tương luôn lo lắng trời sẽ mưa, lo lắng của họ khiến nhân vật “tôi” khó
chịu và phải gắt lên “mưa sao được mà mưa, cuối mùa rồi, cuối năm rồi, chọc
cũng không ra nước”. Bạn của cô thì khó chịu “chịu không nổi cái đám phụ
nữ tẩn mẩn vô ích này”. “Tôi” đã cảm nhận được ngay sự khác lạ của mẹ và
chị Tương: “Mẹ tôi và chị Tương xúng xính áo dài. Vào trong điện, mẹ tôi tự
nhiên lôi ra một cái quạt giấy màu nâu, phe phẩy; chị Tương rút kính cận ra
đeo, chăm chú đọc mấy chữ nho thếp vàng trên cột. Cả hai trông đều già nua
hẳn đi, lạ lẫm, hình như họ không còn là của tôi, họ đang ở một thế giới khác
của nghi lễ, phẩm phục” [2, 142].
Ngồi trong điện chờ đợi đến giờ làm lễ, tôi và Lữ nhận ra rằng văn hóa,
tín ngưỡng… tất cả những gì thuộc về thế hệ trước thật rườm rà và khó hiểu
biết bao. Để bắt đầu cho buổi lễ: “Hàng chục ông già khăn đóng, áo dài lụa
xanh niêng niễng, hàng chục bà già áo dài màu tăm tối: cánh dán hay xam
xám, những búi tóc giả đen nhẫy, mặt trang điểm theo kiểu cổ, lông mày vẽ
mảnh như sợi chỉ, ngồi rù rì nhai trầu” khiến Lữ phải thốt lên “Kinh quá!
Toàn người già” [2, 143].
15
- Xem thêm -